ĐỜI SỐNG TU DÒNG: TỪ HỖN LOẠN ĐẾN THỜI CƠ?
Lm. Victor Codina, SJ
La Civiltà Cattolica 22.4.2022
Dẫn nhập
Các nhà sử học về đời sống tu dòng biết rõ: trong tiến trình lịch sử Giáo hội, một số dòng tu, cả nam và nữ, sau nhiều năm hoạt động hiệu quả thì đã phải biến mất. Họ cũng biết rằng mỗi chu kỳ mới của đời sống tu dòng - sự chuyển đổi từ lối sống đan tu sang lối sống khất thực, từ lối sống khất thực sang làm việc tông đồ hiện đại - một cách nào đó đã đẩy chu kỳ trước đó vào khủng hoảng. Cần có thời gian để phục hồi và thích nghi. Đây là một quá trình tích cực: đời sống tu dòng phương Tây đã được phong phú nhờ kinh nghiệm ở sa mạc, vùng ngoại vi và ngoại biên.
Tuy nhiên, ngày nay, một điều gì đó khác biệt và mới mẻ đang
xảy ra trong thế giới phương Tây, ảnh hưởng đến tất cả các dòng tu: sự thiếu hụt
ơn gọi và kim tự tháp thống kê độ tuổi bị đảo ngược, với nhiều tu sĩ cao niên ở
trên đỉnh và một vài tu sĩ trẻ ở phần đáy, cũng như có nhiều người bỏ đời sống
tu dòng. Câu hỏi đặt ra: Tại sao họ lại ra đi?
Tình trạng phổ biến này gây ra sự bấp bênh về tương lai của
đời sống tu dòng, và trong nhiều trường hợp, tạo ra một bầu khí sợ hãi hoặc
hoang mang: Liệu đời sống tu dòng có biến mất khỏi các Giáo hội Kitô phương Tây
không? Trong thời gian tới, liệu hiện tượng tương tự có xảy ra ở Châu Á và Châu
Phi không? Liệu sẽ có một chuyển động nào đến các cộng đoàn tu dòng mới chăng?
Liệu các phong trào giáo dân mới sẽ thay thế đời sống tu dòng truyền thống
không?
Nếu chúng ta muốn tóm kết tình huống này, có lẽ chúng ta nên
nói về một "tình trạng hỗn loạn",
tức là sự pha trộn của sự mập mờ và mất trật tự. Những hậu quả của tình trạng
này không chỉ ở khía cạnh mục vụ và thiêng liêng, mà còn về thể chế, kinh tế và
xã hội. Chúng ta có thể làm gì đối với các hoạt động tông đồ về giáo dục, mục vụ,
y tế và xã hội khi thiếu nhân sự tu sĩ và các nguồn lực kinh tế để duy trì
chúng? Làm sao chúng ta có thể đối phó được với những chi phí đáng kể của bệnh
xá cho các tu sĩ đây? Làm sao để những tu sĩ trẻ có thể được đào tạo hiệu quả
trong xu thế bất an này? Tương lai nào đang chờ đợi người trẻ, khi họ gia nhập
các cộng đoàn tu dòng rất lâu đời? Liệu có thể tiếp tục ước mơ chăng?
Liên quan đến bức tranh hỗn loạn chúng ta phác hoạ, có những
quan điểm khác nhau giữa các tu sĩ. Đối với một số người, đó là một hiện tượng
đã qua, một cuộc khủng hoảng tạm thời sẽ sớm được giải quyết. Thực ra có những
ví dụ về một số cộng đoàn tu dòng gần đây đã chứng kiến sự gia tăng số lượng
ơn gọi. Còn một số cộng đoàn khác, trái lại, chấp nhận một thái độ kiểu tận thế:
chẳng thể làm gì hơn, chẳng còn tương lai, chẳng thể tiếp tục mơ ước!
Vậy thì, chúng ta phải đi sâu vào tình hình hiện tại để phân
định một số lựa chọn thay thế, không ngây thơ nhưng cũng không thê thảm.
1. Giải thích không đầy đủ
Người ta thường cố gắng giải thích nguyên nhân của hiện tượng
này theo cách cá nhân và chủ quan như: các thế hệ tu sĩ cao niên không đưa ra
chứng tá tin mừng thích hợp; trong khi đó giới trẻ thì lại chỉ quan tâm đến việc
tận hưởng cuộc sống và vui vẻ.
Rõ ràng là, những tu sĩ trưởng thành chúng ta không phải lúc
nào cũng là những dấu chỉ tuyệt vời của Tin Mừng. Nhưng không thể nói rằng đời
sống tu dòng ngày nay tự nó tạo nên một sự sa sút so với trước đây, thời có nhiều
ơn gọi. Đây không chỉ là một vấn đề cá nhân: trong những thời đại trước, có rất
nhiều người thánh thiện trong đời sống tu dòng, nhưng hiện nay cũng có rất nhiều.
Vấn đề không phải là con số, nhưng phức tạp hơn, nó thuộc về mô thể hơn là chất
thể, mang tính thể chế hơn là cá nhân, liên quan đến thời gian hơn là không
gian (x. Evangelii Gaudium [EG], số
225-230), nó thuộc về cấu trúc hơn là các hành động cụ thể.
Đồng thời, đúng là trong giới trẻ, có một số người quan tâm
nhiều hơn đến các khía cạnh kinh tế và vật chất của cuộc sống và ít nhạy bén
hơn với các giá trị thiêng liêng. Nhưng cũng có những người khác quảng đại, sẵn
sàng hy sinh bản thân cho các mục tiêu cao quý về xã hội, sinh thái và sức khỏe,
cho vấn đề di cư, nhân quyền, công lý, v.v. đến mức cống hiến bản thân cho những
trải nghiệm tình nguyện lâu dài và rất khắt khe. Nhiều người trong số họ mở
lòng mình với chiều kích siêu việt, thinh lặng và cầu nguyện. Ngay cả trong trường
hợp này, chúng ta cũng không thể đưa ra những đánh giá đúng đắn về phẩm chất đạo
đức của giới trẻ ngày nay so với phẩm chất của những người trong quá khứ. Vì nó
thuộc về những thời đại khác nhau.
Tuy nhiên, rõ ràng là giới trẻ ngày nay không muốn cam kết bản
thân mình vào những cộng đoàn bị ràng buộc chặt chẽ với quá khứ mà không có
tương lai. Cuộc khủng hoảng đời sống tu dòng hiện nay ở phương Tây là một thực
tế lan tràn khắp nơi đến nỗi không thể được giải thích bằng những tình huống cá
nhân. Vì cuộc khủng hoảng cùng lúc chạm đến tất cả các thể chế, nên phải có một
nguyên nhân mang tính khách quan, lịch sử, tổng quát, và cơ cấu. Đây không phải
là vấn nạn về dữ liệu định lượng hay số liệu thuần túy, mà là một vấn đề thiết
yếu và sống còn. Nó không phải là một vấn đề của những điều cụ thể, mà là một
tình huống chính thức, một loại Gestalt [ND: nghĩa là cảm nhận và đánh giá
toàn bộ mô hình hoặc cấu hình, chứ không chỉ các thành phần riêng lẻ, vì
"toàn bộ thì nhiều hơn tổng số các thành phần của nó."]
2. Tìm kiếm câu trả lời
Tại thời điểm này, chúng ta đi vào chủ đề được nhiều người
biết đến, đó là sự thay đổi thời đại, được thể hiện dưới những hình thức khác
nhau: một giai đoạn mới mang tính quyết định; một thời đại tìm cách vượt qua
quá khứ, vượt qua lối suy nghĩ duy tập trung vào bàn thờ, chức linh mục và hy lễ;
một sự thay đổi về mô hình làm chất vấn mô hình cũ và mở ra những viễn cảnh mới.
Dù trong bất kỳ tình huống nào, thì đó chắc chắn không phải là ngày tận cùng của
chúng ta trong đời sống tu dòng, như một số tác giả ngây thơ tưởng tượng.
Chúng ta sống trong một thế giới tục hóa, nơi mà giả định về
Thiên Chúa đã biến mất - một thời đại của thuyết vô thần - và các tín hữu được
kêu gọi coi Thiên Chúa không phải như một giải pháp tạm thời, mà là Đấng tôn trọng
những trung gian và những nguyên nhân đệ nhị. Chúng ta phải sống trước mặt
Thiên Chúa như thể Thiên Chúa không hiện hữu (Dietrich Bonhoeffer), chúng ta phải
chịu trách nhiệm về thế giới và lịch sử. Chúng ta phải chấp nhận sự im lặng của
Thiên Chúa khi đối diện với trại Auschwitz và những trẻ em di cư chết trên xuồng
cao su hoặc trên bãi biển.
Mặt khác, tình hình cũng không tốt đẹp hơn đối với chủ nghĩa
lạc quan mang tính thế tục trong một vài năm gần đây. Chủ nghĩa thế tục mang
tính không tưởng, đúng hơn là chủ nghĩa thế tục mang tính cứu thế, đặt mọi tin
tưởng vào khoa học và tiến bộ hiện đại. Thế nhưng ngày nay, nó chùn bước trước
thực tế khắc nghiệt liên quan đến bất công, đói kém, chiến tranh, biến đổi khí
hậu, bệnh tật và chết chóc. Đại dịch của thời đại chúng ta đã đặt ra những vấn
nạn tối hậu về ý nghĩa của sự sống và cái chết. Đối diện với một tình trạng thất
bại và dễ bị tổn thương như thế, khoa học chẳng đưa ra được câu trả lời nào.
Các tôn giáo đặt cược vào sự huyền nhiệm của Thượng đế, Đấng mà đối với Kitô hữu
là Thiên Chúa, Đấng sáng tạo, Cha của Chúa Giêsu và là Đấng ban Thánh Thần. Khi
đối diện với bệnh tật và cái chết, là Kitô hữu, chúng ta có chân trời của thập
giá và niềm hy vọng Phục sinh. Chúng ta phải làm cho đức tin đi vào đời sống của
con người và biến đổi thế giới dưới ánh sáng của mầu nhiệm vượt qua của Chúa
Giêsu (x. Gaudium et Spes [GS], số
39).
Đối diện với sự thay đổi thời đại này, niềm tin Kitô giáo phải
tự mở ra cho mình một sự phân định Phúc âm rõ ràng, để không phạm phải hai sai
lầm trái ngược nhau: hoặc là lên án quá khứ như là một sự thất bại và không
thích đáng, hoặc là tự mở ra cho những cái mới cách cuồng tín. Lời Chúa, Tin Mừng,
cuộc đời và sứ mệnh của Chúa Giêsu người Nazarét, Đấng đã chết và sống lại, và
Truyền thống vĩ đại của Giáo hội, tất cả đều có nhiều điều để nói với chúng ta
về hiện tại, quá khứ và tương lai.
Thông thường, những nguyên nhân của cuộc khủng hoảng này
trong Giáo hội và trong đời sống tu dòng được quy cho Công đồng Vatican II.
Tuyên bố này không chỉ sai, mà còn là một tội của sự thiếu hiểu biết lịch sử.
Công đồng Vatican II đã tìm cách để đặt Giáo hội vào cuộc đối thoại với thế giới
ngày nay, mà không lên án thế giới (x. GS), hầu thay thế một nền Giáo hội học
đã không hợp thời. Chúng ta đang nói về “aggiornamento - sự cập nhật hóa” nổi
tiếng của Đức Gioan XXIII, vị giáo hoàng lớn tuổi và đầy đặc sủng, người đã có
thể cảm thức được rằng Kitô giáo đã lỗi thời. Và ngài đã cẩn thận để không thốt
ra một lời tiên báo về sự diệt vong.
Công đồng Vatican II đã lưu ý đến thực tế này và tìm cách
nghiên cứu những hậu quả (x. GS 4-10). Cả Giáo hội hoàn vũ lẫn đặc sủng của đời
sống tu dòng đều cần được canh tân khi đối diện với bối cảnh thời đại mới của
thời kỳ hậu Kitô giáo.
3. Những bài học từ lịch sử của đời sống tu dòng
Trước khi tìm kiếm những công thức mới cho tình trạng chưa từng
xảy ra của đời sống tu dòng hiện nay, chúng tôi muốn quan tâm đến một số bài học
được rút ra từ lịch sử.
Trong Giáo Hội, đời sống tu dòng luôn có nguồn gốc từ một đặc
sủng mang tính ngôn sứ, được khơi dậy bởi Thánh Thần để nên như một lời phê
bình cho tình trạng Giáo hội xa rời phúc âm. Đó là lời loan báo về các giá trị
đích thực của Nước Trời và là hạt giống cho sự biến đổi xã hội và giáo hội.
Johann Baptist Metz, khi nói về sự phê bình này, đã sử dụng thành ngữ "một cú sốc mang tính trị liệu cho Giáo hội".
Vì lý do này, đời sống tu dòng không được sinh ra từ đỉnh cao quyền lực, mà từ
vùng ngoại vi, bên lề, sa mạc, và ngoại biên (Jon Sobrino).
Tuy nhiên, rõ ràng là, theo thời gian, xu hướng rời khỏi vùng
ngoại vi và tiến về vùng trung tâm đã diễn ra tuy chậm rãi nhưng chắc chắn: một
sự cám dỗ minh nhiên, và không phải lúc nào người ta cũng vượt thắng được, đó
là đặt mình lên hàng đầu về quyền lực kinh tế, xã hội, giáo hội và thiêng
liêng. Nhiều khi cộng đoàn dòng tu đã trở thành một tầng lớp ưu tú theo đúng
nghĩa của từ này, ngày càng xa rời mọi người, tự lấy mình làm điểm quy chiếu, tự
mãn và tách ra khỏi các đặc sủng khác của giáo hội. Với tính tự hào tập thể, họ
được bao bọc trong một kiểu “tách biệt ưu
tuyển”, cùng một nguy cơ không thể phủ nhận của việc tìm kiếm địa vị xã hội
và đặt bản thân vượt lên trên những người khác.
Điều này đã dẫn đến những hệ quả tiêu cực. Khi các dòng tu
và các linh mục dòng, nhân danh việc phục vụ để bù đắp vào sự thiếu hụt các
giáo sĩ và hỗ trợ các giáo phận trong việc phụ trách các giáo xứ, họ sẽ có nguy
cơ rơi vào tình trạng gạt ra bên lề đặc sủng của họ một cách nào đó. Đâu là vai
trò đặc sủng mang tính ngôn sứ của người tu sĩ, nếu cuối cùng họ trở thành những
linh mục quản xứ?
Mặt khác, đời sống dòng nữ thường phụ thuộc vào đời sống
dòng nam đến mức họ bị ngăn cản không thể thực hiện được linh đạo của mình
trong tất cả sự rực rỡ ban đầu của chính nó. Điều quan trọng không kém là đời sống
tu dòng được khai sinh hoặc được phục hồi sau Cách mạng Pháp đã làm tốt các
công tác xã hội, giáo dục và y tế, nhưng vẫn duy trì một não trạng rất bảo thủ
và tiếc nuối về sự mất mát của cơ cấu cũ, đó là cơ cấu có sự kết hợp giữa ngai
vàng và bàn thờ. Nói một cách dễ hiểu và thẳng thắn, đời sống tu dòng, mà ban đầu,
vào khoảng thế kỷ thứ IV, được sinh ra như sự phê phán dành cho một “Kitô giáo
xa rời phúc âm”, thì ngày nay lại đang dần đi đến việc bắt chước và thích nghi
với điều mình phê phán.
4. Sự tiến triển của Thần học về đời sống tu dòng
Ngày nay chúng ta hoàn toàn nhận thức được rằng đã có một sự
tiến triển tích cực trong thần học về đời sống tu dòng. Dù còn mơ hồ trong một
số văn bản, nhưng Công đồng Vatican II đã đặt đời sống tu dòng trong khuôn khổ
của dân Chúa (x. Lumen Gentium [LG],
số 43-47), đó là tất cả mọi người đều được kêu gọi nên thánh (x. LG 39- 42). Đời
sống tu dòng là một hồng ân của Thánh Thần, mặc dù không thuộc cơ cấu phẩm trật
của Giáo Hội, nhưng là một phần của đời sống và sự thánh thiện của Giáo Hội (x.
LG 44). Đời sống tu dòng phải tự canh tân bằng cách trở lại thực hành việc đi
theo Chúa Giêsu, dựa theo Phúc âm và đặc sủng ban đầu của mỗi dòng tu (x. Perfectae Caritatis, số 2). Không thể có
đời sống tu dòng bên lề Giáo hội, cũng như Giáo hội không được cấu thành và hiện
diện đầy đủ trong một quốc gia truyền giáo mà thiếu đời sống tu dòng chiêm niệm
và hoạt động (x. Ad Gentes, số 18).
Như Đức cha Bergoglio đã nói trong Thượng hội đồng về đời sống tu dòng năm
1994, “đời sống thánh hiến là một quà tặng
cho Giáo hội, nó được sinh ra trong Giáo hội, lớn lên trong Giáo hội, và hoàn
toàn hướng về Giáo hội.”[1]
Đời sống tu dòng không chỉ thuộc về lĩnh vực giáo luật và tu
đức, nhưng thuộc về tổ chức của Giáo hội. Công đồng Vatican II đã thúc đẩy một
sự suy tư sâu sắc về điều đó, như đã được minh chứng trong Tông huấn Evangelica Testificatio của Đức Phaolô
VI, Tông huấn Vita Consecrata của Đức
Gioan Phaolô II và vô số ấn phẩm thần học. Kể từ Công đồng, đời sống tu dòng đã
được cải cách sâu sắc. Nhưng vẫn còn một chặng đường dài phải đi.
Công đồng Vatican II, dù phong phú về mục vụ và thần học,
nhưng cách nào đó, đã bị điều kiện hóa bởi quan điểm Châu Âu của các giám mục
và các nhà thần học, vốn là những tác nhân chính của Công đồng. Do đó, Công đồng
chủ yếu quan tâm đến chủ nghĩa vô thần và sự tục hóa, khả năng có ơn cứu độ bên
ngoài Giáo hội, việc đại kết, tự do tôn giáo và tầm quan trọng của lương tâm cá
nhân. Đây là những chủ đề tiêu biểu cho cái gọi là “sự khai sáng ban đầu”. Người nghèo không xuất hiện trong các bản
văn của Công đồng, ngoại trừ hai đề cập (x. LG 8 và GS 1), mặc dù Đức Gioan
XXIII muốn khuôn mặt Giáo hội mà Công đồng hướng tới là khuôn mặt Giáo hội của
người nghèo.
Chính các Giáo hội của những nước nghèo đã đón nhận Công đồng
Vatican II một cách sáng tạo. Đặc biệt, đó là Giáo hội Châu Mỹ Latinh tại
Medellín (1968), nơi đã lắng nghe tiếng nói của Thánh Thần qua tiếng than khóc
của người nghèo đang kêu cầu công lý, giống như dân Israel bị Pharaoh áp bức ở
Ai Cập xưa kia. Từ Medellín đã xuất hiện quyền lựa chọn cho người nghèo, cuộc đấu
tranh chống lại tội lỗi của những cơ cấu bất công, sự thích đáng của việc di cư
và giải phóng, ý định xây dựng một Giáo hội nghèo, đơn sơ và mang tính chất của
mầu nhiệm vượt qua, nơi giữ cho đức tin và công lý được nên một. Đây là những yếu
tố điển hình của cái gọi là “sự khai sáng
thứ hai”, vốn nhạy cảm với công lý và người nghèo.
Tất cả những điều này đã có những tác động tích cực đến đời
sống tu dòng, đặc biệt là tại Châu Mỹ Latinh, và cả ở những nơi khác nữa, nơi
mà đời sống tu dòng đã dấn thân vào những môi trường nghèo nàn, khu dân cư ngoại
vi, những khu ngoại ô và ổ chuột tồi tàn, vùng nông thôn, hầm mỏ, và giữa những
người bản địa và những người gốc Phi. Đời sống trong các cộng đoàn dòng tu đã
có một sự canh tân đích thực. Trong số đội ngũ tu sĩ cũng có nhiều vị tử đạo,
những nạn nhân của các chế độ độc tài và chế độ quân sự.
Cuối cùng, chúng ta hãy thêm vào sự xuất hiện của “sự khai sáng thứ ba”, tập trung vào những
thành phần khác và những người khác với xu thế chủ đạo, đã làm phong phú thêm
cho Giáo hội và đời sống tu dòng, mở ra những lĩnh vực như văn hóa, phụ nữ, đối
thoại đa văn hóa và liên tôn, và sinh thái. Tuy nhiên, ngay lúc lộ trình này
đang đạt đến mục tiêu, khi nó dường như được thiết lập tốt đẹp theo quan điểm của
giáo hội học và thần học, thì cuộc khủng hoảng đã bùng nổ. Do đó, vấn đề hiện
nay không có tính chất thần học, vì thần học về đời sống tu dòng đã rất rõ
ràng, nhưng là về hành động thực tế mang tính lịch sử.
5. Thần Khí học về các dấu chỉ thời đại
Trước khi đi sâu vào những trình bày mang tính lý thuyết
hơn, chúng ta hãy bắt đầu với một bản văn rất hùng hồn từ sách Công vụ tông đồ:
“Thánh Thần ngăn cản không cho Phaolô và
Sila rao giảng lời Chúa ở Tiểu Á. Khi tới sát ranh giới Myxia, các ông thử vào
miền Bithynia, nhưng Thần Khí Ðức Giêsu không cho phép. Các ông bèn đi qua
miền Myxia mà xuống Tơroa. Ban đêm, ông Phaolô thấy một thị kiến đó là một người
miền Makêđônia xin ông sang Makêđônia giúp dân của họ. Sau khi thấy thị kiến đó
vị tông đồ hiểu ra rằng Thiên Chúa kêu gọi họ đi loan báo Tin Mừng cho
Makêđônia. Các ngài xuống tàu ở Tơroa, đi thẳng đến đảo Xamốtrakê, Nêapôli và từ
đó đi Philípphê là thị trấn quan trọng nhất ở Makêđônia.” (x. Cv 16, 6-12).
Trong bản văn này, hơi khó hiểu là Thánh Thần của Chúa Giêsu đóng các cánh cửa
truyền giáo đối với Phaolô trong một số lĩnh vực nhất định và thay vào đó là mở
ra cho ông những cánh cửa khác, gửi ông đến một nơi khác. Nhưng ý nghĩa rất rõ
ràng: Thánh Thần mong muốn rằng Phaolô không đến với các cộng đoàn Do Thái,
nhưng tiếp cận với thế giới dân ngoại. Phaolô sẽ làm như vậy, trước hết sẽ đến
Athens và sau đó đến Roma. Sách Công vụ Tông đồ kết thúc khi vị Tông đồ hoàn
thành công cuộc truyền giáo cho dân ngoại.
Chúng ta có trước mắt điều mà Công đồng Vatican II gọi là “những dấu chỉ thời đại”. Giáo hội phải
xem xét những dấu chỉ thời đại một cách thấu đáo (x. GS 4), xác tín rằng chính
Thánh Thần của Đức Chúa, Đấng tràn ngập vũ trụ, chính Ngài hướng dẫn dân Chúa;
và trong những khát vọng, biến cố và nhu cầu của thời đại chúng ta, Giáo hội
tham gia cùng với những người đương thời, Giáo hội phải nhìn thấy những dấu chỉ
đích thực về sự hiện diện và kế hoạch của Thiên Chúa (x. GS 11). Với sự trợ
giúp của Thánh Thần, việc chăm chú lắng nghe, phân định và giải thích nhiều tiếng
nói khác nhau trong thời đại chúng ta là nhiệm vụ của tất cả dân Chúa, nhưng đặc
biệt là của các mục tử và thần học gia. Phaolô đã làm điều đó, khi trong một giấc
mơ, ông nhận ra tiếng Chúa kêu gọi ông ra đi đến với dân ngoại. Thánh Thần đóng
một số cánh cửa, nhưng mở ra những cánh cửa khác.
Tuy nhiên, để phân định các dấu chỉ thời đại, cần có một số
chỉnh đốn. Trước hết, cần xác tín rằng Thánh Thần của Đức Chúa không chỉ hoạt động
trong Giáo hội, nhưng tràn đầy khắp vũ trụ. Vì lý do này, cùng với con người thời
đại, chúng ta phải lắng nghe tiếng nói, nguyện vọng và nhu cầu của nhân loại.
Điều này ngụ ý Giáo hội cần có thái độ của sự cởi mở, đối thoại và gần gũi với
thế giới và thời đại, để nhận ra được Thiên Chúa muốn gì ở nhân loại. Và điều
này đòi hỏi sự phân định, để soi sáng thực tại này với các giá trị của Tin Mừng
và cuộc đời của Chúa Giêsu thành Nazareth.
Áp dụng tất cả những điều này vào đời sống tu dòng, chúng ta
có thể tự vấn xem liệu chúng ta có đang ở trong tình trạng mà Thánh Thần đóng một
số cánh cửa đối với chúng ta trong khi mở ra những cánh cửa khác chăng? Chúng
ta cần phân định liệu các cấu trúc hiện tại của đời sống tu dòng có đang đáp ứng
các dấu chỉ của thời đại ngày nay không, hay đúng hơn là có cải thiện được “sự
lỗi thời” của Kitô giáo hay chưa. Thánh Thần đóng những cánh cửa của một đời sống
tu dòng đông đảo, quyền lực, ưu tú, tự mãn và quy ngã, nhưng có lẽ Ngài mở ra
những cánh cửa của một lối sống tu dòng khác, một lối sống khó nghèo hơn, theo
đúng tinh thần Phúc âm hơn, và phù hợp hơn với các dấu chỉ của thời đại hiện
nay.
Chúng ta hãy tự vấn xem liệu trải nghiệm của chúng ta về sự
hỗn loạn có hướng chúng ta đến một kairos,
một thời cơ thuận tiện không. Thần khí học dạy chúng ta rằng Thánh Thần (ruah) hoạt động từ bên dưới. Từ sự hỗn
mang ban đầu của Sáng thế ký, Thánh Thần tạo ra hơi thở của sự sống (x St 1,
2); từ cung lòng của những phụ nữ son sẻ, Thánh Thần sinh ra các nhà lãnh đạo của
Israel (x. St 11, 30; 25, 21; 29, 31; 1 Sam 2, 1-11); và Thánh Thần cũng làm
cho một trinh nữ trẻ ở Nazarét thụ thai và sinh ra Chúa Giêsu (x. Lc 1, 35). Đối
với Thánh Thần, không có gì là không thể (x. Lc 1, 37). Thánh Thần có thể ban sự
sống cho vô số bộ xương khô héo (x. Ed 37, 1-14); Thánh Thần soi sáng cho người
phụ nữ nghèo Maccabe nhìn thấy 7 người con trai của bà chết như những vị tử đạo,
để bà có thể tuyên xưng đức tin của mình vào sự sống lại (x. Mcb 27, 20. 23).
Chính Thánh Thần đã làm cho Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết (x. Rm 8,11) và ngự
xuống trên nhóm tông đồ nghèo nàn và đầy sợ hãi đang tụ họp tại Giêrusalem để
biến họ thành chứng nhân của Đấng Phục sinh trước toàn thế giới (x. Cv 2).
Thánh Thần là căn nguyên và cội nguồn của đời sống tu dòng; mỗi dòng tu mới là
một hồng ân và phép lạ của Thánh Thần, Đấng từ sự khó nghèo và nhỏ bé đã phát
sinh ra đời sống theo lời khuyên Phúc Âm.
6. Thánh Thần mở ra những cánh cửa nào cho đời sống
tu dòng ngày nay?
Trước khi nói về những cánh cửa nào đang mở ra cho đời sống
tu dòng, chúng ta nhận biết rằng ngày nay nhiều dòng tu quan tâm đến việc mở lại
những cánh cửa đang đóng, hơn là tìm kiếm những cánh cửa mới đang mở ra. Trong
nhiều trường hợp, những ơn gọi trẻ đã phải tiêu hao rất nhiều công sức cho việc
mở lại những cánh cửa đã đóng hoặc giữ cho những cánh cửa đang khép được tiếp tục
mở, thay vì vận dụng tâm trí và sức sáng tạo của họ để tìm cách mở ra những
cánh cửa mới. Có thể tìm thấy một ví dụ về điều này trong đoạn văn của Sách Các
Vua quyển thứ nhất, trong đó ông Êlia ra lệnh cho người hầu trẻ của mình leo
lên núi 7 lần để xem có đám mây báo mưa sắp xuất hiện từ biển hay không; trong
khi chờ đợi, ông Êlia sấp mình xuống và tiếp tục cầu nguyện (x. 1 V 18, 41-46).
Những ơn gọi trẻ phải dò tìm chân trời của những khả năng mới, trong khi những
người khác cầu nguyện trong thinh lặng.
Nhiệm vụ quan sát các dấu chỉ thời đại và chân trời hiện nay
được thúc đẩy bởi quyết tâm cam kết cải tổ Giáo hội của Đức Giáo hoàng
Phanxicô. Đức giáo hoàng mơ về một Giáo hội với những cánh cửa rộng mở luôn
chào đón mọi người, một bệnh viện dã chiến, một Giáo hội đang tiến lên, để mang
đức tin đến cho tất cả mọi người và lên đường hướng tới các vùng ngoại vi địa
lý và hiện sinh nơi mọi người đang sống và đau khổ, một Giáo hội có mùi của
chiên, không quan liêu nhưng nhân từ, và không tự quy chiếu nhưng trở nên một
kim tự tháp ngược, đa diện, hiệp hành, một Giáo hội trong đó người nghèo và
lòng mộ đạo của họ chiếm một vị trí thần học uy tiên(x. EG 197-201). Có rất nhiều
cách để một đời sống tu dòng mới mở ra cho tương lai, cho các cơ hội, và hoa
trái của Thánh Thần. Bây giờ chúng ta hãy thử xem xét sự chuyển đổi này có thể
hình thành như thế nào.
7. Trở lại với sự nhỏ bé và thiểu số ở cội nguồn
Ở cội nguồn của mọi dòng tu mới, vào thời điểm mới thành lập,
luôn có một vài thành viên nghèo nàn, yếu ớt, không ai biết đến, họ tự gọi mình
là nhỏ bé: tiểu đệ, tiểu muội, một nhóm nhỏ, anh chị em nhỏ bé. Sau nhiều năm,
sự nhỏ bé này thường biến tướng thành sự vĩ đại và phô trương. Chúng ta đã chọn
lựa người nghèo, nhưng chúng ta đã không chọn để trở nên nghèo hơn. Ngày nay, hoàn
cảnh đưa chúng ta trở lại với thiểu số ở cội nguồn của mình: chúng ta ít nhân sự,
yếu ớt và nghèo nàn; tương tự như người nghèo, chúng ta cũng không có tương lai
chắc chắn. Chúng ta không thể cung cấp sự an toàn và sự đảm bảo trọn vẹn cho những
ơn gọi trẻ; thay vào đó, chúng ta có thể cam kết với họ về một cuộc phiêu lưu
tuyệt vời và đầy tinh thần Phúc âm, mở ra cho tương lai và cho hơi thở của
Thánh Thần.
Chúng ta phải sống sự nhỏ bé của hạt cải và nắm men (x. Mt
13:31-33) và bước theo một Chúa Giêsu không có nơi để tựa đầu (x. Lc 9:58). Đời
sống tu dòng không phải là một đặc quyền, nhưng là một cuộc phiêu lưu kỳ thú, một
sự liều thân vì Phúc âm, và mở ra cho những điều mới mẻ từ Chúa Thánh Thần. Ơn
phù trợ chúng ta đến từ nơi Đức Chúa và từ sự hiện diện sống động của Chúa
Thánh Thần.
8. Tham gia vào sự năng động của Thượng Hội Đồng
Bây giờ, chúng ta hãy suy xét một khía cạnh bổ sung cho khái
niệm về sự nhỏ bé. Về mặt từ nguyên học, “Synod
– Thượng Hội đồng” có nghĩa là “cùng
nhau bước đi”, và điều này, theo Thánh Gioan Kim Khẩu, là định nghĩa của
Giáo hội (x. PG 55, 493). Hiệp hành là bước vào cuộc hành trình này cùng với
toàn thể dân Chúa, những người được sinh ra bởi phép Thánh tẩy và với sự xức dầu
của Thánh Thần, sở hữu một cảm thức đức tin đến mức không thể sai lầm trong niềm
tin (x. LG 12). Hiệp hành là con đường mà Thiên Chúa mong đợi nơi Giáo hội
trong thiên niên kỷ thứ ba, như Đức Thánh Cha Phanxicô đã tuyên bố trong bài diễn
văn ngày 17.10.2015, nhân kỷ niệm 50 năm thành lập Thượng Hội đồng Giám mục.
Đời sống tu dòng cũng vậy, phải đi vào viễn tượng của một lộ
trình hiệp hành. Điều này ngụ ý rằng chúng ta để lại đằng sau những đặc ân và
những đặc quyền kinh tế, văn hóa và tinh thần, để đặt mình vào giữa dân thánh của
Thiên Chúa, những người đã nhận được Thánh Thần. Vấn đề không phải là từ bỏ căn
tính đặc sủng của chúng ta, mà là chia sẻ đặc sủng ấy với người khác, không có
chủ nghĩa bè phái, hoặc chủ nghĩa tinh hoa. Theo một cách nào đó, tính hiệp
hành ngụ ý một lời khởi xướng từ phía giáo dân, những người chiếm đa số của
dân Chúa. Chúng ta nên tự vấn xem việc suy giảm ơn gọi tu sĩ, linh mục lại chẳng
phải là một phần trong kế hoạch mầu nhiệm của Thiên Chúa sao, nhằm khiến toàn
thể dân Chúa cùng nhau bước tới sứ vụ, hướng về vương quốc của Thiên Chúa? Sau
đó, chúng ta phải nói về sứ vụ được chia sẻ với người khác, cả nam và nữ, cùng
nhau thảo luận về những gì liên quan đến tất cả mọi người, ở nơi sứ vụ ấy tất cả
chúng ta đều cùng dạy và cùng học và do đó, sự phân biệt nhị nguyên giữa một
Giáo hội giảng dạy và một Giáo hội học hỏi bị phá vỡ. Đó là một kim tự tháp đảo
ngược, một cái gì đó quá mới mẻ đến nỗi một số người nói rằng nó có thể gây ra
"cơn đau tim thần học" cho
những người bảo vệ trật tự đã được thiết lập.
Nếu chúng ta quay trở lại đời sống tu dòng, sự thay đổi này
có ý nghĩa hơn nhiều so với sự trao đổi qua lại giữa các dòng tu và học viện với
nhau. Cũng không có nghĩa là giáo dân buộc phải cộng tác với đời sống tu dòng,
với các tu sĩ của dòng, cũng như với các cơ sở mục vụ, giáo dục, xã hội hoặc
chăm sóc sức khỏe của dòng. Nhưng chính toàn bộ đời sống tu dòng đặt mình vào
việc phục vụ toàn thể dân Chúa trong sứ vụ chung, trong sự cộng tác với các
giáo xứ, với các phong trào và với các nhóm cộng đoàn khác đang hướng về Nước
Trời, để chăm sóc ngôi nhà chung (x. Laudato
Si ') và tình huynh đệ phổ quát (x. Fratelli
Tutti).
Rõ ràng là tất cả những điều này ngụ ý một tiến trình hoán cải
mang tính Giáo hội, sẽ diễn ra từ từ và được đánh dấu bằng sự phân định chung.
Nhiệm vụ không hề dễ dàng, nhưng rất thú vị và đầy thử thách. Chỉ với thời
gian, chúng ta mới có thể thấy điều này liên quan đến đời sống và công tác tông
đồ, ảnh hưởng đến các cộng đoàn đan tu và chiêm niệm, thay đổi cơ cấu tổ chức
và lối sống như thế nào. Dù khan hiếm ơn gọi, nhưng một số nhỏ của thiểu số được
Thánh Thần biến đổi để cùng đồng hành với người khác. Chỉ với thời gian, cùng sự
thực hành và phân định, thì những lộ trình cá nhân, cộng đoàn và thể chế mới được
tìm ra để thực hiện ước mơ này. Và tất cả những điều này diễn ra dưới sự bảo vệ
và trong quỹ đạo của Thánh Thần, Đấng vượt lên trên tất cả, bao phủ, luôn làm
trẻ hóa và sống động hoá mọi sự bắt đầu từ những tình trạng hỗn loạn và từ vực
sâu của lịch sử. Hỗn loạn có thể được biến thành thời cơ. Ai gieo trong nước mắt
sẽ gặt trong niềm vui (x. Tv 126, 6).
9. Khôi phục chiều kích thần bí của đời sống tu
dòng
Một bản văn nổi tiếng của Đức Bênêđíctô XVI khẳng định rằng
“trở thành Kitô hữu không phải là một quyết
định đạo đức hay một tư tưởng vĩ đại, nhưng là sự gặp gỡ với một biến cố, với một
Con Người, Đấng đem lại cho đời sống chúng ta một chân trời mới và từ đó một định
hướng dứt khoát” (Deus Caritas Est,
số 1).
Nếu mọi đời sống Kitô hữu được sinh ra từ cuộc gặp gỡ với
con người của Chúa Giêsu, thì đời sống tu dòng, vốn có nguồn gốc mang tính ngôn
sứ, không thể đổi mới và phát triển nếu không có chiều kích thiêng liêng và thần
bí sâu xa; đời sống tu dòng cần sự xức dầu của Thánh Thần. Điều này có nghĩa là
đời sống tu dòng, thường bị quá tải bởi công việc, cần phải được nuôi dưỡng với
nhiều khoảng thời gian cá nhân và cộng đoàn cho việc cầu nguyện và thinh lặng,
thực hành lectio divina, cử hành một phụng vụ đầy sinh động, để nhờ đó, cuộc sống
và xã hội của một thế giới xa cách Thiên Chúa hiện nay có thể ngày càng thấm
nhuần các giá trị và thái độ Tin Mừng. Nhưng điều cần thiết không kém đó là việc
đặt mình bên cạnh Đấng bị đóng đinh, gặp gỡ Thiên Chúa trong những người nghèo
khổ, và tránh cho lời cầu nguyện của chúng ta trở thành cuộc chạy trốn khỏi một
thế giới bị xa lánh.
Khi chúng ta nhớ lại những nhân vật lỗi lạc của đời sống tu
dòng, những vị sáng lập, chúng ta phải kinh ngạc về sự phong phú và chiều sâu
tâm linh tuyệt vời mà những vị thánh này mang lại cho Giáo hội và nhân loại như
thánh Antôn Coptic, thánh Bênêđictô và Scholastica, thánh Bernado of Clairvaux,
thánh Phanxicô và Clara, thánh Đaminh và Catarina Siena, thánh Inhaxiô,
Phanxicô Xavier và Phêrô Faber, thánh Têrêsa Avila, Gioan Thánh giá, Têrêsa of
Lisieux, và Edith Stein, thánh Hildegard of Bingen, Gioan Thiên Chúa, và
Camillus de Lellis, thánh Vincent de Paul và Louise de Marillac, thánh Joseph
Calasanz và Antonio María Claret, thánh Don Bosco, thánh Joan of Lestonnac,
thánh Candida of Jesus, thánh Nazaria Ignacia, thánh Teresa of Calcutta, thánh
Charles de Foucauld và nhiều vị thánh khác. Sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa
luôn là một phần thiết yếu của đời sống tu dòng: không thể thực hiện được nếu
con người không say mê Chúa Giêsu và Phúc âm. Sự biến đổi hiện tại mà đời sống
tu dòng được kêu gọi sẽ không thể thực hiện được nếu không có sự hoán cải hướng
đến sự kết hợp thần bí với Thiên Chúa.
Kết luận
Liệu chúng ta có thể chuyển từ hỗn loạn sang thời cơ chăng?
Sự chuyển đổi này có thể xảy ra, nhưng nó không phải là một bước nhảy vọt tức
thời hoặc kỳ diệu. Thay vào đó, nó là một sự chuyển đổi mang chiều kích mầu nhiệm
vượt qua: điều này ngụ ý rằng chúng ta vượt qua, trong tư cách cá nhân và cộng
đoàn, từ cái chết đến phục sinh; điều này đòi hỏi chúng ta không bám chặt vào
quá khứ chóng qua và phải mở lòng đón nhận hành động đổi mới, tràn đầy và trao
ban sự sống của Thánh Thần của Chúa Giêsu, Đấng hành động từ bên dưới trong những
khoảnh khắc khủng hoảng và chết chóc, đóng một vài cánh cửa, nhưng mở ra những
cánh cửa khác, một Thánh Thần không bao giờ ngưng hoạt động, cả trong Giáo hội
lẫn trong lịch sử nhân loại.
Đời sống tu dòng ngày nay giống như kinh nghiệm của tác giả
Thánh vịnh từ vực sâu (x. Tv 130), một
bài Thánh vịnh bắt đầu trong bóng tối của màn đêm, kêu gào đau khổ với Đức
Chúa, và kết thúc là mở ra niềm hy vọng của người lính canh đón chờ bình minh.
Nt. Anna Ngọc Diệp, OP
Dòng Đa Minh Thánh Tâm
Chuyển ngữ từ: godgossip.org
(22.4.2022)
[1] Giáo hoàng Phanxicô, Tông
Thư Gửi Những Người Thánh Hiến, ngày 21.11. 2014, III, 5. Đức Giáo hoàng
trích dẫn ở đây bài diễn văn của ngài trước Thượng Hội đồng về Đời sống Thánh
hiến và Truyền giáo trong Giáo hội và Thế giới, Tổng Công hội XVI, ngày 13. 10.
1994.