WHĐ (18.12.2023) - Ngày 5 tháng 8 năm 2023, Ủy ban Phụng tự Hội đồng Giám mục Việt Nam
đã thông báo về chương trình Đào tạo phụng vụ cho Dân Chúa gồm: (1) Thực hành
mục vụ và (2) Kiến thức phụng vụ. Để đào sâu hiểu biết về kiến thức phụng vụ, Ủy
ban Phụng tự trân trọng giới thiệu loạt bài về cử hành Thánh Thể do linh mục
Giuse Phạm Đình Ái, SSS tổng hợp và biên soạn.
I. VĂN
KIỆN
- Tiếp đến,
linh mục mời cộng đoàn cầu nguyện; và mọi người cùng linh mục thinh lặng trong
giây lát, để ý thức mình đang ở trước thánh nhan Thiên Chúa và có thể nói lên
trong lòng những nguyện ước của mình. Rồi linh mục đọc lời nguyện, quen gọi là
“lời nguyện nhập lễ”, lời nguyện này nói lên đặc tính của việc cử hành. Theo
truyền thống ngàn xưa của Hội Thánh, lời nguyện nhập lễ thường hướng về Chúa
Cha, nhờ Chúa Kitô, trong Chúa Thánh Thần, và kết bằng câu kết dài
có tính Ba Ngôi…Cộng đoàn kết hợp với lời nguyện và thưa lời tung hô Amen để nhận
lời nguyện làm của mình. Trong Thánh lễ, luôn chỉ đọc một lời nguyện nhập lễ
duy nhất (Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma [QCSL], số
54).
- Trong
bất cứ Thánh lễ nào, phải đọc các lời nguyện riêng của Thánh lễ đó, trừ phi qui
định cách khác. Trong các lễ nhớ các thánh thì đọc lời nguyện nhập lễ riêng của
thánh kính nhớ, nếu không có, thì lấy trong phần Chung các thánh. Vào những
ngày trong tuần mùa Thường niên, thì ngoài những lời nguyện của Chúa nhật đầu
tuần, còn có thể lấy các lời nguyện của một Chúa nhật khác thuộc mùa Thường
niên, hoặc một trong các lời nguyện của các lễ cho các nhu cầu khác nhau, có
ghi trong sách lễ. Nhưng luôn chỉ được phép dùng một lời nguyện nhập lễ lấy từ
các lễ đó mà thôi. Như thế, chúng ta có nhiều bản văn hơn ngõ hầu giúp nuôi dưỡng
kinh nguyện của các Kitô hữu cách dồi dào hơn.
Nhưng trong các mùa phụng vụ quan trọng hơn, việc thích ứng này đã được
thực hiện nhờ những lời nguyện riêng cho mỗi ngày trong tuần sẵn có trong sách
lễ. (QCSL
363).
II. LỊCH
SỬ
Lời nguyện nhập lễ có lịch sử lâu đời trước cả
hai lời nguyện tiến lễ và lời nguyện hiệp lễ. Vị chủ tế trong những thế kỷ đầu
thường bắt đầu cử hành lễ bẻ bánh bằng một lời nguyện vừa để tập họp cộng đoàn
vừa để dẫn vào phần công bố Lời Chúa. Từ thế kỷ IV, nhiều Đức Giám mục chủ tế
thường ứng khẩu lời nguyện này để diễn tả sự hợp nhất của cộng đoàn, đồng thời
hướng dân Chúa đến đặc tính riêng của từng Thánh lễ. Thánh Augustinô chỉ đơn giản
khai mở phụng vụ bằng việc tiến vào thánh đường và chào chúc mọi người.[1]
Cho đến giữa thế kỷ V, hầu như Thánh lễ được bắt
đầu ngay bằng các Bài đọc Kinh Thánh. Lời nguyện mở đầu Thánh lễ được cho là xuất
hiện khoảng giữa thế kỷ VI và là bản văn nằm trong cuốn Sacramentarium Leonianum vì những lời nguyện ứng khẩu thường không
ngắn gọn.[2]
Sau đó, việc sưu tập những lời nguyện trong Thánh lễ được đưa vào các cuốn Sacramentarium Gelasianum và Sacramentarium Gregorianum với những lời
nguyện mở đầu dùng cho các ngày lễ khác nhau.[3]
Tại Gaul, tức trong phụng vụ Gallican của thế
kỷ VII -IX, lời nguyện này được biết dưới cái tên là collecta (lời tổng nguyện) do động từ colligere (thu góp), nghĩa là vị tư tế “thu thập hay tổng góp” tất
cả những ý nguyện của tín hữu thành một “bó” mà dâng lên Thiên Chúa vì tư tế chủ
toạ buổi phụng vụ cầu nguyện thay cho toàn thể cộng đoàn Dân Chúa và hành động
nhân danh Đức Kitô. Nói cách khác, sở dĩ gọi là lời tổng nguyện bởi vì lời nguyện
này thu góp và hợp nhất những ý nguyện xin khác nhau của các tín hữu tham dự
thành một lời nguyện duy nhất, rồi vị chủ tế nhân danh cộng đoàn đang quy tụ mà
dâng lên Chúa. Còn trong các tài liệu phụng vụ sau Công đồng Vaticanô II, lời tổng
nguyện thường gọi là lời nguyện nhập lễ và mỗi Thánh lễ chỉ có một lời nguyện
này mà thôi. Sách lễ 1570 thường có hơn
một lời tổng nguyện, số các lời nguyện được thêm vào có thể gia tăng lên tới
bày.[4]
Lời tổng nguyện được một số tác giả cho là vết
tích của những lời nguyện đọc tại nhà thờ tập họp trong các Thánh lễ Chặng viếng.
Vào lúc Đức Giáo hoàng hay vị tư tế tới nhà thờ được chỉ định, ngài sẽ đọc một
lời nguyện mở đầu hay lời nguyện “tổng góp”. Khi tập tục cầu 2 lời “tổng nguyện”
và rước kiệu đến nhà thờ để dâng lễ mất đi, lời nguyện mở đầu được gọi là lời tổng
nguyện.[5]
Trong cuộc cải cách phụng vụ sau Công đồng
Vaticanô II, Hội Thánh đã nỗ lực phục hồi một vài yếu tố thuộc về chức năng độc
nhất của lời tổng nguyện xa xưa [vốn là một trong 3 “lời nguyện thuộc chủ tế” trong Thánh lễ] tức là dành một thời gian
cho mọi người thinh lặng hầu nêu ra ý nguyện của mình và giới hạn con số lời tổng
nguyện, chấm dứt việc có thêm nữa những thỉnh nguyện hay tưởng nhớ các thánh
theo sau. [6]
III. DIỄN
TIẾN VÀ Ý NGHĨA CỦA TỪNG YẾU TỐ
Lời nguyện nhập lễ là yếu tố dẫn nhập cộng
đoàn vào buổi lễ cũng như vào các Bài đọc Sách Thánh. Thật vậy, lời nguyện nhập
lễ vừa kết thúc phần nghi thức đầu lễ, vừa khơi dậy tâm tình cầu nguyện của cộng
đoàn hợp nhất với nhau trong Đức Kitô nhằm chuẩn bị tinh thần mọi người tham dự
Thánh lễ cách xứng đáng. Vì thế, lời nguyện nhập lễ diễn tả đặc tính của buổi lễ
(QCSL 54). Không những thế, lời nguyện nhập lễ còn như là mở đầu cho phần Phụng
vụ Lời Chúa, vì thế nội dung lời nguyện này thường bao gồm ý chính của các Bài
đọc Sách Thánh.
Mỗi lời nguyện nhập lễ gồm 3 yếu tố căn bản
sau đây:[7]
1/ Lời mời gọi
Chủ tế mời gọi cộng đoàn hợp ý cầu nguyện bằng
cách chắp tay và nói: “Chúng ta dâng lời
cầu nguyện”. Câu “Chúng ta dâng lời cầu
nguyện” hàm ý: [i] Thứ nhất, linh mục chủ tế, nhờ chức tư tế thừa tác của
mình, không những đại diện cho Hội Thánh mời gọi các tín hữu cầu nguyện, mà còn
đại diện cho toàn dân để dâng lên Thiên Chúa các lời cầu nguyện cùng những ý
nguyện thầm kín của từng người. Lời nguyện ngài sắp tuyên đọc là của cộng đoàn
cho dù chỉ được một người là vị chủ tế bày tỏ, và ngài cũng mời gọi mọi người
chung lòng hợp ý để dâng lời nguyện xin;[8]
[ii] Thứ hai, các tín hữu dùng lời cầu
nguyện của mình để thi hành chức tư tế họ đã nhận được trong bí tích Thánh tẩy,
tức là cùng với Đức Giêsu Kitô, dâng lên Chúa Cha, và nhờ Đức Giêsu Kitô mà cầu
nguyện với Chúa Cha.[9]
2/ Giây phút thinh lặng
Sau câu “Chúng
ta dâng lời cầu nguyện” mọi người cùng chủ tế thinh lặng cầu nguyện trong
giây lát (Nghi Thức Thánh lễ [NTTL], số 9; QCSL 54). Sự thinh lặng vào lúc này
là yếu tố hoàn toàn mới của Thánh lễ theo Vaticanô II. Đây không phải là việc
tùy nghi nhưng là một đòi buộc, bởi vì: [i] Mặc dù lời tổng nguyện là lời nguyện
thuộc chủ tế, nghĩa là chỉ do một mình chủ tế xướng (đọc), nhưng lại không phải
là lời nguyện của riêng chủ tế mà là của cộng đoàn. Bởi thế, nếu bỏ không thinh
lặng vào lúc này thì sẽ làm vuột mất sự cân bằng tinh tế giữa thừa tác vụ của
tư tế và tác vụ của toàn thể dân chúng;[10]
[ii] Sự thinh lặng nhằm mục đích để mỗi người hồi tâm, ý thức rằng mình đang hiện
diện trước nhan Chúa, để hướng lòng về Chúa và âm thầm gợi lên trong tâm hồn
mình các nguyện ước riêng dưới cái nhìn của Chúa trước khi vị chủ tế gom lại
thành một bó duy nhất, thành một lời ‘tổng nguyện’, một lời cầu nguyện ‘tổng hợp’
mà dâng lên Thiên Chúa Cha nhờ Đức Kitô và trong Chúa Thánh Thần (x. QCSL 54).[11]
Giây phút này, các tín hữu mang theo mình trọn vẹn cuộc sống cá nhân và gia
đình của họ để trình lên Chúa những vui mừng sầu khổ, những hy vọng khát mong của
toàn thể Hội Thánh và của cả nhân loại.[12]
Nếu mỗi người không cầu nguyện thầm thĩ trong lòng, chủ tế cũng không còn lý do
để lớn tiếng cầu nguyện nhân danh họ, thâu kết những ước nguyện của họ. Với sự
thinh lặng này, cộng đoàn phụng vụ không phải là một đám đông hỗn loạn, nhưng
là cộng đoàn đức tin được Thiên Chúa kêu mời và quy tụ, là Dân Chúa, là gia
đình của Thiên Chúa hay Hội Thánh của Chúa đang nên như cộng đoàn tiên khởi ở
Giêrusalem: “một lòng một ý” với nhau.[13]
3/ Lời nguyện (gồm 3 phần):[14]
- Phần ngỏ lời: Lời
nguyện thường được mở đầu bằng kêu cầu Chúa Cha hoặc trực tiếp kêu cầu Chúa
Giêsu. Phần ngỏ lời đôi khi cũng thêm vào những lý do để giải thích, nhất là
trong những lễ trọng hoặc lễ kính các thánh.
- Phần cầu xin: Lời cầu
xin thường rất tổng quát để có thể là bối cảnh ước nguyện cho bất cứ ý muốn nào
của các tín hữu, vì trong lúc thinh lặng, mọi người đã âm thầm nói lên những ý
nguyện riêng tư, cụ thể rồi. Phần này đặc biệt hướng về ngày lễ, về mùa hoặc về
mầu nhiệm mừng kính và xin những ơn ban … Tuy vậy cũng không thiếu những yếu tố
tạ ơn, ngợi khen là đặc tính cốt cán của mọi kinh nguyện phụng vụ.
- Phần kết thúc (vinh
chúc): Để kết lời nguyện, Giáo Hội thường dâng lời cầu xin lên Chúa Cha, qua
trung gian Chúa Con, trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần bởi vì chỉ có Chúa
Kitô là trung gian duy nhất, là vị Tư Tế hằng sống trung gian chuyển cầu cho
chúng ta trước mặt Chúa Cha. Và sở dĩ chúng ta dám chắc về hiệu lực của lời
kinh phụng vụ là vì có Chúa Kitô đang cầu nguyện với chúng ta. Câu kết được kéo
dài để tuyên xưng thần tính của Chúa Con, chống lại sai lầm của Ario cho rằng
Chúa Giêsu chỉ là một trung gian tầm thường, kém Chúa Cha. Vì thế tư tế đọc: Nhờ Đức Giêsu Kitô Con Chúa, là Thiên Chúa
và là Chúa chúng con, Người hằng sống và hiển trị cùng Chúa Cha, trong sự hiệp
nhất của Chúa Thánh Thần đến muôn đời.
Kết thúc hoàn toàn lời nguyện nhập lễ, cộng
đoàn tung hô Amen (NTTL 9). “Amen” vừa
có nghĩa là “ước mong được như vậy”
(Gr 28,6), “xin hãy xảy ra như ý Chúa muốn”,
vừa có nghĩa là mọi người đồng thanh chấp nhận những lời chủ tế - đại diện cộng
đoàn - dâng lên Chúa, xác nhận lời nguyện của tư tế cũng chính là ý nguyện của
mình (x. QCSL 54) như chữ ký của họ vào tài liệu cầu nguyện vậy và họ nguyện sẽ
trung thành với tất cả lòng yêu mến.[15]
Khi đáp lại Amen, những người tham dự thi hành chức năng đã được ủy nhiệm cho họ,
đó là chức tư tế cộng đồng của tín hữu.[16]
IV. ĐỀ
NGHỊ MỤC VỤ
1/ Khi linh mục chủ tế mời gọi “chúng ta dâng lời cầu nguyện”, vì không
có bất kỳ một chỉ dẫn nào về cử điệu của người tham dự nên mọi người có thể đứng
trang nghiêm hướng về cung thánh hay chắp tay/khoanh tay cúi đầu như khi cầu
nguyện riêng nhằm nối kết lời nguyện nhập lễ với thói quen đạo đức cá nhân.[17]
2/ Từ lúc chủ tế mời gọi “chúng ta dâng lời cầu nguyện”, ngoại trừ người giúp lễ giữ Sách lễ
phía trước chủ tế có thể rút lui ngay khi linh mục chắp tay kết thúc lời tổng
nguyện, còn những người khác: không nên nói gì, làm gì và cũng không nên di
chuyển [như thể lời tổng nguyện chẳng liên quan gì đến mình] cho tới khi cộng
đoàn tung hô Amen nhằm đặt mình trước sự hiện diện của Thiên Chúa và hướng tâm
trí mình lên trời cao.[18]
Bởi vậy, độc viên công bố Bài đọc I phải lưu ý những điểm này: [i] nên ở vị trí
gần/sát cung thánh; [ii] nếu ở vị trí xa cung thánh thì phải di chuyển rồi tạm
đứng ngay trước cung thánh đang khi cộng đoàn hát khúc cuối của kinh thương
xót/kinh vinh danh; [iii] chỉ tiến đến giảng đài sau lời đáp Amen của cộng
đoàn, tức là sau khi đã kết thúc phần nghi thức đầu lễ (x. NTTL 10; LNGM 137;
QCSL 32).[19]
3/ Để cộng đoàn chú ý đến phần vụ của lời nguyện
nhập lễ, chủ tế chỉ nên đọc lời nguyện này sau khi toàn thể cộng đoàn thinh lặng
trong chốc lát. Sự thinh lặng này rất hữu ích nhằm nhấn mạnh Thánh lễ vừa mang
tính cộng đoàn, vừa là hành vi trong đó chúng ta suy niệm và cầu nguyện riêng.
Điều này đòi hỏi phải để cho mỗi người tham dự có đủ thời giờ nghĩ tới điều
mình kêu xin.[20]
4/ Lời nguyện nhập lễ là “lời nguyện của vị chủ
toạ”, nghĩa là chỉ có chủ tế mới được đọc. Vậy không được phép phân chia cho
người khác đọc thay hay cùng đọc với vị chủ tế Lời nguyện nhập lễ (QCSL 30).
5/ Lời nguyện nhập lễ mang nét đặc thù và diễn
tả đặc tính riêng của từng Thánh lễ, do đó thông thường lễ nào sẽ có lời nguyện
nhập lễ riêng của Thánh lễ đó (x. QCSL 54). Tuy nhiên, đối với ngày thường
trong mùa Thường niên: có thể chọn một trong 34 bài lễ của các Chúa nhật Thường
niên và tùy theo nhu cầu mục vụ của giáo dân đòi hỏi; Còn đối với Thánh lễ dành
cho thiếu nhi, chủ tế có thể chọn lựa một lời nguyện nhập lễ khác mà xét thấy
liên hệ tốt hơn với chúng, nhưng phải cùng mùa phụng vụ.[21]
6/ Luật phụng vụ xác định rằng mỗi Thánh lễ chỉ
đọc một lời nguyện nhập lễ riêng của Thánh lễ đó, nên không được phép phối hợp
hay thay đổi lời nguyện đã được Giáo Hội quy định (x. QCSL 54): [i] Nếu có nhiều
lễ trùng nhau và được mừng kính trong một ngày, vị chủ tế phải chọn Thánh lễ có
vị trí ưu tiên hơn theo Bảng Ghi Ngày Phụng Vụ [xếp theo thứ tự ưu tiên];[22]
[ii] Nếu các lễ bằng nhau thì chọn lễ nào liên quan đến cộng đoàn nhiều hơn,
còn bỏ các lễ khác.
7/ Nếu lễ sinh/thầy giúp lễ phải giữ Sách lễ
cho chủ tế đọc thì một là di chuyển vào vị trí trước khi ngài mời gọi “chúng ta dâng lời cầu nguyện” để đỡ gây
chia trí cho người khác, hai là chú ý giữ Sách lễ ở độ cao và chênh góc phù hợp
với tầm nhìn của linh mục.[23]
V. SUY
NIỆM
Lạy Chúa Giêsu, chúng con biết rằng lời nguyện
nhập lễ là lời nguyện quy tụ tín hữu thành một cộng đoàn phụng tự. Vào những dịp
khác nhau, lời nguyện này còn chất chứa chủ đề của buổi cử hành.
Lời nguyện nhập lễ có phần kết thúc thật quan
trọng: Hội thánh thưa lên với Chúa Cha qua Chúa, Đấng Trung Gian của chúng con,
và trong sự hợp nhất với Chúa Thánh Thần.
Vâng, lạy Chúa, chính nhờ Chúa mà chúng con hướng
lên Chúa Cha. Chúa là Đấng Trung Gian của chúng con. Khi cây thập giá được dựng
trên đồi Canvê, âm phủ tăm tối ngăn cách giữa trời và đất đã bị xua tan để cuối
cùng trời đất được bắc một nhịp cầu. Chúa đã từ trời xuống thế để nâng loài người
sa ngã lên. Khi Chúa lên ngự bên hữu Chúa Cha, chắc chắn Chúa muốn ôm lấy toàn
thể nhân loại chúng con theo Chúa. Chúa đã một mình giáng thế, nhưng khi về lại
thiên đàng, Chúa muốn kéo theo Chúa một đoàn người đông đảo từ khắp muôn phương
mà vì họ mà Chúa đã sinh xuống trần gian. Giờ đây, mỗi khi Hội Thánh dâng kinh
nguyện lên Chúa Cha, Chúa đã ân cần trình bày những lời nguyện này lên ngai ân
sủng như chính lời nguyện của Chúa.
Chúng con cầu xin nhờ Chúa là Thiên Chúa. Bị
đóng đinh trên thánh giá và đang ngoi ngóp trong hơi thở sắp sinh thì, Chúa vẫn
tuyên bố là Chúa của mọi loại thọ tạo. Và hành động đầu tiên của Chúa trong tư
cách Thiên Chúa chính là trao ban Thần Khí cho Hội thánh. Khi Hội thánh cầu khẩn
với Chúa như vị Thiên Chúa, Hội thánh xin hồng ân từ Chúa Thánh Thần. Lời nguyện
của chúng con sẽ thành vô ích nếu như không đặt để nơi Chúa Thánh Linh. Chúa đã
chết và sống lại để cử đến và mang đến cho chúng con quyền năng và sự hiện diện
an ủi của Chúa Thánh Thần. Vì thế, khi Hội thánh gợi lại sự chết và sống lại của
Chúa, không phải là Hội thánh đang chờ mong ân huệ của Chúa Thánh thần như kết
quả của lời nguyện ấy sao?
Lạy Chúa, khi hiệp cùng Hội thánh trong lời
nguyện nhập lễ, xin giúp chúng con nhận ra tiếng nói còn ẩn khuất bên dưới ngôn
ngữ khiếm khuyết của con người. Xin dạy chúng con luôn biết cầu nguyện nhân
danh Chúa, vì không có Chúa chúng con chẳng dám đứng trước nhan Chúa Cha. Khi
chúng con khẩn cầu Chúa, Thiên Chúa của chúng con, xin làm cho cuộc sống chúng
con thêm sung mãn bằng ân huệ và sự hiện diện của Thần Khí Chúa. Amen.
[1] John Baldovin, “History of the Latin Text and
Rite”, trong A Commentary on the Order of
Mass of the Roman Missal, ed. Foley Edward (Collegeville: The Liturgical Press, 2011), 122.
[2] X. Vogel, Medieval
Liturgy, 38-45, trích lại trong John Baldovin, “History of the Latin Text
and Rite”, 122.
[4] Lawrence J. Johnson, The Mystery of Faith: A Study of the Structural Elements of the Order
of the Mass (Washington DC: FDLC,
NE, 2003), 20.
[8] X. Erasto Fernandez, SSS, the Eucharist: Step by Step (Mumbai: St.
Paul, 2005), 27; Nguyễn Thế Thủ, Phụng Vụ
Thánh Thể, 52-53.
[10] Dominic E. Serra, “Theology of the Latin Text
and Rite”, trong A Commentary on the
Order of Mass of the Roman Missal, ed.
Edward Foley (Collegeville: The
Liturgical Press, 2011), 131.
[11] André Mutel et Peter Freeman, Cérémonial de la sainte Messe à l'usage ordinaire des paroisses: suivant
le missel romain de 2002 et la pratique léguée du rit romain, 2nd
ed. (Perpignan: Editions Artège, 2012), 90.
[12] Suy tư
Thần học và Mục vụ Chuẩn bị cho Đại hội Thánh Thể Quốc tế lần thứ 50 tại Dublin,
Ireland (10 – 17/06/2012), số 64.
[13] Adolf Adam, The Eucharist Celebration: The Source and Summit of Faith, trans.
Robert C. Schultz (Collegeville: The
Liturgical Press, 1994), 30.
[15] Jean - Yves Garneau, SSS, Discovering Eucharist: According to A Ritual
Approach, trans. Conrad Goulet, SSS (Makati: St. Paul Publications, 1991),
51-52.
[17] Paul Turner, Let Us Pray: A Guide to the Rubrics of Sunday Mass (Collegeville:
The Liturgical Press, 2012), no. 256.
[18] X. André Mutel et Peter Freeman, Cérémonial de la sainte Messe, 91;
Catholic Bishops’ Conference of England and Wales, Celebrating the Mass (London: Catholic Truth Society and Colloquium
[CaTEW] Ltd., 2005), 150.
[19] Turner, Let
Us Pray, nos. 259, 267; X. André Mutel et Peter Freeman, Cérémonial de la sainte Messe, 91.
[23] André Mutel et Peter Freeman, Cérémonial de la sainte Messe, 85.