WHĐ (12.03.2024) – Tiếp tục loạt bài Suy niệm tĩnh tâm Mùa Chay năm nay, sáng thứ Sáu, mồng 08.03.2024,
Đức Hồng y Raniero Cantalamessa, O.F.M. Cap., giảng thuyết viên phủ Giáo Hoàng, trình bày bài giảng thứ ba tập trung vào diễn từ Người Mục tử Nhân lành trong Tin Mừng Thánh Gioan. Sau đây là toàn văn Việt ngữ bài giảng của Đức Hồng y:
Đức Hồng y Raniero Cantalamessa, O.F.M. Cap.
Bài giảng tĩnh tâm Mùa Chay cho Giáo triều Rôma
Năm 2024 - Bài 3: “TA LÀ MỤC TỬ NHÂN LÀNH”
Chúng ta tiếp tục
suy niệm về câu “Ta là” trang trọng của Đức Kitô trong Tin Mừng Gioan. Lần
này, Chúa Giêsu không trình bày về chính Người với chúng ta bằng những biểu tượng
của những thực tại vật chất vô tri vô giác - bánh, ánh sáng - nhưng với tính
cách con người, mục tử: “Ta là mục tử nhân lành!”. Chúng ta hãy lắng
nghe phần diễn từ trong đó bao hàm lời tự xưng của Đức Kitô:
Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho chiên. Người làm thuê, vì
không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê và không thiết gì đến
chiên. Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết các chiên của tôi và chiên của tôi biết
tôi, như Chúa Cha biết tôi và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho chiên (Ga 10, 11-15).
Hình ảnh Đức Kitô
"Mục tử Nhân lành" có một vị trí đặc biệt trong nghệ thuật và
các bản khắc của Kitô giáo thời sơ khai. Vị Mục tử Nhân lành được trình bày,
theo hình thức cổ điển, trong vẻ đẹp rạng ngời của tuổi trẻ. Người vác trên vai
một con cừu và giữ chặt chân của nó. Hình ảnh người mục tử nhân lành theo Tin Mừng
Gioan được kết hợp với hình ảnh trong Tin Mừng nhất lãm về người mục tử đi tìm
con chiên lạc (Lc 15, 4-7).
Bối cảnh của đoạn
văn về người mục tử nhân lành cũng giống như bối cảnh của hai chương trước, tức
là cuộc thảo luận với “người Do Thái” diễn ra tại Giêrusalem, nhân dịp Lễ
Lều. Nhưng chúng ta biết rằng, đối với Gioan, bối cảnh không quan trọng lắm, bởi
vì, không giống như Tin Mừng Nhất lãm, Gioan không quan tâm đến việc cung cấp
cho chúng ta một trình thuật lịch sử và mạch lạc về cuộc đời của Chúa Giêsu (điều
mà ngài dường như coi là đương nhiên), mà là một loạt những “dấu chỉ” và
giáo huấn của Thầy. Tuy nhiên, những dấu chỉ và giáo huấn này không bao giờ xuất
hiện bên ngoài thời gian và không gian, như xảy ra trong các sách thần học,
nhưng cũng được đặt ở những địa điểm và thời gian chính xác (đôi khi còn chính
xác hơn cả Tin Mừng Nhất Lãm) vốn mang lại cho những dấu chỉ và giáo huấn của
Chúa Giêsu một giá trị “mang tính lịch sử” theo nghĩa sâu sắc nhất của
thuật ngữ này.
* * *
Chúng ta hãy đối
diện với thực tại rằng: hình ảnh người mục tử nhân lành và những hình ảnh liên
quan đến con chiên và đàn chiên, ngày nay không còn hợp thời nữa. Chẳng lẽ Chúa Giêsu không sợ làm tổn thương sự nhạy cảm của chúng ta
và xúc phạm đến phẩm giá của chúng ta như là những con người tự do khi gọi
chúng ta là chiên của Người sao? Con người ngày nay coi thường vai trò của
chiên cừu và ý niệm về bầy đàn. Tuy nhiên, họ không nhận ra rằng mình đã trải
qua biết bao tình huống thực tế mà họ lên án về mặt lý thuyết. Một trong những
hiện tượng hiển nhiên nhất trong xã hội chúng ta là sự đại chúng hóa. Báo chí,
truyền hình, internet được gọi là những “phương tiện truyền thông đại chúng”,
không chỉ vì chúng cung cấp thông tin cho đại chúng mà còn vì chúng định hình đại
chúng.
Chúng ta đã để
mình bị hướng dẫn một cách ranh mãnh bởi đủ loại thao túng và thuyết phục ẩn dấu. Người khác tạo ra những mô hình của sự sung túc và hành vi, lý tưởng cũng
như mục tiêu cho sự tiến bộ và mọi người áp dụng chúng; chúng ta đi theo, sợ bị
lạc nhịp, bị quảng cáo chi phối và ăn cắp ý tưởng. Chúng ta ăn những gì họ bảo,
chúng ta mặc theo xu hướng thời trang, và chúng ta nói những gì chúng ta nghe.
Chúng ta cảm thấy thích thú khi xem một bộ phim chuyển động nhanh, với những
người di chuyển giật gân, giống như những con rối; nhưng đó chính
xác là hình ảnh mà chúng ta sẽ có về chính mình nếu chúng ta nhìn bản thân bằng
con mắt biết phê phán hơn.
Để hiểu lời Chúa
Giêsu tự xưng mình là mục tử nhân lành và gọi chúng ta là chiên của Người theo
nghĩa nào, chúng ta phải quay trở lại lịch sử Kinh thánh. Khởi đầu, Israel là một
dân tộc chăn chiên du mục. Những người Bedouin trong sa mạc ngày nay cho chúng
ta ý tưởng về cuộc sống trước đây của các bộ tộc Israel như thế nào. Trong xã hội
này, mối tương quan giữa người chăn chiên và đàn chiên không chỉ mang tính kinh
tế, nghĩa là, dựa trên lợi ích nhưng là một mối tương quan gần như mang tính cá
vị được hình thành giữa người chăn chiên và đàn chiên. Ngày qua ngày ở cùng
nhau tại những nơi vắng vẻ, không có một bóng người xung quanh, người chăn chiên
cuối cùng biết mọi thứ về từng con chiên. Đàn chiên nhận ra tiếng của người
chăn, vốn là người thường nói to với đàn chiên của mình như thể chúng là con người.
Điều này giải thích tại sao, để diễn tả mối tương quan của mình với nhân loại,
Thiên Chúa đã sử dụng hình ảnh này, một hình ảnh mà ngày nay đã trở nên mơ hồ.
Tác giả Thánh Vịnh cầu nguyện “Lạy Mục Tử nhà Israel, Ngài là Ðấng chăn giữ
nhà Giuse như chăn giữ chiên cừu, xin hãy lắng tai nghe!” (Tv 80, 2).
Với sự chuyển đổi
từ một tình trạng của bộ tộc du mục sang tình trạng của một dân tộc định cư,
danh hiệu mục tử được mở rộng ra cho cả những người hành động nhân danh Thiên
Chúa trên trái đất: các vị vua, các linh mục, các nhà lãnh đạo nói chung. Nhưng
ở đây, biểu tượng mục tử bị phân kỳ: nó không còn chỉ gợi lên hình ảnh về sự bảo
vệ và an toàn mà còn gợi lên hình ảnh của sự bóc lột và áp bức. Bên cạnh hình ảnh
người mục tử tốt lành, cũng xuất hiện hình ảnh mục tử xấu xa. Trong sách ngôn sứ Ezekiel, chúng ta thấy một bản cáo trạng khủng
khiếp chống lại những mục tử xấu xa, là những người chỉ biết lo cho mình; họ uống sữa, họ mặc đồ len, nhưng họ không
quan tâm chút nào đến đàn chiên, mà thực sự lại đối xử “một cách tàn bạo và
hà khắc” (x. Ez 34, 1 ff.). Bản cáo trạng chống lại những mục tử xấu xa này
được theo sau bởi một lời hứa: Một ngày nào đó, chính Thiên Chúa sẽ chăm sóc
đàn chiên của mình bằng tình yêu: “Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị
thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh” (Ez 34,16).
Trong Tin Mừng,
Chúa Giêsu lấy chủ đề này về mục tử tốt lành và mục tử xấu xa, nhưng với một sự
mới mẻ. Người phán: “Ta là mục tử nhân lành!”. Lời hứa của Thiên Chúa đã
trở thành hiện thực, vượt quá mọi sự mong đợi.
* * *
Ở đây, chúng ta
phải nhớ lại ý định ban đầu của mình đằng sau những bài suy niệm này: một ý định
mang tính cá vị hơn là mang tính “mục vụ”, nghĩa là làm cho Tin Mừng thấm
nhập vào đời sống của chúng ta, để sau đó, chúng ta có thể loan báo Tin Mừng
cho thế giới một cách đáng tin hơn.
Bài diễn từ của
Chúa Giêsu có hai tác nhân: mục tử và đàn chiên, nghĩa là mỗi con chiên (ở số
ít). Chúng ta sẽ nhận ra mình nơi tác nhân nào trong 2 tác nhân này? Nhân kỷ niệm
thụ phong giám mục, Thánh Augustinô, đã nói với mọi người: “Cho anh chị em,
tôi là một giám mục, với anh chị em, tôi là một Kitô hữu!” [1].
Và trong một dịp khác: “Đối với anh chị em, chúng tôi giống như những mục tử,
nhưng đối với Mục tử Tối cao, chúng tôi cũng là chiên giống như anh chị em”
[2].
Vì vậy, chúng ta hãy gác lại vai trò của mình – một số trong anh em là những mục
tử và tôi là người giảng thuyết - và chúng ta hãy cảm nhận một lần rằng chúng
ta chỉ là những con chiên trong đàn. Chúng ta hãy nhớ đến câu hỏi rất thân
thương của Chúa Giêsu tại Caesarea: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Như thể Người đang nói: “Hãy quên trong
giây lát, tôi là ai trong mắt người khác và tập trung vào chính con”.
Carlo Gustavo
Jung, nhà tâm lý học nổi danh, đã định nghĩa bác sĩ tâm thần là: “Người chữa
lành bị tổn thương” [3].
Ý nghĩa của học thuyết của ông là bạn phải biết vết thương tâm lý của chính
mình để có thể chữa lành vết thương của người khác và việc biết vết thương của
người khác sẽ giúp chữa lành vết thương của chính bạn. Trực giác của nhà phân
tâm học cũng được áp dụng cho những vết thương tâm linh. Người mục tử của Giáo
hội cũng là một “người chữa lành bị tổn thương”, một người đau bệnh phải
giúp người khác được chữa lành.
Chúng ta hãy thử
xem đâu là căn bệnh chính mà chúng ta cần được chữa lành để có thể chữa cho người
khác. Điều mà xuyên suốt Kinh thánh, được dạy cho đàn chiên về Thiên Chúa là Mục
Tử là gì? Đó là đừng sợ hãi! Những lời này tràn ngập trong ký ức, bắt đầu từ những
lời của Chúa Giêsu: “Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ” (Lc 12,32),
“Ðức Giêsu nói: "Sao nhát
thế, hỡi những người kém lòng tin!" Rồi Người chỗi dậy, ngăm đe gió và biển:
biển liền lặng như tờ” (Mt
8,26). Chúng ta cũng hãy nhớ một số câu quen thuộc trong Thánh vịnh, nhưng
không phải chỉ là những trích dẫn trong Kinh thánh, mà bằng cách biến những câu
này thành của riêng mình khi chúng ta nghe:
CHÚA là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn
gì.
… dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. (Tv 23, 1,4).
CHÚA là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi,
tôi còn sợ người nào?
CHÚA là thành luỹ bảo vệ đời tôi,
tôi khiếp gì ai nữa? (Tv
27,1).
Vì vậy, chúng ta
hãy nói về “sự dữ đen tối” này, đó là nỗi sợ hãi, nó có sức mạnh
cướp đi niềm vui sống của con người. Sợ hãi là tình trạng khẳng định sự tồn tại
của chúng ta; nó đồng hành cùng chúng ta từ thời thơ ấu cho đến khi chết. Đứa
trẻ sợ nhiều thứ; chúng ta gọi đó là nỗi kinh hoàng trẻ thơ; thanh thiếu niên
đôi khi sợ người khác giới và rơi vào mặc cảm nhút nhát, tự ti; Chúa Giêsu đã đặt
tên cho những nỗi sợ hãi chính của chúng ta khi trưởng thành: đó là sợ về ngày
mai - "chúng ta sẽ ăn gì?" (Mt 6, 31); sợ thế gian và kẻ
quyền thế, - vốn là "những kẻ giết
được thân xác" (Mt 10,28) . Đối với mỗi nỗi sợ hãi này, Chúa
Giêsu đều tuyên bố: “Đừng sợ!”. Đây không phải là một từ trống rỗng và bất
lực mà là một từ có hiệu lực, và gần như mang tính bí tích. Giống như tất cả những
lời của Chúa Giêsu, câu “Đừng sợ!” mang lại ý nghĩa của nó; “Đừng sợ!”
không đơn thuần giống như câu: “Hãy can đảm lên!” mà con người chúng ta
nói với nhau.
* * *
Nhưng sợ hãi là
gì? Chúng ta hãy gác lại nỗi thống khổ mang tính hiện sinh mà các triết gia đã tranh
luận suốt một thế kỷ rưỡi nay. Chúng ta hãy nói về những nỗi sợ phổ biến và
quen thuộc. Chúng ta có thể nói rằng sợ hãi là sự phản ứng trước một mối đe dọa
đối với con người chúng ta, sự phản ứng trước một mối nguy hiểm thực sự hoặc được
cho là nguy hiểm; từ mối nguy hiểm lớn nhất là cái chết, đến những mối nguy hiểm
cụ thể đe dọa sự yên bình, an toàn thể lý hoặc thế giới cảm xúc của chúng ta. Sợ
hãi là biểu hiện của bản năng tự bảo vệ cơ bản của chúng ta. Tùy thuộc vào việc
chúng ta đang đối diện với những mối nguy hiểm khách quan và thực tế hoặc những
mối nguy hiểm tưởng tượng, chúng ta nói về những nỗi sợ hãi chính đáng và không
chính đáng, hoặc thậm chí là những chứng rối loạn thần kinh chức năng, chẳng hạn
như: sợ bị nhốt kín, sợ khoảng trống, sợ những căn bệnh tưởng tượng, v.v.
Tâm lý học và
phân tâm học cố gắng chữa trị sự sợ hãi và chứng rối loạn thần kinh chức năng bằng
cách phân tích chúng và đưa chúng từ vô thức đến ý thức. Tin Mừng không làm cho
chúng ta xao lãng những phương tiện nhân loại này, thậm chí còn khuyến khích
chúng, nhưng Tin Mừng bổ sung thêm một điều mà không khoa học nào có thể mang lại.
Thánh Phaolô viết:
“Ai có thể tách chúng ta ra
khỏi tình yêu của Ðức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm
nguy, bắt bớ, gươm giáo? … Nhưng trong mọi thử
thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Ðấng đã yêu mến chúng ta" (Rm 8, 35,37).
Sự giải thoát ở
đây không phải ở ý tưởng hay kỹ thuật mà là ở nơi một con người! “Giải pháp”
cho mọi nỗi sợ hãi là Đức Kitô, Đấng đã nói với các môn đệ của Người rằng: “Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33). Từ lĩnh vực cá nhân, Thánh Tông đồ mở rộng cái nhìn của
mình đến bối cảnh vĩ đại của không gian và thời gian, từ những nỗi sợ hãi nhỏ
bé mang tính cá nhân đến những nỗi sợ hãi lớn lao và mang tính phổ quát. Thánh
nhân viết:
“Tôi tin chắc rằng: cho dầu
là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương
lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, chiều cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài
thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên
Chúa thể hiện nơi Ðức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8, 38-39).
“Cho dầu là sự chết hay sự sống!”, Đức Kitô đã chiến thắng điều khiến chúng ta sợ hãi nhất
trên thế gian, đó là cái chết. Thư gửi tín hữu Do Thái nói về Chúa Giêsu rằng, nhờ cái chết “Người
đã tiêu diệt tên lãnh chúa gây ra sự chết, tức là ma quỷ, và đã giải thoát những ai vì sợ chết mà suốt đời sống trong tình trạng
nô lệ” (Dt 2, 14-15).
“Cho dầu chiều cao hay vực thẳm”, nghĩa là: không phải cái vô cùng lớn là vũ trụ với
tỷ lệ ngày càng mở rộng của nó, cũng không phải cái vô cùng nhỏ – nguyên tử – mà
chúng ta đã tự mình mạo hiểm khám phá ra sức mạnh khủng khiếp của nó. Ngày nay,
chúng ta tiếp xúc ngày càng nhiều hơn với loại sợ hãi vũ trụ này. Con người hiện
đại cảm nhận sâu sắc sự dễ bị tổn thương của mình trong một thế giới bạo lực và
điên rồ. Tương lai của hành tinh chúng ta sẽ ra sao nếu, bất chấp những lời cảnh
báo từ Đức Giáo Hoàng và những người có trách nhiệm nhất trong xã hội, chúng ta
vẫn tiếp tục tự do tiêu thụ và gây ô nhiễm?
Khi kết thúc những
suy tư triết học của mình về mối nguy hiểm của
công nghệ đối với con người hiện đại, Martin Heidegger, gần như bỏ cuộc, đã thốt
lên: "Chỉ có một vị thần mới có thể cứu chúng ta!". “Một vị
thần” (viết thường!) là cách thần thoại thường dùng để nói về điều gì đó vượt
lên trên chúng ta. Chúng ta xóa mạo từ không xác định và nói "chỉ có
Chúa (và chúng ta biết đó là vị Chúa nào!) mới có thể cứu chúng
ta!"
Đây không phải là
việc đổ trách nhiệm của chúng ta lên Thiên Chúa, mà là tin rằng, cuối cùng, “mọi sự đều sinh ích cho những ai mến yêu Thiên
Chúa” [và những người được
Thiên Chúa yêu thương!] (x. Rm 8,28). Khi đối xử với Thiên Chúa, thước
đo là sự vĩnh cửu. Bạn có thể thất vọng về thời gian, nhưng không phải là đời đời.
Là Kitô hữu, chúng ta có lý do mạnh mẽ hơn nhiều so với tác giả Thánh vịnh để lặp
lại, trước những biến động về thể chất và đạo đức của thế giới:
* * *
Nhưng chúng ta vẫn
chưa xem xét đến điều an ủi nhất mà Tin Mừng nói với chúng ta về những sợ hãi
và lo lắng của chúng ta! Sau khi dùng hàng ngàn cách để khuyên nhủ các môn đệ đừng
sợ hãi, Chúa Giêsu đã làm một việc khác. Chúng ta chưa bao giờ nghe trong Kinh
Thánh rằng người mục tử nhân lành hy sinh mạng sống vì đàn chiên của mình. Đúng
là người chăn biết chiên, hướng dẫn chiên, chăm sóc chiên, bảo vệ chiên nhưng chưa
bao giờ người chăn chiên hy sinh tính mạng vì đàn chiên. Chúa Giêsu
hứa làm điều đó và Người đã thực hiện!
Chúa Giêsu đã
gánh lấy nỗi sợ hãi của chúng ta. Tác giả Thư gửi tín hữu Do Thái nói: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Ðức Giêsu đã lớn
tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Ðấng có quyền năng cứu
Người khỏi chết” (Dt
5,7). Tác giả ám chỉ những gì đã xảy ra với Chúa Giêsu vào đêm ở Vườn
Gethsemane. Thánh sử Marcô thuật rằng tại Vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu “bắt đầu cảm thấy hãi hùng xao xuyến. Người nói với các môn đệ: "Tâm hồn Thầy
buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức” (Mc 14,33-34). Chúa Giêsu cảm thấy cô
đơn, bị cắt đứt khỏi xã hội loài người; Người yêu cầu các Tông đồ hãy ở bên Người,
ở lại với Người. Cũng Thư gửi tín hữu Do Thái nêu bật sứ điệp an ủi dành cho
chúng ta trong trang Tin Mừng mầu nhiệm này:
Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Ðấng không biết cảm thương những
nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta,
chỉ trừ tội lỗi. Bởi thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai
Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần (Dt 4,15-16).
Bằng việc tự mình
gánh lấy chúng, Chúa Giêsu cũng đã cứu chuộc những nỗi sợ hãi và lo lắng của
chúng ta. Kinh Thánh nói rằng, “Nhờ vết thương của Người, chúng ta được chữa
lành”, (Is 53,5-6; 1 Pr 2, 24). Chúa Giêsu là “người chữa
lành bị tổn thương” đích thực mà nhà tâm lý học đã nói đến, người bị thương
lại là người chữa lành vết thương của nhiều người. Người đã biến nỗi sợ hãi và
thống khổ của chúng ta thành cơ hội để chúng ta lớn lên về mặt nhân tính và
lòng trắc ẩn.
Nhưng ngay cả điều
này cũng không bàn hết khía cạnh điều Tin Mừng nói với chúng ta về nỗi sợ hãi của
chúng ta. Nếu mọi chuyện kết thúc ở đây thì niềm an ủi của chúng ta vẫn chưa trọn
vẹn. Chúng ta có trước mắt một tấm gương anh hùng và cảm động để noi theo, mà lại
không có một bàn tay nào để nâng đỡ chúng ta. Nhưng đây là lời loan báo quan trọng
thứ hai của Tin Mừng: Đấng chữa lành bị đâm thâu đã sống lại từ cõi chết và
nói: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).
Chúa Giêsu không chỉ cho chúng ta mẫu gương làm sao để vượt qua nỗi thống khổ
mà đã cho chúng ta phương tiện để vượt thắng nó: sự hiện diện và ân sủng của
Người. Đối với Thánh Phaolô, người đang đau buồn vì “cái dằm đâm vào xác thịt”
của mình, thì Đấng Phục Sinh trả lời: “Ơn của Thầy đã đủ cho con” (2 Cr 12,9).
Các vị tử đạo đã
làm được điều đó - và vẫn còn làm điều đó – một trải nghiệm hữu hình. Trong Sử
liệu về các vị tử đạo ở Carthage, bị sát hại dưới thời hoàng đế Septimius
Severus vào những năm đầu của thế kỷ thứ III, (đây là một trong những Sử liệu
đáng tin cậy nhất về mặt lịch sử trong số tất cả các Sử liệu về các vị tử đạo!),
chúng ta đọc thấy rằng một trong số các vị tử đạo, tên là Felicita, bị bắt khi
đang mang thai ở tháng thứ tám. Trong tù, cô rên rỉ vì những đau đớn khi sinh nở.
Một trong những tên cai ngục nói với cô: “Nếu bây giờ cô rền rĩ, liệu cô sẽ
làm gì khi bị ném cho đám thú dữ trong đấu trường?” Và cô ấy trả lời: “Bây
giờ tôi là người đau khổ, lúc ấy, sẽ có người khác chịu đau khổ thay tôi!” [4].
Chúng ta có một
ví dụ gần với chúng ta hơn. Trong tù và trước ngày bị treo cổ, sau cuộc đảo chính
chống Hitler thất bại, Mục sư Dietrich Bonhoeffer đã viết những câu thơ này và
thường được dùng như thánh thi phụng vụ:
Được bao quanh
bởi sức mạnh kỳ diệu,
Chúng tôi
thanh thản chờ đợi, dù điều gì có thể xảy ra.
Vì có Chúa ở
cùng, dẫu đêm khuya hay sớm mai,
Và chắc chắn,
Ngài luôn ở bên, vào mỗi ngày mới [5].
* * *
Trong những bài
suy niệm này, chúng ta đã quyết định không nói về những gì chúng ta phải làm
cho người khác, mà chỉ nói về những gì Chúa Giêsu là và làm cho chúng ta: đồng hoá
mình với đàn chiên hơn là với mục tử. Nhưng chúng ta phải thực hiện một ngoại lệ
nhỏ trong dịp này. Bất kể mọi lời khuyến khích của Tin Mừng, chúng ta không phải
lúc nào cũng có khả năng giải thoát mình khỏi sợ hãi và lo lắng; nhưng chúng ta
có thể có khả năng giải thoát người khác hoặc giúp họ tự giải thoát khỏi sợ hãi
và lo lắng.
Pascal đã viết
trong tác phẩm Tưởng Niệm: “Chúa Giêsu sẽ chịu thống
khổ cho đến tận thế; chúng ta không được ngủ trong suốt thời gian này” [6].
Chúa Giêsu tiếp tục chịu đau khổ vì trong chiều hướng vĩnh cửu mà Người đã bước
vào, không còn quá khứ nữa, mà mọi thứ đều hiện diện một cách mầu nhiệm, ngay cả
đêm của Người ở Vườn Gethsemane. Nhưng Người cũng đang thống khổ theo một cách
khác, ít mầu nhiệm hơn. Chúa Giêsu ở trong thân mình mầu nhiệm của Người: nơi
những người bị áp bức bởi đau khổ và sợ hãi vì cô đơn, bệnh tật, bách hại, lưu
đày, chiến tranh. Bây giờ chúng ta là mắt, miệng, và tay của Đức Kitô. Chúng ta
hãy cố gắng mang lại niềm an ủi cho một số người trong số họ và chúng ta sẽ
nghe thấy những lời của Chúa Giêsu phục sinh vang vọng trong tâm hồn chúng ta:
"Các con đã làm cho
chính Ta vậy!" (Mt 25, 40). Cả chúng ta nữa,
dù là mục tử hay đơn thuần là tín hữu, cũng phải là những người chữa lành bị
thương tích, những người bệnh đáng thương, nhưng có thể chữa lành cho người
khác.
Tôi kết thúc bằng
một giai thoại mà tôi nghĩ là nhiều người biết, nhưng nó giúp chúng ta khắc sâu
trong tâm trí hình ảnh Chúa Giêsu, Đấng vác chúng ta trên vai trong những thời
khắc khó khăn của cuộc đời. Giai thoại kể về một người nhìn thấy toàn bộ cuộc đời
mình trong một giấc mơ. Dưới đây là bản tóm tắt ngắn gọn của câu chuyện:
Tôi bước đi trên bãi cát ven biển, để lại phía sau không chỉ một mà là hai cặp
dấu chân. Tôi hiểu rằng cặp dấu chân thứ hai là bước chân của Chúa Giêsu đi bên
cạnh tôi và tôi rất vui. Nhưng đến một lúc nào đó, cặp dấu chân thứ hai này biến
mất và chỉ còn thấy dấu của một
cặp chân trên cát. Tôi
hiểu điều này diễn ra đúng vào thời điểm đen tối và khó khăn nhất trong cuộc đời
tôi. Tôi phàn nàn về điều đó và nói: “Lạy Chúa, Chúa đã bỏ con một mình ngay
lúc con cần Chúa nhất!” Chúa Giêsu trả lời tôi, “Này con, cặp dấu chân
con nhìn thấy đó là của Ta. Con đã ở trên vai của Ta rồi!”
Nt. Anna Ngọc Diệp, OP
Dòng Đa Minh Thánh Tâm
Chuyển ngữ từ: cantalamessa.org (08. 03. 2024)