BÀI GIẢNG THỨ
SÁU TUẦN THÁNH
CỦA VỊ GIẢNG THUYẾT PHỦ GIÁO HOÀNG
NĂM 1988: “BỊ NGHIỀN NÁT VÌ CHÚNG TA PHẠM TỘI”
Đây là bài giảng của Đức Hồng y Raniero Cantalamessa OFM
Cap, giảng thuyết Phủ Giáo Hoàng, vào Thứ Sáu Tuần Thánh năm 1988 với sự hiện diện của
Đức Giáo Hoàng và Giáo triều Roma. Mở đầu bài giảng, ngài nói:
Tông
đồ Phaolô viết: “Khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về
Đức Kitô Giêsu, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người.” (Rm
6,3) Vậy sự kiện được dìm trong nước lúc rửa tội là dấu chỉ bên ngoài và hữu
hình của một sự “tắm rửa” khác và một sự “mai táng” khác: sự mai táng cái chết
của Đức Kitô. Thế nhưng điều đã xẩy ra lúc đầu, theo cách nghi thức và tượng
trưng, một ngày kia phải được thực hiện trong các sự kiện, bằng đức tin, trong
suột cuộc sống, để điều đó không chỉ là một biểu tượng. Chúng ta phải tiến hành
một sự dìm mình cứu độ trong cuộc Khổ nạn của Đức Kitô, chúng ta dìm mình trong
đó bằng tinh thần, cảm thấy mình cũng phải chịu lạnh lẽo và cay đắng, để ra khỏi
đó mà như được đổi mới và tôi luyện lại.
Kinh
Thánh viết là ở Giêrusalem có một cái hồ nước lạ lùng, ai là người đầu tiên
nhào xuống đó khi nước khuấy động thì được chữa lành. Chúng ta phải nhảy xuống
hồ nước, hoặc đúng hơn, nhảy xuống đại dương là cuộc Khổ nạn của Đức Kitô, vì
đó là cuộc khổ nạn của Con Người-Thiên Chúa: một đại dương bao la, không bờ
không đáy.
Đó
là cuộc Khổ nạn của linh hồn Đức Kitô, Đấng là linh hồn của cuộc Khổ nạn, điều
làm cho cuộc Khổ nạn này có một giá trị độc nhất và siêu việt. Những người khác
đã chịu những đau khổ thể xác mà Đức Giêsu đã chịu, và có lẽ còn nặng nề hơn. Dầu
sao, chắc chắn về phương diện thể lý, tất cả những đau khổ mà mọi người phải chịu
qua các thế kỷ, tạo thành một khối lớn hơn những đau khổ của Đức Giêsu; nhưng
đàng khác, toàn bộ các đau khổ và kinh hoàng của con người sẽ không bao giờ đạt
tới, ngay cả từ xa, cuộc Khổ nạn của linh hồn Đấng Cứu Chuộc.
Một
sự đau khổ trong linh hồn như thế hoàn toàn thấy có trong những lời sau đây của
tông đồ Phaolô: “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa` đã biến người
thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính
trong Người.” (2Cr 5,21) Chính Con Thiên Chúa, Đấng vô tội, Đấng thánh, trở
thành “tội”, tội được nhân cách hóa!
Ở
Ghếtsêmani, Đức Giêsu cầu nguyện rằng: “Xin cho con khỏi phải uống chén
này!” (Mt 26,39) Trong Kinh Thánh, hình ảnh chén hầu như luôn luôn gợi
ra ý tưởng về cơn giận của Thiên Chúa chống lại tội lỗi (x. Kh 14,10). Nơi
Isaia, nó được gọi là “chén lôi đình” (Is 51,22). Phaolô viết: “Từ
trời, Thiên Chúa mạc khải cơn thịnh nộ của Người chống lại mọi thứ vô luân và bất
chính.” (Rm 1,18) Đó là một loại nguyên tắc phổ quát. Nơi nào có tội lỗi,
không thể không có sự xét xử của Thiên Chúa, chữ “không!” khủng khiếp của Ngài;
chẳng vậy, chính Thiên Chúa thỏa hiệp với tội lỗi, không còn phân biệt giữa thiện
và ác, cả vũ trụ sẽ sụp đổ. Cơn giận của Thiên Chúa không giống như con giận của
con người, chính là một danh hiệu khác để làm rõ nét sự thánh thiện của Thiên
Chúa.
Giờ
đây, trong cuộc Khổ nạn của mình, Đức Giêsu là sự vô đạo, tất cả sự vô đạo của
thế giới. Chính vì vậy cơn giận của Thiên Chúa đổ xuống trên Ngài. Thiên
Chúa “đã lên án tội trong thân xác Dức Kitô” (x. Rm 8,3).
Một
viễn tượng quá pháp lý về sự việc ngăn cản không cho hiểu chính xác cuộc Khổ nạn
của Đức Kitô. Không phải là một bên là loài người với những tội lỗi của họ, và
bên kia là Đức Giêsu chịu khổ và chịu phạt vì những tội lỗi này, mà vẫn hoàn
toàn đứng ở xa. Tương quan giữa Đức Giêsu và tội lỗi không gián tiếp cũng không
duy nhất mang tính pháp lý, nhưng gần gũi và thật sự. Nói khác đi tội lỗi ở nơi
Ngài, Ngài đã mắc tội cách mầu nhiệm, vì Ngài đã tự nguyện “mang lấy”
chúng. “Tội lỗi của chúng ta, chính Ngài đã mang vào thân thể
Ngài” (1Pr 2,24). Một cách nào đó Ngài cảm thấy mình là tội lỗi của thế
giới, và chính đó là cuộc Khổ nạn nơi linh hồn.
***
Một
ngày nào đó sẽ phải gán một cái tên và một bộ mặt cho thực tại tội lỗi này, để
nó không còn là một ý tưởng trừu tượng cho chúng ta, hoặc một việc ít quan trọng,
như thế gian nghĩ về nó. Đức Giêsu đã đảm nhận tất cả sự kiêu căng của con người,
tất cả sự phản loạn công khai hay ngấm ngầm chống lại Thiên Chúa, tất cả sự dâm
dật (là tội và vẫn là tội, cho dù mọi người bắt đầu quả quyết ngược lại), tất cả
sự giả hình, tất cả sự bạo hành và bất công, tất cả sự bóc lột người nghèo khổ
và yếu đuối, tất cả sự dối trá, ghen ghét, là một điều kinh khủng.
Chính
trong cuộc Khổ nạn của Đức Kitô mà những lời của Isaia chúng ta vừa nghe trong
bài đọc I được thực hiện đầy đủ: “Chính người đã bị đâm vì chúng ta phạm
tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm, đã chịu sửa trị để chúng ta được bình
an.” (Is 53,5), Chính Người, “Đấng công chính chịu đau khổ”, cầu nguyện
trong các Thánh vịnh và thưa lên Chúa Cha: “Cơn giận Chúa đè nặng trên
con, như sóng cồn xô đẩy dập vùi. Bao cơn thịnh nộ, Ngài đổ ngập thân con, bấy
nỗi kinh hoàng khiến con rời rã.” (Tv 88,8.17)
Điều
gì sẽ xẩy ra nếu tất cả vũ trụ vật lý, với hàng tỷ thiên hà của nó, đè nặng
trên một điểm duy nhất như một kim tự tháp vĩ đại chổng ngược đầu? Điểm này sẽ
phải chịu áp lực lớn như thế nào? Thì này, trong cuộc Khổ nạn, tất cả vũ trụ
tinh thần của tội lỗi, cũng vô hạn như vũ trụ vật chất, đè nặng trên tâm hồn
Con Người-Thiên Chúa. Kinh Thánh viết: “Đức Chúa đã đổ trên đầu người tất
cả tội lỗi của chúng ta” (x. Is 53,6); Ngài là Chiên Thiên Chúa, “mang
trên mình” tội lỗi của thế gian (x. Ga 1,29). Thập giá thật sự mà Đức Giêsu vác
trên vai, mang tới Canvê, để cuối cùng chịu đóng đinh vào đó, chính là tội lỗi.
Chính
vì Đức Giêsu mang lấy tội lỗi mà Thiên Chúa xa Ngài. Sự lôi cuốn vô hạn giữa
Chúa Cha và Chúa Con giờ đây bị một sức đẩy cũng vô hạn cản trở. Vào mùa hè ở
vùng núi Alpes, khi một lượng không khí lạnh từ miến Bắc tràn xuống gặp một lượng
không khí nóng từ miền Nam tràn lên, những trận bão ghê gớm xẩy ra làm xáo trộn
bầu khí quyển: mây mù, gió hú, sấm chớp xé toang từ đầu đến cuối bầu trời, những
tiếng sét làm rung rinh đồi núi. Một điều tương tự đã xẩy ra trong trong linh hồn
Đấng Cứu Chuộc: sự ác độc tột đỉnh của tội lỗi đụng mạnh vào sự thánh thiện tột
đỉnh của Thiên Chúa, xé toang nó đến độ làm nó mướt mồ hôi máu, và làm nó phải
rên rỉ: “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức!” (Mc
14,34)
Nói
về người Do Thái, trong chương 9 thư Rôma, thánh Phaolô nói lòng ngài rất đau
khổ về họ, vì họ từ chối Phúc Âm, đến nỗi ngài sẵn sàng bị “vạ tuyệt thông”,
xa lìa Đức Kitô, vi lợi ích của các anh em mình (x. Rm 9,3). Điều thánh Tông Đồ
mới chỉ thoáng thấy như một sự mất mát tột cùng, nhưng thực tế không phải chịu
như vậy, thì Đức Giêsu trên thập giá đã phải sống thực sự, cho tới tột cùng;
Ngài đã trở thành bị “vạ tuyệt thông”, xa lìa Thiên Chúa, vì lợi
ích của các anh em mình. Thư Galát viết: “Đức Kitô đã chuộc chúng ta khỏi
bị nguyền rủa vì Lề Luật, khi vì chúng ta, chính Người đã trở nên đồ bị nguyền
rủa, vì có lời chép: Đáng nguyền rủa thay mọi kẻ bị treo trên cây gỗ.” (Gl
3,13) “Bị nguyền rủa – katàra” hầu như đồng nghĩa với bị vạ tuyệt
thông; thuật ngữ hàm ý một sự chia lìa giữa Thiên Chúa và con người, một loại vạ
tuyệt thông.
Kinh
nghiệm về sự thinh lặng của Thiên Chúa, mà người thời nay cảm thấy thật thấm
thía, cũng giúp chúng ta hiểu phần nào cuộc Khổ nạn của Đức Kitô, miễn người ta
biết rằng đối với người của Kinh Thánh, sự thinh lặng của Thiên Chúa không có
cùng một ý nghĩa như đối với con người thời nay. Sự thinh lặng của Thiên Chúa
được đo bằng cường độ người ta nại đến tên Ngài. Nó không có nghĩa gì với người
không tin hoặc với người, tuy tin, nhưng hờ hững với Ngài. Sự tin tưởng nơi
Ngài càng lớn, lời cầu xin với Ngài càng hăng say, thì sự thinh lẳng của Thiên
Chúa càng đau đớn. Như vậy chúng ta có thể nhận thấy rõ hơn, đối với Đức Giêsu,
sự thinh lặng của Chúa Cha phải như thế nào, và vực thẳm nào ẩn giấu sau tiếng
kêu: “Lậy Thiên Chúa, lậy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mt
27.46). Đức Maria dưới chân thập giá cũng biết sự thinh lặng của Thiên Chúa là
như thế nào. Không ai ngoài Mẹ có thể coi là của mình cách tốt hơn lời cảm thán
phát ra từ miệng một Giáo Phụ, nhớ về thời kỳ Giáo Hội bị bách hại khốc liệt dưới
triều hoàng đế Giulianô, thời mà các nhà thờ bị mạo phạm và các trinh nữ bị hãm
hiếp: "Chúa ơi, chịu đựng sự thinh lặng của Chúa ngày hôm đó thật khó biết
bao!"
Đức
Giêsu trên thập giá đã trải nghiệm tới cùng hậu quả căn bản của tội lỗi là mất
Thiên Chúa. Ngài trở thành người không có Thiên Chúa, thành người vô thần! “Vô
thần” có thể có một nghĩa năng động và một nghĩa thụ động; nó có thể vừa chỉ một
người từ chối Thiên Chúa, vùa chỉ một người bị Thiên Chúa chối từ. Và chính
nghĩa thứ hai này mà thuật ngữ ghê gớm ấy được áp dụng cho Đức Kitô trên thập
giá. Chắc chắn sự vô thần của Ngài không phải là kết quả của một lầm lỗi, nhưng
là hình phạt của một lầm lỗi, để đền thay cho mọi thứ vô thần có lỗi trên thế
giới và nơi mỗi người chúng ta, dưới hình thức một sự phản kháng Thiên Chúa, một
sự ích kỷ, hoặc một sự lãnh đạm đối với Thiên Chúa. Rõ ràng là Chúa Cha trên trời
gần gũi với Chúa Con không lúc nào bằng lúc này, khi mà Chúa Con đang thực hiện
hành vi vâng phục tối thượng của mình, nhưng với tư cách là con người; đây là
lúc Đức Giêsu không còn thấy gần gũi như thế nữa và “cảm thấy” bị bỏ rơi.
***
Tất
cả những điều đó là cần thiết “để tội lỗi bị hủy diệt” (Rm 6,6), và để “nhờ
đức tin chúng ta nhận được ơn Thiên Chúa đã hứa là Thần Khí” (Gl
3,14), đổi lấy sự trừng phạt. Các Giáo Phụ đã áp dụng cho Đức Kitô trên thập
giá hình bóng Kinh thánh của nước đắng ở Mara, trở nên ngọt nhờ cây gỗ Môsê thả
xuống nước đó (x. Xh 15,23-25). Trên cây gỗ thập giá, chính Đức Giêsu đã uống
nước đắng của tội lỗi và biến nó thành nước “ngọt” của Thần Khí Ngài, được biểu
thị bằng nước từ cạnh sườn Ngài chảy ra.. Ngài đã biến đổi tiếng “không” rất lớn
của con người đối với Thiên Chúa thành một tiếng amen, còn lớn hơn
nhiều, đến nỗi giờ đây “nhờ Người mà chúng ta hô lên ‘amen’ để tôn vinh
Thiên Chúa” (2Cr 1,20).
“Mầu nhiệm đạo thánh cao cả” (1Tm 3,10) là thế. Nó nằm ở chỗ, ngay cả trong một
tình huống cùng cực như vậy, Đức Giêsu vẫn phó thác nơi Chúa Cha, vâng phục
Chúa Cha bằng tình yêu mến; môi miệng Ngài vẫn không ngừng kêu lên tiếng của một
người con: “Abba, Cha ơi” và lúc sinh thì còn kêu lớn tiếng: “Lạy
Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46).
Khi
hoàn tất mầu nhiệm hiếu thảo này, Đức Giêsu có Mẹ Ngài đứng gần bên, Đấng mà giờ
đây chúng ta nghĩ tới, lòng đầy xúc động. “Người đã đau đớn chịu khổ cực với
Con một của mình và dự phần vào hy lễ của Con, với tấm lòng của một người mẹ hết
tình ưng thuận hiến tế lễ vật do lòng mình sinh ra”, một bản văn của Vaticanô
II nói như vậy, và bằng cách này, “trên bình diện ân sủng, Người là Mẹ chúng
ta [1]”.
***
Trong
Tân Ước, khởi giảng (kérygme), hay loan báo cuộc Khổ nạn, luôn bao gồm hai yếu
tố, yếu tố sự kiện: “Ngài đã chịu khổ”, “chịu chết”, và
lý do của sự kiện: “vì chúng ta”, “vì tội chúng ta” (x.
Rm 4,25; 1Cr 15,3). Cuộc Khổ nạn của Đức Kitô luôn xa lạ với chúng ta bao lâu
chưa đi vào trong đó qua cửa nhỏ “vì chúng ta”, vì chỉ người
nào nhận ra đó là công trình của Đức Kitô, người đó mới thực sự biết cuộc Khổ nạn
của Ngài. Không nhận ra như thế, mọi sự sẽ có thể chỉ là những lời nói không ai
nghe.
Vậy
ở Ghếtsêmani, cũng chính tội riêng tôi phạm đè nặng tâm hồn Đức Giêsu; trên thập
giá, chính vì sự ích kỷ của tôi, sự lạm dụng tự do của tôi đã đóng đinh Ngài. Nếu
Đức Kitô đã chết “vì tội tôi”, điều đó có nghĩa là – nói bằng kiểu năng động
thay cho thụ động – tôi đã đóng đinh Đức Giêsu Nadarét. Ba ngàn người nghe
Phêrô nói hôm lễ Ngũ Tuần, không phải ai cũng có mặt ở dinh Philatô, không phải
ai cũng đã đóng đinh Chúa ở Canvê, tuy nhiên, Phêrô mạnh mẽ nói với họ: “Anh
em đã đóng đinh Đức Giêsu Nadarét!” Và, dưới tác động của Thần Khí, họ
đã thừa nhận đúng như vậy, vì như sách Công vụ viết: “họ đau đớn trong
lòng và hỏi ông Phêrô cùng các tông đồ khác: Thưa các anh, vậy chúng tôi phải
làm gì?” (Cv 2,23-37)
“Bạn
đã có ở đó không, bạn đã có ở đó không, khi chúng đóng đinh Chúa của tôi?”
– Were you there, were you there when they crucified my Lord ? Đó
là lời ca đầy lòng tin của một negro spiritual. Lời ấy còn tiếp:
“Đôi khi ý nghĩ này làm tôi run sợ, run sợ, run sợ!” Cứ mỗi lần nghe bản nhạc
này, tôi cảm thấy bị thúc giục trả lời từ trong tâm khảm của tôi: “Hỡi ôi, đúng
vậy, tôi cũng đã ở đó, tôi cũng đã ở đó khi chúng đóng đinh Chúa của tôi!”
Điều
cần thiết là trong quá trình sống của một người, một ngày nào đó có một biến động
và trong lòng anh ta có điều gì đó tương tự như những gì xảy ra trong thiên
nhiên lúc Đức Kitô chịu chết, khi màn trong Đền thờ bị xé ra từ trên xuống dưới,
những tảng đá vỡ ra và những mồ mả mở tung. Điều cần thiết là, dù sao, một niềm
kính sợ lành mạnh đối với Thiên Chúa phải làm nổ tung trái tim chúng ta, một
trái tim tin chắc về Ngài. Tông đồ Phêrô đã có một kinh nghiệm tương tự, và nếu
ông đã có thể nói những lời kinh khủng này với đám đông, thì chính vì trước đây
ông đã nói những lời trên cho chính mình và, khi Đức Giêsu quay lại nhìn,
ông “đã khóc lóc thảm thiết” (Lc 22,61-62).
Chúng
ta vừa mới nghe những lời của Phúc Âm Gioan: “Họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã
đâm thâu” (Ga 19,37). Chớ gì những lời tiên tri trên cũng được thực hiện
nơi ta; chúng ta hãy nhìn lên Đâng chúng ta đã đâm thâu, chúng ta hãy nhìn bằng
một cách mới; chúng ta hãy thương tiếc như người ta thương tiếc đứa con đầu
lòng (x. Da 12,10). Nếu người ta không hoán cải khi nghe lời chúng ta, những
người của Giáo Hội, chớ gì họ hoán cải khi thấy chúng ta khóc.
***
Chính
giờ đây là lúc mà “phép rửa trong cái chết của Chúa” được thực hiện trong đời sống
của mỗi người Kitô hữu chúng ta. Chớ gì một điều gì đó của con người cũ rơi xuống
khỏi vai chúng ta, tách ra khỏi ta, và chôn vùi mãi trong cuộc Khổ nạn của Đức
Kitô. Kinh Thánh nói: trong quá khứ mất thời giờ làm thỏa mãn dục vọng là quá đủ
rồi! (x. 1Pr 4,3), mất thời giờ biện minh cho chúng ta và tố cáo người khác, là
quá đủ rồi, mất thời giờ cho những tranh biện vô ích giữa chúng ta, những người
công giáo và tín hũu, là quá đủ rồi. Đức Kitô đã chết “để quy tụ con
cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối” (Ga 11,52), thế mà
chúng ta lại tiếp tục chia rẽ nhau, phân tán nhau vì những chuyện thứ yếu sao?
Làm sao chúng ta còn có thể vơ vẩn trong những bất đồng nhỏ mọn, trước một
Thiên Chúa chết vì yêu thương ta và trước một thế giới đa phần còn chưa biết
Ngài? Cessent jurgia maligna, cessent lites” – Hãy thôi đi những cuộc
tranh cãi xấu xa, hãy thôi đi những cuộc tranh tụng và ước gì Đức Kitô ở giữa
anh em!” đó là lời của một bài bình ca ngày xưa. Phần lớn những điều xấu xa và
tai họa xẩy đến cho các gia đình, cộng đồng, xã hội và Giáo Hội là do mỗi người
xét đoán và buộc tội người khác thay vì xét đoán và cáo buộc mình vì tội lỗi của
mình; mỗi người muốn người khác thay đổi, nhưng ít người nghĩ một cách nghiêm
túc là phải thay đổi chính mình. Phải, nếu chúng ta quyết định thực hiện việc
thay đổi này nơi ta, thì chính chiều hôm nay thế giới hẳn sẽ tốt hơn và tâm hồn
chúng ta sẽ được bình an. Nếu cần phải bảo vệ sự thật và công lý chống lại ai,
chúng ta sẽ làm điều đó tốt hơn sau đó, với nhiều tự do và bác ái hơn.
***
Chỉ
sau khi trải qua phép rửa mới trong cái chết của Đức Kitô, chúng ta sẽ thấy thập
giá thay đổi hoàn toàn dáng vẻ và, từ chỗ buộc tội chúng ta, gây ra nỗi sợ hãi
và buồn bã, lại biến thành một động lực đem lại niềm vui và sự chắc chắn. “Vậy
giờ đây những ai ở trong Đức Kitô Giêsu thì không còn bị lên án nữa” (Rm
8,1), sự lên án đã thấy cạn dòng, nhường chỗ cho khoan dung và tha thứ. Thậm
chí thập giá xuất hiện như công trạng và hãnh diện của chúng ta: “Ước
gì tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng
ta” (Gl 6,14). Ở đây, sự “hãnh diện” có một ý nghĩa phụ nói lên sự chắc
chắn mang lại niềm vui, kèm theo tâm tình xúc động biết ơn của con người trong
đức tin. Chính là tình cảm thấm nhiễm phụng vụ chiều nay, gợi hứng cho thánh
thi của thời gian Khổ nạn này: “O Crux ave, spes unica – Kính chào
thập giá, niềm hy vọng độc nhất!”
Làm
sao có thể hãnh diện về một sự đau khổ mà chính chúng ta không phải chịu, ngược
lại chúng ta đã gây ra? Lý do là vì giờ đây cuộc Khổ nạn của Đức Kitô trở thành
“của chúng ta”, kho tàng lớn nhất của chúng ta, đá tảng cứu độ chúng ta. Kiểu
nói cho thấy lý do “vì chúng ta” cuối cùng trở thành “cho chúng ta”. Nếu tiên
vàn nó có nghĩa là “vì tội lỗi chúng ta – propter nos”, thì giờ
đây, sau khi chúng ta đã nhận ra, xưng thú tội mình và đã tỏ lòng ăn năn thống
hối, nó có nghĩa là “có lợi cho chúng ta – pro nobis”. “Đấng
chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi
vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người” (2Cr
5,21).
Lm. Micae Trần Đình Quảng
Chuyển ngữ từ: Raniero Cantalamessa, Nous prêchons un Christ crucifié, EdB,
2018, pp. 95-104
Nguồn: simonhoadalat.com