Đức Phanxicô, Bài giảng Chúa nhật 26 Thường niên năm C (25/9/2022) - Thánh Thể và người nghèo Đức Phanxicô, Bài giảng Chúa nhật 26 Thường niên năm C (29/9/2019) - Yêu mến người di dân và tị nạn |
Đức Phanxicô, Bài giảng Chúa nhật 26 Thường niên năm C (25/9/2022) - Thánh Thể và người nghèo
Anh chị em thân mến,
Chúa quy tụ chúng ta quanh bàn tiệc của Người và hiến chính mình Người làm bánh cho chúng ta. “Tấm bánh của bữa tiệc trên bàn của những người con […] tạo nên sự sẻ chia, củng cố các mối dây liên kết, mang hương vị của sự hiệp thông” (Thánh ca XVII, Đại hội Thánh Thể Toàn quốc, Matera 2022). Tuy nhiên, Tin mừng chúng ta vừa nghe nói với chúng ta rằng bánh không luôn luôn được chia sẻ trên bàn ăn của thế giới; hương thơm của sự hiệp thông không phải lúc nào cũng tỏa ra; bánh không luôn luôn được bẻ ra trong sự công bằng.
Thật tốt khi chúng ta dừng lại trước khung cảnh bi thảm được Chúa Giêsu mô tả trong dụ ngôn mà chúng ta vừa nghe: một bên là một người phú hộ mặc toàn lụa là gấm vóc, phô trương sự giàu sang và yến tiệc linh đình; bên kia là một người nghèo đầy những vết thương lở loét, nằm trước cửa nhà, hy vọng những mảnh vụn từ bàn tiệc rơi xuống sẽ làm dịu bớt cơn đói của mình. Và trước sự tương phản này – một thực tại mà chúng ta chứng kiến hằng ngày – chúng ta tự hỏi: Bí tích Thánh Thể, nguồn mạch và tột đỉnh của đời sống Kitô hữu, mời gọi chúng ta điều gì?
Sự tối thượng của Thiên Chúa
Trước hết, Bí tích Thánh Thể nhắc nhở chúng ta về sự tối thượng của Thiên Chúa. Người giàu có trong dụ ngôn không hướng đến mối tương quan với Thiên Chúa: Ông ta chỉ nghĩ đến hạnh phúc của mình, thỏa mãn nhu cầu của mình và tận hưởng cuộc sống. Chính vì thế, ông thậm chí còn đánh mất cả tên gọi của mình. Tin mừng không cho biết ông tên gì: ông chỉ được gọi bằng tính từ “giàu có”, trong khi người nghèo thì lại có tên: Ladarô. Sự giàu có đưa đến điều này: nó tước đoạt cả tên gọi của con người. Khi tự mãn, say sưa trong tiền bạc, bị mê muội bởi lòng kiêu ngạo và hư danh, thì trong cuộc sống của ông không còn chỗ cho Thiên Chúa, bởi vì ông chỉ thờ lạy chính mình. Không phải ngẫu nhiên mà Tin mừng không nói tên ông: chúng ta chỉ gọi ông là “người giàu”, định nghĩa ông bằng một tính từ, bởi vì ông đã mất đi tên gọi, mất đi căn tính, và căn tính ấy giờ đây chỉ còn được quy định bởi của cải mà ông sở hữu.
Thật đáng buồn thay khi thực tại này vẫn còn đó ngay cả hôm nay, khi chúng ta nhầm lẫn giữa điều chúng ta là với những gì chúng ta có. Khi chúng ta đánh giá mọi người bằng sự giàu có của họ, tước hiệu mà họ thể hiện, vai trò mà họ nắm giữ hoặc nhãn mác trên trang phục họ mặc. Đó là tôn giáo của sở hữu và thể hiện, điều thường thống trị thế giới này, nhưng cuối cùng lại khiến chúng ta trắng tay. Thật vậy, người phú hộ trong Tin mừng còn bị mất cả tên gọi. Ông không còn là ai nữa.
Trái lại, người nghèo có tên, Ladarô, nghĩa là “Thiên Chúa sẽ trợ giúp”. Dù sống trong hoàn cảnh nghèo khó và bị gạt ra ngoài lề xã hội, nhưng phẩm giá của ông vẫn nguyên vẹn bởi vì ông sống trong tương quan với Thiên Chúa. Trong tên của ông có điều gì đó của Thiên Chúa và Thiên Chúa là niềm hy vọng không gì lay chuyển được của cuộc đời ông.
Đây là thử thách mà Bí tích Thánh Thể đặt ra cho cuộc sống của chúng ta: thờ phượng Thiên Chúa chứ không phải chính mình, không phải chính mình. Đặt Người ở trung tâm, chứ không phải sự phù hoa của cái tôi. Nhắc nhớ chúng ta rằng chỉ mình Chúa là Thiên Chúa và mọi sự khác chỉ là quà tặng của tình yêu Người. Bởi vì nếu chúng ta tôn thờ chính mình, chúng ta chết vì ngạt thở bởi sự chật chội của bản thân mình; nếu chúng ta tôn thờ của cải thế gian này, chúng sẽ chiếm hữu chúng ta và biến chúng ta thành nô lệ; nếu chúng ta tôn thờ vị thần của dáng vẻ bên ngoài và đắm mình trong sự lãng phí, thì sớm muộn gì chính cuộc đời cũng sẽ đòi chúng ta trả giá. Cuộc đời luôn đòi chúng ta trả giá.
Ngược lại, khi tôn thờ Chúa Giêsu hiện diện trong Bí tích Thánh Thể, chúng ta cũng nhận được một "diện mạo" mới cho cuộc sống của mình: Tôi không phải là những thứ tôi sở hữu và những thành công tôi cố gắng đạt được; giá trị cuộc sống của tôi không phụ thuộc vào việc tôi có thể khoe ra bao nhiêu, cũng không giảm đi khi tôi thất bại và gục ngã. Tôi là một người con được yêu thương; tôi được Thiên Chúa chúc lành; Người muốn khoác cho tôi vẻ đẹp và muốn tôi được tự do, Người muốn tôi được giải thoát khỏi mọi hình thức nô lệ. Hãy ghi nhớ điều này: ai thờ phượng Thiên Chúa thì không trở thành nô lệ của bất cứ ai: người ấy tự do. Hãy tái khám phá lời cầu nguyện của sự thờ lạy, một lời cầu nguyện vốn thường bị quên lãng. Thờ lạy, lời cầu nguyện của sự thờ lạy, chúng ta hãy tái khám phá: nó giải thoát chúng ta và trả lại cho chúng ta phẩm giá của những người con, chứ không phải nô lệ.
Yêu thương anh chị em
Ngoài việc nhấn mạnh tính tối thượng của Thiên Chúa, Bí tích Thánh Thể còn kêu gọi chúng ta yêu thương anh chị em mình. Bánh Thánh Thể là Bí tích của tình yêu, là chính Chúa Kitô tự hiến mình và phân chia chính mình vì chúng ta và yêu cầu chúng ta cũng làm như vậy, để cuộc sống của chúng ta trở thành hạt lúa được nghiền nát và biến thành tấm bánh nuôi dưỡng anh chị em mình. Người phú hộ trong Tin mừng đã thất bại trong sứ mạng này: ông sống trong cảnh xa hoa, yến tiệc linh đình mà không hề nhận ra tiếng kêu âm thầm của người nghèo Ladarô, đang kiệt sức nằm ngay trước cửa nhà ông. Chỉ đến cuối đời, khi Chúa đảo ngược tình thế, ông mới để ý đến Ladarô, nhưng Ápraham nói với ông: “Giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn” (Lc 16,26). Nhưng chính người giàu có đã đào nên vực thẳm ấy. Điều đó cũng chính là chúng ta, khi trong sự ích kỷ, chúng ta tạo nên những vực thẳm ngăn cách. Chính người phú hộ đã đào một vực thẳm ngăn cách mình với Ladarô trong cuộc sống trần thế, và giờ đây, trong cuộc sống vĩnh cửu, vực thẳm ấy vẫn còn đó. Bởi vì tương lai vĩnh cửu của chúng ta phụ thuộc vào cuộc sống hiện tại này: nếu chúng ta đào một vực thẳm ngăn cách giữa mình và anh em của mình, chúng ta sẽ tự đào mồ chôn mình sau này. Nếu bây giờ chúng ta dựng những bức tường chống lại anh em của mình, chúng ta sẽ vẫn bị giam cầm trong sự cô đơn và cái chết.
Hoán cải: từ thờ ơ sang cảm thông
Anh chị em thân mến, thật đau xót khi thấy rằng dụ ngôn này vẫn còn là câu chuyện của thời đại chúng ta: những bất công, những bất bình đẳng, sự phân bổ không đồng đều các nguồn lực trên trái đất, sự lạm dụng của kẻ quyền lực đối với kẻ yếu, sự thờ ơ với tiếng kêu của người nghèo, vực thẳm mà hằng ngày chúng ta đào nên, tạo ra tình trạng bị gạt ra bên lề - chúng ta không thể thờ ơ trước những điều này. Và vì thế hôm nay, cùng nhau, chúng ta hãy nhìn nhận rằng Bí tích Thánh Thể là lời ngôn sứ về một thế giới mới; đó là sự hiện diện của Chúa Giêsu, Đấng mời gọi chúng ta cộng tác để một cuộc hoán cải thực sự được diễn ra: hoán cải từ dửng dưng sang cảm thông; hoán cải từ phung phí sang chia sẻ; hoán cải từ ích kỷ sang yêu thương; hoán cải từ chủ nghĩa cá nhân sang tình huynh đệ.
Giáo hội Thánh Thể: cúi mình trước đau khổ của tha nhân
Anh chị em thân mến, chúng ta hãy mơ ước. Hãy mơ ước về một Giáo hội như thế: một Giáo hội Thánh Thể. Một Giáo hội được hình thành bởi những người nam và nữ biết tự bẻ mình như tấm bánh cho tất cả những ai đang gặm nhấm cô đơn và nghèo khổ, cho những ai khao khát sự dịu dàng và lòng trắc ẩn, cho những ai có cuộc sống đang rệu rã vì thiếu vắng men tốt của niềm hy vọng. Một Giáo hội biết quỳ gối trước Thánh Thể và thờ lạy trong sự kính sợ Đấng đang hiện diện trong tấm bánh; nhưng đồng thời cũng biết cúi mình xuống với lòng cảm thông và dịu dàng trước những vết thương của những ai đang đau khổ, biết nâng dậy người nghèo, lau khô nước mắt của những kẻ sầu khổ, trở nên tấm bánh của niềm hy vọng và niềm vui cho mọi người. Bởi vì không có việc thờ phượng Thánh Thể đích thực nào mà lại thiếu lòng cảm thương đối với biết bao “Ladarô” vẫn đang cùng bước đi bên cạnh chúng ta hôm nay. Và họ thật là nhiều!
Anh chị em thân mến, từ thành phố Matera này, “thành phố của bánh”, tôi muốn nói với anh chị em: chúng ta hãy trở về với Chúa Giêsu, trở về với Bí tích Thánh Thể. Hãy trở về với hương vị của tấm bánh Thánh Thể, bởi vì khi chúng ta đang đói khát tình yêu và niềm hy vọng, hoặc bị vùi dập bởi những nhọc nhằn và đau khổ của cuộc sống, Chúa Giêsu đã trở nên lương thực nuôi dưỡng và chữa lành chúng ta. Hãy trở về với hương vị của tấm bánh Thánh Thể, bởi vì khi bất công và kỳ thị đối với người nghèo vẫn tiếp diễn trong thế giới, Chúa Giêsu ban cho chúng ta Tấm Bánh của sự sẻ chia và sai chúng ta ra đi hằng ngày như những tông đồ của tình huynh đệ, những tông đồ của công lý, những tông đồ của hòa bình. Hãy trở về với hương vị của tấm bánh Thánh Thể để trở nên một Giáo hội Thánh Thể, đặt Chúa Giêsu ở trung tâm và trở thành tấm bánh của lòng dịu dàng, tấm bánh của lòng thương xót cho mọi người. Hãy trở về với hương vị của tấm bánh Thánh Thể để nhớ rằng, khi cuộc sống trần thế của chúng ta đang dần tiêu tan, thì Bí tích Thánh Thể lại báo trước lời hứa phục sinh và hướng dẫn chúng ta tiến đến sự sống mới chiến thắng sự chết.
Hôm nay, chúng ta hãy nghiêm túc suy nghĩ về người phú hộ và anh Ladarô. Điều này xảy ra hằng ngày. Và rất nhiều lần - thật đáng xấu hổ cho chúng ta - nó cũng xảy ra nơi chính bản thân chúng ta, trong cuộc chiến nội tâm, giữa chúng ta với nhau, trong cộng đoàn. Và khi niềm hy vọng tắt lịm, khi chúng ta cảm thấy trong lòng mình nỗi cô đơn, sự mệt mỏi bên trong, nỗi dằn vặt vì tội lỗi, nỗi sợ hãi thất bại, thì hãy một lần nữa trở về với hương vị của tấm bánh Thánh Thể. Tất cả chúng ta đều là tội nhân: mỗi người mang nơi mình những tội riêng. Nhưng, là những kẻ tội lỗi, chúng ta hãy trở về với hương vị của Thánh Thể, hương vị của tấm bánh. Hãy trở về với Chúa Giêsu, hãy thờ lạy Chúa Giêsu, hãy đón nhận Chúa Giêsu. Bởi vì chính Người là Đấng duy nhất chiến thắng sự chết và luôn đổi mới cuộc sống chúng ta.
Nguồn: vaticannews.va/vi
Đức Phanxicô, Bài giảng Chúa nhật 26 Thường niên năm C (29/9/2019) - Yêu mến người di dân và tị nạn
Anh chị em thân mến,
Thánh vịnh đáp ca của ngày hôm nay nhắc nhở chúng ta rằng Chúa nâng đỡ khách ngoại kiều cũng như các góa phụ và trẻ mồ côi trong dân Người. Tác giả Thánh vịnh đề cập cách rõ ràng minh bạch đến những người đặc biệt dễ bị tổn thương, thường bị lãng quên và bị áp bức. Chúa quan tâm đặc biệt đến các ngoại kiều, góa phụ và trẻ mồ côi, vì họ không có quyền, bị loại trừ và bị gạt ra ngoài lề xã hội. Đây là lý do tại sao Thiên Chúa yêu cầu dân Israel quan tâm đặc biệt đến họ.
Trong sách Xuất hành, Chúa cảnh cáo dân Chúa không được đối xử tệ bạc với các quả phụ và cô nhi, bởi vì Người lắng nghe tiếng kêu than của họ (xem 22,23). Những lời cảnh cáo này cũng được lặp lại 2 lần trong sách Đệ nhị luật (xem 24,17; 27,19), và bao gồm người ngoại kiều vào nhóm những người cần được bảo vệ. Lý do Chúa đưa ra lời cảnh cáo này được giải thích rõ ràng trong sách Đệ nhị luật này: Thiên Chúa của Israel là “Đấng xử công minh cho cô nhi quả phụ, và yêu thương ngoại kiều, cho họ bánh ăn áo mặc” (10,18). Sự chăm sóc yêu thương dành cho những người ít đặc quyền này được thể hiện như một điểm đặc trưng của Thiên Chúa Israel và cũng được yêu cầu, như một nghĩa vụ đạo đức của tất cả những người thuộc về dân của Người.
Đó là lý do mà chúng ta phải quân tâm đặc biệt đến các ngoại kiều ở giữa chúng ta, cũng như các quả phụ và cô nhi và tất cả những người bị loại bỏ trong thời đại chúng ta. Trong sứ điệp Ngày Thế giới Di dân và Tị nạn lần thứ 105, chủ đề “Không chỉ người di dân và tị nạn” được lặp đi lặp lại như một điệp khúc. Và thật thế: không chỉ là những ngoại kiều mà tất cả những người sống ở những vùng biên của cuộc sống, những người mà, cùng với người di dân và tị nạn, là nạn nhân của nền văn hóa loại bỏ. Chúa mời gọi chúng ta thực hiện bác ái đối với họ; Người yêu cầu chúng ta phục hồi nhân phẩm của họ, cũng như nhân phẩm của chúng ta, không để ai ở bên ngoài.
Cùng với việc thực hành bác ái, Chúa cũng yêu cầu chúng ta suy tư về những bất công tạo nên sự loại trừ, đặc biệt về những đặc ân của một số ít người mà vì để duy trì tình trạng của mình, họ hành động gây thiệt hại cho nhiều người khác. “Thế giới ngày nay ngày càng dành cho những người ưu tú và tàn bạo đối với những người bị loại trừ. Đó là một sự thật đau lòng, thế giới ngày càng dành cho những người ưu tú và tàn bạo đối với những người bị loại trừ. Các quốc gia trên đường phát triển tiếp tục bị cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên tốt nhất và nguồn nhân lực của họ vì lợi ích của một vài thị trường đặc quyền. Chiến tranh chỉ ảnh hưởng đến một số miền trên thế giới, nhưng vũ khí gây chiến tranh được sản xuất và bán ở các miền khác, và những nơi này lại không muốn đón nhận những người tị nạn do những xung đột đó tạo ra. Những người phải trả giá luôn là những người bé nhỏ, nghèo khổ, dễ tổn thương nhất, những người bị cấm ngồi vào bàn ăn và chỉ nhận được những mảnh vụn từ bàn ăn rơi xuống” (Sứ điệp Ngày Thế giới Di dân và Tị nạn).
Những lời mạnh mẽ của ngôn sứ Amos trong bài đọc thứ nhất (6,1.4-7) cần được hiểu theo nghĩa này. Khốn cho những kẻ sống yên ổn và tìm thú vui tại Sion, những người không quan tâm đến sự tiêu diệt của dân Chúa, dù rằng nó thật rõ ràng. Họ không nhận thức được sự sụp đổ của Israel, vì họ quá bận rộn để đảm bảo rằng họ có thể hưởng thụ cuộc sống, thức ăn ngon và đồ uống tốt. Thật đáng kinh ngạc là sau 28 thế kỷ, những lời cảnh báo này vẫn còn nguyên tính thời sự như trước. Ngay cả ngày nay, trên thực tế, "nền văn hóa tiện nghi [...] khiến chúng ta chỉ nghĩ về bản thân mình, khiến chúng ta vô cảm trước tiếng khóc của người khác, [...] dẫn đến sự thờ ơ đối với người khác; thật vậy, nó thậm chí dẫn đến sự toàn cầu hóa thờ ơ” (Bài giảng tại Lampedusa, ngày 8 tháng 7 năm 2013).
Cuối cùng, chúng ta cũng có nguy cơ trở nên giống như người giàu có trong Tin mừng, người không quan tâm đến người nghèo Ladarô, “người đầy những lở loét, người vui mừng nếu được ăn miếng bánh vụn rơi xuống từ bàn của người giàu” (Lk 16,20-21). Quá chú tâm vào việc mua những quần áo sang trọng và tổ chức những bữa tiệc xa hoa, người giàu có trong dụ ngôn đã mù quáng trước nỗi đau khổ của Ladarô. Quá quan tâm đến việc giữ gìn hạnh phúc của chính mình, chúng ta cũng có nguy cơ bị mù trước khốn khổ của anh chị em khác.
Tuy nhiên, là Kitô hữu, chúng ta không thể thờ ơ với bi kịch của các hình thức nghèo đói cũ và mới, với sự cô lập ảm đạm, khinh miệt và phân biệt đối xử mà những người không thuộc “nhóm của chúng ta” đang chịu. Chúng ta không thể vô cảm, với trái tim tê liệt, trước sự khốn khổ của rất nhiều người vô tội. Chúng ta không thể không khóc. Chúng ta không thể không phản ứng. Chúng ta xin Chúa ơn biết khóc, một sự khóc than hoán cải con tim trước những tội lỗi này.
Nếu chúng ta muốn trở thành những người nam nữ của Thiên Chúa, như Thánh Phaolô thúc giục Timôthê, chúng ta phải “tuân giữ điều răn của Chúa mà sống cho tinh tuyền, không chi đáng trách, cho đến ngày Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, xuất hiện” (1 Tm 6:14). Điều răn là yêu Chúa và yêu người lân cận; hai điều này không thể tách rời! Yêu thương tha nhân như chính mình đồng nghĩa với việc cam kết xây dựng một thế giới công bằng hơn, trong đó mọi người đều có quyền được có hoa màu của trái đất, trong đó tất cả đều có thể phát triển như các cá nhân và gia đình, và trong đó quyền và phẩm giá cơ bản được đảm bảo cho tất cả mọi người.
Yêu thương tha nhân nghĩa là cảm thông với đau khổ của anh chị em chúng ta, đến gần họ, chạm vào vết thương của họ và chia sẻ câu chuyện của họ, và bằng cách đó, thể hiện tình yêu dịu dàng của Thiên Chúa dành cho họ. Điều này có nghĩa là trở thành người lân cận của tất cả những người bị ngược đãi và bỏ rơi trên đường phố trên thế giới của chúng ta, làm dịu vết thương của họ và đưa họ đến nơi trú ẩn gần nhất, nơi có thể đáp ứng nhu cầu của họ.
Thiên Chúa đã ban điều răn thánh thiện này cho dân của Người và đóng ấn nó bằng máu của Chúa Giêsu Con của Người, để trở thành nguồn phước lành cho toàn thể nhân loại. Để cùng với nhau, tất cả chúng ta có thể hành động để xây dựng gia đình nhân loại theo kế hoạch nguyên thủy của Người, được mạc khải nơi Chúa Giêsu Kitô: tất cả đều là anh chị em, tất cả đều là con của cùng một Cha.
Hôm nay, chúng ta cũng cần một người mẹ và chúng ta phó thác cho tình mẫu tử của Đức Maria, Đức Mẹ chỉ đường, Mẹ của bao con đường đau thương, chúng ta phó thác cho Mẹ, những người di cư và tị nạn, cùng với những người sống ở vùng biên của thế giới và những người đã chọn để đồng hành với họ.
Nguồn: vaticannews.va/vi
Đức Phanxicô, Bài giảng Chúa nhật 26 Thường niên năm C, Năm thánh cho các Giáo lý viên (25/9/2016) - Người nghèo là trang chính của Tin mừng
Anh chị em thân mến!
Trong bài đọc thứ hai, Tông đồ Phaolô đưa ra cho Timôthê, và cũng cho chúng ta, một số lời khuyên mà ngài hằng ấp ủ trong lòng. Trong đó, ngài nhắn nhủ ông hãy “duy trì giới răn của Chúa nguyên tuyền không thể khiển trách được” (1 Tm 6,14). Ngài chỉ đơn giản nói đến một điều răn. Dường như ngài muốn giữ cho sự chú ý của chúng ta luôn tập trung vào điều nòng cốt của đức tin. Thật vậy, thánh Phaolô không đưa ra nhiều điểm khác nhau, nhưng nhấn mạnh vào trung tâm điểm của đức tin. Trung tâm này, nơi mà mọi sự đều xoay quanh, trái tim đang đập mang lại sự sống cho tất cả, chính là lời công bố Vượt Qua, lời công bố tiên khởi: Chúa Giêsu đã phục sinh, Chúa Giêsu yêu thương bạn và Người đã hiến dâng mạng sống vì bạn; Đấng Phục Sinh và đang sống, Người ở gần bạn và hằng chờ đợi bạn mỗi ngày. Chúng ta không bao giờ được quên điều này.
Trong Năm Thánh này của các giáo lý viên chúng ta được mời gọi không mệt mỏi đặt để ở hàng đầu lời loan báo chính yếu này của đức tin: Chúa đã sống lại. Không có các nội dung quan trọng hơn, không có gì vững chắc và thời sự hơn. Mỗi nội dung đức tin trở thành xinh đẹp, nếu gắn liền với trung tâm này, nếu được xuyên qua bởi mầu nhiệm phục sinh. Nếu bị cô lập hóa, nó mất đi ý nghĩa và sức mạnh. Chúng ta được mời gọi luôn luôn sống và loan báo sự mới mẻ trong tình yêu của Chúa: Chúa Giêsu thực sự yêu thương bạn, như bạn là. Hãy dành chỗ cho Người, mặc dù có các thất vọng và các vết thương của cuộc sống, hãy để cho Người có khả thể yêu thương bạn. Bạn sẽ không bị thất vọng đâu!.
Điều răn mà Thánh Phalô nói tới khiến cho chúng ta suy nghĩ tới điều răn mới của Chúa Giêsu: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 15,12). Chính trong khi yêu thương chúng ta loan báo Thiên Chúa-Tình Yêu: không phải do sức mạnh của việc thuyết phục, không bao giờ được áp đặt sự thật, cũng không phải vì co cứng trong việc tuân giữ vài đòi buộc tôn giáo hay luân lý. Thiên Chúa được loan báo, khi chúng ta gặp gỡ các bản vị con người, chú ý tới lịch sử và con đường đời sống của họ. Vì Chúa không phải là một tư tưởng, nhưng là một Người sống động: sứ điệp của Ngài đi qua chứng tá đơn sơ và chân thật, với việc lắng nghe và tiếp nhận, với niềm vui dãi toả ra ngoài. Chúng ta không nói tốt về Chúa Giêsu, khi chúng ta buồn sầu; cũng không thông truyền vẻ đẹp của Thiên Chúa chỉ bằng các bài giảng hay. Thiên Chúa của niềm hy vọng được loan báo bằng cách sống Tin mừng của tình bác ái ngày hôm nay, không sợ hãi làm chứng cho Ngài, cả với các hình thức mới mẻ.
Tin mừng Chúa nhật hôm nay giúp chúng ta hiểu yêu thương có nghĩa là gì, nhất là giúp chúng ta tránh được vài nguy hiểm. Trong dụ ngôn có một người giầu, không nhận ra Ladarô, một người nghèo khổ “nằm trước cửa nhà ông” (Lc 16,20). Người giầu này, thực ra, không làm hại ai, cũng không bị nói là ngươi xấu. Nhưng ông có một tật nguyền lớn hơn tật nguyền của ông Ladarô, là người “đầy vết thương”: ông nhà giầu này bị mù trầm trọng, bởi vì ông không thể nhìn quá thế giới của mình, được làm bằng các bữa tiệc sang trọng và quần áo đẹp đẽ. Ông không trông thấy quá căn nhà của mình, nơi có Ladarô nằm, bởi vì ông không chú ý tới điều xẩy ra ở bên ngoài. Ông không nhìn với đôi mắt, bởi vì ông không cảm thấy trong con tim. Trong tim ông tinh thần thế tục đã bước vào và làm tê liệt linh hồn. Tinh thần thế tục giống như “một cái lỗ đen” nuốt trửng sự thiện, dập tắt tình yêu, vì nó nuốt mọi sự trong cái tôi của mình. Khi đó người ta chỉ trông thấy các dáng vẻ bề ngoài, và không nhận ra tha nhân, vì người ta trở thành dửng dưng với mọi sự. Ai bị bệnh mù trầm trọng này, thì thường có các thái độ “mắt lé”: nhìn các người danh tiếng, có địa vị cao được thế giới ngưỡng mộ với lòng kính trọng, mà không thèm nhìn biết bao nhiêu Ladarô này nay, không thèm nhìn các người nghèo túng và các người đau khổ, là những người được Chúa ưu ái.
Nhưng Chúa nhìn kẻ bị thế giới lãng quên và gạt bỏ. Ông Ladarô là nhân vật duy nhất được gọi tên trong tất cả các dụ ngôn của Chúa Giêsu. Tên của ông có nghĩa là “Thiên Chúa trợ giúp”. Thiên Chúa không quên ông, Ngài tiếp nhận ông vào trong tiệc của Nước Ngài, cùng với tổ phụ Abraham, trong sự hiệp thông phong phú của tình yêu thương. Trái lại, ông nhà giầu trong dụ ngôn cũng không có cả một tên gọi nữa; cuộc sống của ông bị rơi vào quên lãng, bởi vì ai sống cho chính mình thì không làm nên lịch sử. Nhưng một kitô hữu phải làm nên lịch sử! Họ phải ra khỏi chính mình, phải làm lịch sử! Nhưng ai sống cho chính mình, thì không làm lịch sử. Sự vô cảm ngày nay đào sâu các vực thẳm luôn mãi không thể vượt qua được nữa. Và chúng ta, trong lúc này, đã bị rơi vào căn bệnh này của sự thờ ơ, của ích kỷ, của tinh thần thế tục.
Còn có một chi tiết khác nữa trong dụ ngôn, một đối kháng. Cuộc sống sung túc của người không tên này được miêu tả như phô trương: tất cả nơi ông đòi hỏi các nhu cầu và quyền lợi. Trái lại, cái nghèo của ông Ladarô được diễn tả với phẩm giá cao: từ miệng ông không thốt ra các lời than van, phản đối hay khinh rẻ. Đây là một giáo huấn có giá trị: như là các người phục vụ lời của Chúa Giêsu chúng ta được mời gọi không phô trương bề ngoài và không tìm vinh quang; chúng ta cũng không được buồn sầu và than van. Chúng ta không phải là các ngôn sứ loan báo tai ương, ưa thích phơi bầy các nguy hiểm hay lệch lạc; không phải là người sống trong các hầm trú môi trường của mình, bằng cách đưa ra các phán đoán cay đắng liên quan tới xã hội, Giáo Hội, liên quan tới mọi sự và mọi người, bằng cách gây ô nhiễm thế giới với sự tiêu cực. Khuynh hướng nghi ngờ than vãn không phải là của người quen thuộc với Lời của Thiên Chúa.
Ai loan báo niềm hy vọng của Chúa Giêsu là người đem niềm vui và nhìn xa thấy rộng, có các chân trời, không có một bức tường khép kín họ, họ nhìn thấy xa, bởi vì họ biết nhìn xa hơn sự dữ và các vấn đề. Đồng thời họ nhìn rõ điều ở gần, bởi vì họ chú ý tới tha nhân và các nhu cầu của người khác. Ngày hôm nay Chúa hỏi chúng ta: trước biết bao Ladarô mà chúng ta trông thấy, chúng ta được mời gọi âu lo, tìm ra các con đường để gặp gỡ và giúp đỡ họ, mà không luôn luôn uỷ thác cho các người khác hay nói: “Ngày mai tôi sẽ giúp bạn. Hôm nay tôi không có giờ, ngày mai tôi sẽ giúp bạn”. Và điều này là một tội. Thời giờ mà chúng ta dành để cứu giúp các người khác là thời giờ dành cho Chúa Giêsu, là tình yêu tồn tại: nó là kho tàng trên trời, mà chúng ta chiếm hữu ở đây trên trái đất này.
Và vì vậy, các giáo lý viên và anh chị em thân mến, xin Chúa ban cho chúng ta ơn luôn luôn được canh tân mọi ngày bởi niềm vui của lời loan báo đầu tiên: Chúa Giêsu đã chết và đã sống lại. Chúa Giêsu yêu thương chúng ta cách cá biệt! Xin ngài ban cho chúng ta sức mạnh sống và loan báo giới răn của tình yêu, bằng cách vượt thắng sự mù loà của vẻ bề ngoài và các nỗi buồn thế tục. Xin Ngài khiến cho chúng ta nhậy cảm với người nghèo, họ không phải là phần thêm vào Tin mừng nhưng là một trang chính , luôn luôn rộng mở trước mắt mọi người.
Nguồn: archivioradiovaticana.va
Đức Phanxicô, Bài giảng Chúa nhật 26 Thường niên năm C (29/9/2013) - Ai chạy theo sự hư vô thì cũng trở thành hư vô
(Thánh lễ nhân dịp "ngày dành cho giáo lý viên" trong năm Đức Tin)
Anh chị em thân mến,
1. “Khốn cho những không quan tâm ở Sion và những kẻ tự kiêu,.. các ngươi nằm trên giường ngà” (Am 6,1.4), ăn uống, ca hát, tiêu khiển và không bận tâm gì đến những vấn đề của người khác.
Những lời này của ngôn sứ Amos thật nghiêm khắc, cảnh giác chúng ta về một nguy hiểm mà tất cả chúng ta đều mắc phải. Vị sứ giả này của Thiên Chúa tố giác điều gì, ngài đặt điều gì trước mặt những người đồng thời và cả trước mắt chúng ta ngày nay? Thưa đó là nguy cơ sống thoải mái, tiện nghi, phàm tục trong cuộc sống và trong tâm hồn, đặt an sinh ở trung tâm cuộc sống. Đó cũng là kinh nghiệm của người phú hộ trong Phúc âm, mặc y phục sang trọng và hằng ngày yến tiệc linh đình; đó là điều quan trọng đối với ông ta. Còn người nghèo trước cửa nhà ông không có gì để ăn thì sao? Đó chẳng phải là vấn đề của người phú hộ, chẳng liên hệ gì tới ông ta. Nếu vật chất, tiền bạc, cuộc sống sa hoa trở thành trung tâm cuộc sống, thì chúng nắm bắt, chiếm hữu chúng ta và chúng ta đánh mất chính căn tính làm người của mình: người phú hộ trong Phúc âm không có tên, ông chỉ là “một người giàu có”. Vật chất, điều mà ông ta sở hữu, là khuôn mặt của ông, và không có gì khác.
Nhưng chúng ta cũng hãy tự hỏi: làm sao điều ấy lại xảy ra như vậy? Làm sao con người, có lẽ cả chúng ta nữa, lại rơi vào nguy hiểm khép mình, đặt an ninh của chúng ta trong sự vật, và rốt cục chúng chiếm mất khuôn mặt của chúng ta, khuôn mặt của một người? Điều này xảy ra khi chúng ta mất ký ức về Thiên Chúa. Nếu không còn ký ức về Thiên Chúa nữa, thì mọi sự đều thu hẹp vào cái tôi, vào an sinh thoải mái của tôi. Cuộc sống, thế giới, tha nhân, đều mất tầm quan trọng, chẳng còn gì đáng kể nữa, tất cả đều thu hẹp vào một chiều kích, đó là sở hữu. Nếu chúng ta không còn nhớ đến Thiên Chúa nữa, thì chính chúng ta cũng trở nên trống rỗng, chúng ta mất khuôn mặt của mình như người phú hộ trong Phúc âm! Ai chạy theo sự hư vô thì cũng trở thành hư vô - như lời một ngôn sứ khác, Giêrêmia (Xc Gr 2,5) đã nói. Chúng ta được dựng nên theo hình ảnh giống Thiên Chúa, chứ không phải theo hình ảnh của sự vật, của các ngẫu tượng!
2. Khi nhìn anh chị em, tôi tự hỏi: Giáo lý viên là ai? Thưa là người gìn giữ và nuôi dưỡng ký ức về Thiên Chúa; họ bảo tồn ký ức ấy nơi bản thân và biết khơi dậy ký ức đó nơi tha nhân. Đây là điều thật đẹp: nhớ đến Thiên Chúa, như Đức Trinh Nữ Maria, trước hoạt động kỳ diệu của Thiên Chúa trong đời sống của Mẹ, Mẹ không nghĩ đến vinh dự, uy tín, giàu sang, không khép kín vào mình. Trái lại, sau khi lắng nghe lời loan báo của Thiên Chúa và chịu thai Con Thiên Chúa, Mẹ làm gì? Thưa, Mẹ ra đi gặp gỡ bà chị họ Elizabeth cao niên, cũng đang mang thai, để giúp đỡ bà; và trong cuộc gặp gỡ với bà chị, hành vi đầu tiên của Mẹ là nhớ đến hành động của Thiên Chúa, sự trung tín của Thiên Chúa trong đời sống của Mẹ, trong lịch sử dân Chúa, trong lịch sử chúng ta: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa… vì Người đã nhìn đến phận hèn của nữ tỳ Chúa… lòng từ bi của Chúa từ đời này sang đời khác” (Lc 1,46.48.50). Đức Maria nhớ đến Thiên Chúa.
Trong bài ca này của Mẹ Maria, cũng có ký ức về lịch sử bản thân, lịch sử của Thiên Chúa với Mẹ, chính kinh nghiệm đức tin của Mẹ. Cũng vậy đối với mỗi người chúng ta, mỗi Kitô hữu: đức tin chứa đựng ký ức về lịch sử Thiên Chúa với chúng ta, ký ức cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa, Đấng chuyển động đầu tiên, sáng tạo và cứu độ, biến đổi chúng ta; đức tin là nhớ lại Lời Chúa sưởi ấm tâm hồn, những hoạt động cứu độ của Chúa, ban sự sống, thanh tẩy, săn sóc và nuôi dưỡng chúng ta. Giáo lý viên chính là một tín hữu Kitô đặt ký ức ấy để phục vụ việc loan báo; không phải để phô trương, không phải để người ta nói về mình, nhưng để nói về Thiên Chúa, về tình thương và lòng trung tín của Chúa. Để nói về và truyền lại tất cả những gì Thiên Chúa đã mặc khải, giáo huấn của Người trong toàn bộ, không cắt xén hay thêm thắt.
Thánh Phaolô nhắn nhủ môn đệ và cộng tác viên của ngài, Timôthê, đặc biệt về điều này: Con hãy nhớ đến Chúa Giêsu Kitô, đã sống lại từ cõi chết, mà Cha loan báo và vì Người Cha chịu đau khổ (Xc 2 Tm 2,8-9). Nhưng Thánh Tông đồ có thể nói điều đó vì Người đã nhớ đến Chúa Kitô trước, Đấng đã kêu gọi thánh nhân khi còn là kẻ bách hại các tín hữu Kitô, Chúa đánh động và biến đổi Phaolô bằng ơn thánh của Ngài.
Vì thế, giáo lý viên là một Kitô hữu mang trong mình ký ức về Thiên Chúa, để cho mình được ký ức về Thiên Chúa hướng dẫn trong trọn cuộc đời của mình, và biết khơi dậy ký ức ấy trong tâm hồn tha nhân. Đó thực là một công trình lớn lao! Dấn thân trọn đời! Chính cuốn sách Giáo Lý là gì nếu không phải là ký ức về Thiên Chúa, ký ức về hoạt động của Chúa trong lịch sử, về sự kiện Thiên Chúa ở gần chúng ta trong Đức Kitô, Đấng hiện diện trong Lời Chúa, các bí tích, trong Giáo Hội và trong tình thương của Chúa? Hỡi các giáo lý viên, tôi hỏi anh chị em; chúng ta có là ký ức về Thiên Chúa hay không? Chúng ta có thực sự giống như những người lính canh thức tỉnh nơi người khác ký ức về Thiên Chúa, sưởi ấm tâm hồn hay không?
3. “Khốn cho những kẻ không quan tâm ở Sion”. Đâu là con đường phải theo để khỏi trở thành những ”người không quan tâm”, đặt an ninh nơi chính mình và nơi vật chất, nhưng là những người nam nữ nhớ đến Thiên Chúa? Trong bài đọc thứ hai, Thánh Phaolô viết cho Timotheo, đưa ra một số chỉ dẫn có thể đánh dấu hành trình của giáo lý viên, hành trình của chúng ta: hướng tới sự công chính, lòng đạo đức, đức tin, đức mến, kiên nhẫn, hiền lành (Xc 1 Tm 6,11).
Giáo lý viên là người nhớ đến Thiên Chúa nếu có một tương quan liên lỷ, sinh tử với Chúa và với tha nhân; nếu giáo lý viên là con người đức tin, thực sự tín thác nơi Thiên Chúa và đặt an ninh của mình nơi Chúa; nếu họ là bác ái, yêu thương, coi mọi người như anh chị em mình; nếu là người ”hypomoné”, kiên nhẫn và bền chí, biết đương đầu với khó khăn, thử thách, những thất bại, trong thanh thản và hy vọng nơi Chúa; nếu giáo lý viên là người hiền lành, có khả năng cảm thông và từ bi.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa để tất cả chúng ta là những người gìn giữ và nuôi dưỡng ký ức về Thiên Chúa trong đời sống chúng ta và biết khơi dậy ý tức ấy trong tâm hồn tha nhân. Amen.
Nguồn: archivioradiovaticana.va
Đức Bênêđictô XVI, Huấn dụ Chúa nhật 26 Thường niên năm C (26/9/2010) - Sau khi chết, sẽ quá trễ để tỉnh ngộ
Anh chị em thân mến,
Trong Tin mừng Chúa nhật này (Lc 16,19-31), Chúa Giêsu kể dụ ngôn người giàu có và người nghèo Lazzaro. Người thứ nhất sống trong sa hoa và ích kỷ, và khi chết, sa hỏa ngục. Trái lại, người nghèo ăn những đồ thừa từ bàn ăn của người giàu, khi chết, ông được các thiên thần đưa vào nơi vĩnh cửu của Thiên Chúa và các thánh. Chúa đã từng nói với các môn đệ: “Phúc cho các con là những người nghèo, vì nước Thiên Chúa thuộc về các con” (Lc 6,20). Nhưng sứ điệp của dụ ngôn còn đi xa hơn nữa: dụ ngôn nhắc nhớ rằng trong khi chúng ta ở đời này, chúng ta phải lắng nghe Chúa nói với chúng ta qua Kinh thánh và sống theo ý Chúa, nếu không, sau khi chết, sẽ quá trễ để tỉnh ngộ lại. Vì thế, dụ ngôn này nói với chúng ta hai điều: thứ I là Thiên Chúa yêu thương người nghèo và nâng họ lên từ tình trạng tủi nhục của họ; thứ II là vận mệnh đời đời của chúng ta tùy thuộc thái độ của chúng ta, tùy theo chúng ta có theo con đường mà Thiên Chúa đã chỉ cho chúng ta hay không để tiến đến sự sống, và con đường này là tình thương, không hiểu như một tình cảm, nhưng như một sự phục vụ tha nhân trong tình bác ái của Chúa Kitô.
Do một sự trùng hợp tốt đẹp, ngày mai chúng ta sẽ kính nhớ thánh Vinh Sơn Phaolô, bổn mạng các tổ chức bác ái Công Giáo, năm nay kỷ niệm 350 năm thánh nhân qua đời. Tại Pháp hồi thế kỷ 17, thánh nhân đã tiếp xúc cụ thể với sự tương phản giữa những người giàu nhất và người nghèo nhất. Thực vậy, trong tư cách là linh mục, Thánh Vinh Sơn có dịp tiếp xúc với những người thượng lưu trưởng giả, cũng như với dân nông thôn và những người lầm than khốn cùng ở Paris. Được tình yêu Chúa Kitô thúc đẩy, Thánh Vinh Sơn Phaolô đã biết tổ chức những hình thức bền vững cho công việc phục vụ những người bị gạt ra ngoài lề xã hội, thành lập những hội gọi là 'Charitées', các nhóm phụ nữ dành thời giờ và của cải để giúp đỡ những người nghèo khổ nhất. Trong số những người thiện nguyện ấy, một số người đã chọn lựa con đường thánh hiến hoàn toàn cho Thiên Chúa và người nghèo, và thế là, cùng với Thánh nữ Louise de Marillac, Thánh Vinh Sơn thành lập dòng nữ tử bác ái, là dòng nữ đầu tiên sống sự thánh hiến giữa đời, nơi dân chúng, các bệnh nhân và những người túng thiếu.
Các bạn thân mến, chỉ có Tình Yêu, được viết bằng chữ Hoa, nghĩa là Thiên Chúa, mới ban hạnh phúc đích thực! Một chứng nhân khác làm chứng về điều ấy, đó là một thiếu nữ được phong chân phước hôm qua ở Roma này. Tôi muốn nói đến Chiara Badano, một thiếu nữ Italia sinh năm 1971, bị bệnh qua lời lúc gần 19 tuổi, nhưng cô là một tia sáng cho tất cả mọi người, như biệt danh của cô “Chiara Luce” (Ánh sáng rạng ngời). Giáo xứ của cô, giáo phận Acqui Terme và Phong trào Tổ ấm mà cô là thành viên, đang hân hoan vui mừng hôm nay - và cũng là đại lễ cho tất cả mọi người trẻ, họ có thể tìm thấy nơi Chiara một mẫu gương về cuộc sống phù hợp với niềm tin Kitô. Những lời cuối cùng của Chiara, hoàn toàn tuân phục thánh ý Chúa, đó là “Con chào mẹ. Xin mẹ hãy vui mừng hạnh phúc vì con được hạnh phúc”. Chúng ta hãy chúc tụng Thiên Chúa, vì tình thương của Ngài mạnh hơn sự ác và sự chết; và chúng ta hãy cảm tạ Đức Trinh Nữ Maria, Đấng dẫn đưa người trẻ,m kể cả qua những khó khăn và đau khổ, tiến đến chỗ yêu mến Chúa Giêsu và khám phá vẻ đẹp của cuộc sống.
Trong phần chào thăm các tín hữu sau kinh Truyền Tin, bằng tiếng Pháp, ĐTC nhắc đến những người tham dự buổi đọc kinh này qua đài phát thanh và truyền hình và nói rằng ”Tôi cám ơn anh chị em một lần nữa vì đã cầu nguyện tháp tùng tôi trong cuộc tông du tại Vương quốc Anh. Xin Mẹ Maria, các thánh tổng lãnh thiên thần Micae, Gabriel và Raphael giúp đỡ tất cả chúng ta sống trong tin yêu, kiên trì và dịu dàng. Xin cầu chúc anh chị em chuẩn bị tháng Mân côi sắp tới.
Bằng tiếng Ý, Đức Thánh Cha đặc biệt chào thăm một nhóm đông đảo các nữ tử bác ái thánh Vinh Sơn Phaolô và các LM dòng Lazzariste thuộc nhiều nước khác nhau, cũng như các giáo dân thuộc các hiệp hội Vinh Sơn, các tu huynh thuộc tu đoàn Tông Tồ Công Giáo, tức là dòng Pallotin.
Đức Thánh Cha cũng loan báo: “Các bạn thân mến, nếu Chúa muốn, thứ 5 tới đây, tôi sẽ trở về Roma; vì thế, trong khi cầu chúc các bạn một chúa nhật tốt đẹp, tôi gửi lời chào từ giã Cộng đoàn Castel Gandolfo và hẹn gặp lại.”
Sáng Chúa nhật 26/9/2010, hàng chục ngàn tín hữu đã tham dự thánh lễ do ĐHY Quốc vụ khanh Tòa Thánh Tarcisio Bertone, cử hành tại Đền thờ Thánh Phaolô ngoại thành, để tạ ơn Chúa vì lễ phong chân phước cho Chiara Badano.
Nguồn: archivioradiovaticana.va
Đức Bênêđictô XVI, Huấn dụ Chúa nhật 26 Thường niên năm C (30/9/2007) - Sự gian ác trên đời này bị lật ngược bởi công lý của Thiên Chúa
Anh chị em thân mến,
Hôm nay Tin mừng thánh Luca trình bày dụ ngôn về một phú hộ và người nghèo Ladarô (Lc 16,19-31). Người phú hộ điển hình cho sự sử dụng tài sản ngang trái của kẻ dùng tiền bạc của vào việc xa xỉ vô độ và ích kỷ, chỉ tìm sự thoả mãn bản thân chứ không mảy may nghĩ tới người hành khất đang đứng trước cửa nhà. Đối lại, người nghèo tượng trưng cho con người mà chỉ có Chúa mới quan tâm. Khác với ông phú hộ, người nghèo có tên riêng là Ladarô, viết tắt của Eleazarô có nghĩa là “Thiên Chúa giúp đỡ”. Kẻ bị mọi người bỏ quên nhưng Chúa thì không quên; kẻ chẳng có giá trị gì trước mặt người đời, nhưng lại quý giá trước mặt Chúa. Bài trình thuật cho thấy rằng sự gian ác trên đời này bị lật ngược bởi công lý của Thiên Chúa: sau khi chết rồi, ông Ladarô được đón tiếp vào “lòng của ông Abraham”, nghĩa là trong cõi hạnh phúc bất diệt; còn ông phú hộ kết thúc đời mình “trong điạ ngục giữa cực hình”. Đây là một tình trạng mới mẻ mang tính cách quyết định và không thể kháng cự được nữa; bởi thế cần phải sửa mình bao lâu còn sống trên đời này, chứ sau đó thì vô phương cứu chữa.
Dụ ngôn này cũng có thể được đọc dưới một nhãn giới xã hội học. Chúng ta nhớ đến sự phân tích sâu sắc của đức thánh Phaolô VI trong thông điệp Populorum progressio cách đây 40 năm. Khi bàn về sự đấu tranh chống lại nạn đói, ngài viết rằng: “Cần phải xây dựng một thế giới trong đó… mỗi người có thế sống cuộc đời xứng đáng với giá trị con người... nơi mà người nghèo Ladarô có thể ngồi cùng bàn với ông phú hộ” (số 47). Thông điệp nhắc lại rằng trong số những yếu tố gây ra cảnh cùng cực, thì một bên là “những cảnh nô lệ do con người tạo ra” và bên kia là “hoàn cảnh thiên nhiên chưa thể khắc phục được” (nơi đã dẫn). Tiếc rằng nhiều dân tộc hiện phải hứng chịu cả hai loại yếu tố vừa nói. Lúc này, làm thế nào không nghĩ đến các dân tộc châu Phi ở dưới vùng Sahara, bị cảnh lũ lụt trong những ngày qua? Chúng ta cũng không thể nào quên được bao nhiêu hoàn cảnh khẩn trương về nhân đạo tại nhiều nơi trên địa cầu, nơi mà những cuộc xung đột để chiếm đoạt quyền hành chính trị và kinh tế làm tăng thêm nỗi cùng khổ tang thương của người dân. Do đó lời kêu gào của Đức Phaolô VI vẫn còn duy trì tính thích thời của nó: “Các dân tộc đói khát đang kêu cứu các dân tộc dư giả” (Populorum progessio số 3). Chúng ta không thể nói rằng mình không biết phải đi con đường nào: chúng ta đã có Lề luật và các ngôn sứ, như Chúa đã nói trong bài Tin mừng. Ai không muốn nghe theo những tiếng đó, thì họ cũng chẳng thay đổi gì cho dù kẻ chết hiện về để cảnh báo.
Xin Mẹ Maria giúp chúng ta lợi dụng thời buổi hiện tại để lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Xin Mẹ cầu xin cho chúng ta biết quan tâm hơn đến các anh em túng quẫn, để chia sẻ với họ chút ít gì mình đang có, và cộng tác vào việc phổ biến chính sách và thực hành tình liên đới, bắt đầu ngay từ chính chúng ta.
Nguồn: archivioradiovaticana.va