NĂM THÁNH MỪNG 350 NĂM
THÀNH LẬP DÒNG MẾN THÁNH GIÁ
BÀI 7: SỨ MẠNG DÒNG MẾN THÁNH GIÁ
Nhóm Nghiên Cứu Linh Đạo Mến
Thánh Giá
WHĐ (16-06-2020)
– Được mời gọi sống sứ mạng tông đồ theo tinh thần của Đức Cha Pierre Lambert
de la Motte, người nữ tu Mến Thánh Giá đặt trọng tâm việc truyền giáo vào mầu
nhiệm Thập Giá và ý thức rằng: người tông đồ tiếp nối sứ mạng Cứu Thế của Chúa
Kitô. Ơn gọi căn bản Dòng Mến Thánh Giá là sống mầu nhiệm tình yêu, hàm chứa sứ
mạng tông đồ, vì Chúa Kitô mà người nữ tu Mến Thánh Giá chuyên chú tìm hiểu,
yêu mến và bắt chước, là vị tông đồ hoàn hảo của Chúa Cha. Vậy người nữ tu Mến
Thánh Giá phải trở nên tông đồ của Chúa Kitô và thông dự vào hành động cứu thế
của Người, nghĩa là cứu thế bằng hy sinh và bằng tinh thần trung gian.
Chúa Kitô là
trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người. Người chuyển cầu không chỉ bằng
lời kinh cầu nguyện cho mỗi người và mọi người, mà bằng cả cuộc đời phục vụ, với
đỉnh cao là hành động hiến dâng mạng sống trên Thánh Giá làm giá chuộc cho muôn
người. Đức Cha Lambert muốn các nữ tu Mến Thánh Giá phải nhận thức rõ ân huệ đặc
biệt Chúa Kitô ban cho họ là được thông dự vào vai trò trung gian và tiếp nối
cuộc đời lữ thứ hy sinh của Người để chuyển cầu cho phần rỗi và hạnh phúc của
anh chị em đồng loại.
Theo ý hướng của
Đấng Sáng Lập, “tinh thần trung gian”
mà các nữ tu Mến Thánh Giá nhận được từ Chúa Kitô phải được thể hiện trong hai
sứ vụ quan trọng là tiếp nối nơi bản thân mình cuộc đời lữ thứ hy sinh của
Chúa, và chuyển cầu cho lương dân cùng các Kitô hữu bất hảo được ơn hoán cải[1].
1. Tiếp nối nơi bản thân mình cuộc đời lữ thứ hy
sinh của Chúa Kitô
Người nữ tu Mến
Thánh Giá được Chúa Kitô tuyển chọn và ban đầy tinh thần của Người là tinh thần
trung gian, để tiếp nối cuộc đời lữ thứ hy sinh của Người cho đến tận thế, vì
thân xác Chúa đã phục sinh vinh hiển nên không còn trực tiếp cảm nhận đau đớn và
đau khổ nữa.
Sứ vụ “tiếp nối”
này làm cho các nữ tu Mến Thánh Giá hoàn toàn thuộc về Chúa Giêsu Kitô, vì đã
dâng mình trọn vẹn cho Người, qua việc tuyên khấn và sống ba lời khuyên Phúc
Âm, sống thành cộng đoàn, và “thực hành mọi việc thay cho Chúa Kitô”[2]. Đây
là hành vi đáp trả đầy yêu thương của người được Thiên Chúa tuyển chọn cách đặc
biệt.
Theo Đức Cha
Lambert, người nữ tu Mến Thánh Giá đồng hóa mình với Đức Kitô để tiếp nối sứ mạng
cứu rỗi của Người, để “Thiên Chúa, Cha của Người khi nhìn vào thân xác và cánh
tay Người mượn, thì chỉ thấy trực diện các đau đớn của Con mình; sự kiện Chúa
Cha hằng hữu ưng nhận như thế, phải là quy tắc hướng dẫn tôi về cách ứng xử đối
với trường hợp đó và dạy tôi phải giữ tâm thế hoàn toàn thụ động cả bề trong lẫn
bề ngoài”[3],
nghĩa là chết đi với chính mình, để sống cho Đức Kitô.
Việc chết đi đối
với chính mình là cần thiết cho Chúa Giêsu tiếp tục trong chúng ta sứ mạng cứu
độ của Người. Đức Cha Lambert thường nói: Đời sống người tông đồ là một cuộc chết
đi liên lỉ, “chết đi đối với chính mình và đối với thế gian”[4],
nghĩa là đối với “các giác quan, bản tính tự nhiên và lý trí người đời, [để] sống
bằng giáo huấn, gương sáng và sự sống của Đức Kitô”[5].
Như thế, căn tính
của người tông đồ Mến Thánh Giá là hoàn toàn chết đi cho mình và sống trọn vẹn
cho Thiên Chúa, nhất là để Chúa Giêsu sử dụng cuộc đời của họ để tiếp nối hy lễ
Thập Giá của Người, nhằm sinh ơn cứu độ cho con người. Nói cách khác, căn tính
này hệ tại việc họ làm cho tình yêu của Đức Giêsu-Kitô Chịu-Đóng- Đinh phản chiếu
cách trung thực trong tư tưởng, lời nói và việc làm của mình. Đức Cha Lambert
diễn tả thực tại ấy như sau: “khi đã tuyên khấn ba lời khấn của đời sống trọn
lành là nghèo khó, khiết tịnh và vâng lời nội tâm, con người mất hết chỗ dựa,
trở thành một người hành khất đích thực do bậc sống”[6].
Để có thể “tiếp nối”
và “làm thay” cho Chúa Kitô, người nữ tu Mến Thánh Giá phải ý thức và xác tín
như Đức Cha Lambert: Tôi “trao gởi và cống hiến thân xác tôi cho Đức Giêsu Kitô
để Người dùng mà thực hành những việc đền tội hãm mình và Người có thể tiếp nối
sự hy sinh lao nhọc hằng ngày trong một thân xác có khả năng chịu đau khổ do
Người mượn lấy và tuyển chọn cho mục đích đó”[7]. Mặt khác,
chị em phải ý thức mình là họa ảnh của Đức Kitô, để hằng ngày chiêm ngắm mầu
nhiệm tự hủy, vâng phục, nghèo khó của Người, và để cho Chúa Cứu Thế không những
chiếm lấy các năng khiếu tâm linh của linh hồn, mà còn trở thành chủ nhân của
thân xác mình, để tiếp nối cuộc đời lữ thứ và đau khổ nhờ những hy sinh lao nhọc
mà Người thực hiện theo ý muốn qua những lễ vật được thần hóa đó[8].
Sứ mạng tiếp nối
cuộc đời đau khổ của Chúa Giêsu cũng mời gọi chị em Mến Thánh Giá đón nhận niềm
vui và đau khổ từ Thiên Chúa với cùng một thái độ yêu thương và tạ ơn, vì Chúa
Giêsu là Đấng đáng mến tại núi Sọ cũng như tại núi Tabor. Tuy nhiên, Chúa Giêsu
“bày tỏ những dấu chứng lớn lao về tình yêu của Người trên núi Sọ hơn là trên
núi Tabor”[9].
Chính vì lý do này, bí mật tuyệt vời của ơn gọi Mến Thánh Giá hệ tại ở việc
“yêu mến Chúa Giêsu Kitô trong những lúc tối tăm, những thập giá, những hy sinh
của chúng ta và trong mức độ Người cho chúng ta uống chén đắng của Người, cũng
như khi Người lấp đầy chúng ta bằng những ân tình dịu dàng”[10]. Thật vậy,
trong đau khổ tột cùng mà tình yêu của chúng ta dành cho Thiên Chúa và anh chị
em vẫn không suy giảm chứng tỏ rằng tình yêu chúng ta mạnh hơn sự chết.
Người nữ tu Mến
Thánh Giá thực thi sứ mạng chuyển cầu nơi
nguyện đường và trong cuộc sống qua năm nhiệm vụ được Đức Cha Pierre
Lambert ấn định trong Luật Tiên Khởi: nhiệm vụ thứ nhất là chuyển cầu trong
nguyện đường, bốn nhiệm vụ còn lại là chuyển cầu trong cuộc sống.
2.1 Chuyển cầu nơi nguyện đường
Việc chuyển cầu
nơi nguyện đường được thể hiện qua nhiệm vụ thứ nhất: “Nhiệm vụ đầu tiên của tất
cả những người đi theo nếp sống này là phải liên lỉ kết hợp nước mắt, việc suy
gẫm cầu nguyện và hãm mình đền tội với công nghiệp của Đức Kitô, để cầu xin
Thiên Chúa ban ơn ăn năn trở lại cho lương dân trong ba miền truyền giáo thuộc
quyền các vị đại diện Tông Tòa, cách riêng ở Đàng Ngoài”[11].
Qua nhiệm vụ này,
Đấng Sáng Lập cho thấy: đời sống chiêm niệm và khổ chế chiếm vị trí ưu tiên và
phải đi trước mọi hoạt động truyền giáo của chị em Mến Thánh Giá. Ngài khuyên
nhủ: “Trước khi gieo vãi hạt giống Phúc Âm, hãy dùng lời cầu nguyện làm cho mưa
móc sa xuống trên cánh đồng”[12]. Nhờ
kết hiệp mật thiết với Chúa mà người tông đồ có thể hành động với một tinh thần
thực sự tự do. Sự tự do này là để cho tinh thần của người tông đồ liên lỉ thâm
nhập vào tinh thần của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa không ngừng linh hoạt tinh
thần và bao bọc chúng ta, đến nỗi chúng ta không còn tự sức mình hoạt động,
nhưng Thiên Chúa hoàn toàn ngự trị trong chúng ta.
Đức Cha Lambert
nhấn mạnh: “Để sở hữu, bảo tồn và gia tăng tối ưu bí quyết sống và chết trong Đức
Kitô, người kế vị các tông đồ hoặc môn đệ Chúa, dường như cần phải quyết tâm sống
đời đền tội toàn diện; phải thực hành khổ chế không chỉ trong sự ăn uống và những
việc hãm mình bề ngoài, mà nhất là trong các hành động của con người, nghĩa là
trong phạm vi đời sống thể lý và những sinh hoạt của lý trí”[13].
Như thế, cầu nguyện
và khổ chế rất cần thiết cho đời sống tông đồ của người nữ tu Mến Thánh Giá.
Theo Đức Cha Lambert, chỉ mình Thiên Chúa mới có khả năng hoán cải các tâm hồn,
và việc kết hợp hy sinh với cầu nguyện là điều cơ bản khi thi hành sứ vụ tông đồ.
Thật vậy, “Thiên Chúa thường gắn liền sự ăn năn trở lại của nhiều người với những
hy sinh hãm mình, kinh nguyện và đức bác ái phi thường của các thừa tác viên”[14].
Theo ý hướng của
Đấng Sáng Lập, hằng ngày chị em Mến Thánh Giá dâng những hy sinh và lời cầu
nguyện để cầu xin Thiên Chúa cho lương dân được ơn biết Chúa, cho các tín hữu sống
xa lìa Chúa được ơn hoán cải, cho các nhu cầu của Giáo Hội phổ quát và Giáo Hội
địa phương.
2.2. Chuyển cầu trong cuộc sống
Việc chuyển cầu
trong nguyện đường phải dẫn tới việc chuyển cầu trong cuộc sống, bằng sự dấn
thân phục vụ tha nhân, mà đối tượng ưu tiên là giới nữ và giới trẻ, trong các
lãnh vực văn hoá, xã hội, y tế, luân lý và đức tin.
Công việc bác ái
của các nữ tu Mến Thánh Giá được thể hiện qua các nhiệm vụ:
- “Dạy các thiếu
nữ, giáo cũng như lương, những điều nữ giới cần biết. Nếu vì tình huống hiện
nay xảy đến cho đạo Thánh không thể làm được, chị em hãy nhớ rằng khi hoàn cảnh
cho phép, thì đó là một trong những nhiệm vụ chính của mình”[15]. Sứ
vụ này hoàn toàn mang tính cách mạng trong bối cảnh văn hóa Việt Nam của thế kỷ
XVII. Qua đó ta cũng thấy Đức Cha Lambert có một cảm thức sâu xa về phẩm giá
con người. Ngài ý thức rằng không thể có tiến bộ xã hội hoặc đơn giản không thể
có sự phát triển nhân bản, nếu không có một mức tối thiểu kiến thức và giáo dục.
Ngài cũng biết rằng các bà mẹ không thể giáo dục con cái cách đúng đắn, nếu họ
bị trói chặt trong sự ngu dốt là nguồn gốc của sự cùng khổ và tình trạng nô lệ.
Ngài quan tâm thăng tiến nữ giới, không phân biệt lương giáo, vì được học là một
quyền cơ bản của con người, của nhiều người và mọi người. Hành động đầu tiên của
công cuộc truyền giáo phải là hành động biểu lộ cụ thể sự quan tâm và tình
thương của Thiên Chúa dành cho mọi người, bất luận thuộc phái tính hay địa vị
nào[16].
- “Săn sóc những phụ nữ, thiếu nữ đau ốm
bệnh tật cả giáo lẫn lương. Nhờ cơ hội đó khuyên bảo họ lo phần rỗi và trở lại
với Chúa”[17]. Mối
bận tâm tông đồ đối với Đức Cha Lambert là tìm cách đem người ta về với Chúa.
Khi bệnh tật làm cho con người lo âu trước viễn ảnh cái chết, thì họ dễ dàng
đón nhận sứ điệp cứu độ và niềm hy vọng hướng về đời sống vĩnh cửu. Đó cũng
chính là lúc nảy sinh nhu cầu khẩn thiết phải hoán cải[18].
- “Rửa tội nơi giếng
Thánh cho những trẻ nhỏ lâm cơn nguy tử”[19]. Một công
tác tông đồ mang tính cổ điển nhưng được thúc đẩy bởi thao thức truyền giáo.
- “ Dùng mọi cách kêu gọi những người phụ
nữ và thiếu nữ trụy lạc”[20] trở
về đời sống lương thiện.
Từ những nhiệm vụ
mà Đấng Sáng Lập đã đề ra cho Dòng Nữ Mến Thánh Giá trong Luật Tiên Khởi và
trong Bức Tâm Thư, ta thấy Đức Cha Lambert có một tầm nhìn toàn diện. Thật vậy,
bản luật tuy ngắn gọn, nhưng súc tích, phản ánh được tinh hoa của các linh đạo
mà Đức Cha Pierre Lambert từng hấp thụ, vừa thích nghi với môi trường xã hội Việt
Nam, vừa mang tính “cách mạng” so với não trạng chung thời đó. Tác giả
Fauconnet-Buzelin nhận định rằng: “Trong những mục đích mà ngài ấn định cho Tu
Hội đầu tiên của các nữ tu bản xứ Châu Á, Đức Cha Lambert đã áp dụng các trực
giác thiêng liêng cấp tiến nhất của thời đại ngài, và đi xa hơn nữa, bằng cách
liên kết làm một, không tách rời ra được: đời sống chiêm niệm, ơn gọi thừa sai
và công tác bác ái là ba trục lớn của những phụ nữ Công Giáo cấp tiến thế kỷ
XVI và XVII, nhưng thích nghi cho phù hợp với điều kiện đặc thù của Giáo Hội Việt
Nam [...] và đặt chúng dưới ánh sáng của
linh đạo Thánh Giá, linh đạo riêng của ngài”[21].
Ngoài ra, các nhiệm
vụ cũng cho thấy sứ mạng Dòng Mến Thánh Giá bao gồm đầy đủ các hoạt động chính
yếu của một đời dâng hiến, cả trong tương quan chiều dọc với Thiên Chúa, và cả
trong tương quan chiều ngang với xã hội và tha nhân. Mọi tu hội đều mang sứ vụ
tông đồ nhưng mỗi tu hội thường chọn điểm nhấn ưu tiên của mình, hoặc thiên về
chiêm niệm hoặc thiên về hoạt động. Điều đặc biệt nơi Đức Cha Lambert là ngài
liên kết làm một đời sống chiêm niệm, ơn gọi thừa sai và công tác bác ái. Ngài
đặt chiêm niệm và khổ chế lên hàng đầu. Nhưng ngài cũng nhấn mạnh đến ơn gọi thừa
sai như trong thư gửi cho hai nữ tu Anê và Paula: “Để cầu xin Thiên Chúa cho lương dân và tín hữu tội lỗi được ơn ăn năn
trở lại”[22].
Như vậy, trong đối tượng của truyền giáo, lương dân là ưu tiên nhưng cũng không
quên các tín hữu tội lỗi.
Ngày nay, khi
nhìn lại sứ mạng của nữ tu Dòng Mến Thánh Giá, nhất là về bốn hoạt động bên
ngoài mà đối tượng chủ yếu là phụ nữ, chúng ta sẽ cho rằng đó cũng là lẽ thường
tình. Nhưng nếu đặt vào bối cảnh xã hội Việt Nam thế kỷ XVII, trong đó vai trò
của phụ nữ rất mờ nhạt, có chăng là “tam tòng, tứ đức” trong nếp nhà, thân phận
phụ nữ thấp kém như kiểu “thập nữ viết vô”, không được học hành, trong một cơ cấu
xã hội do nam giới thống trị, chúng ta mới thấy tầm nhìn cách mạng của Đức Cha
Lambert về vai trò của phụ nữ, cụ thể ở đây là vai trò của các nữ tu Mến Thánh
Giá. Các chị được giao những nhiệm vụ xã hội như dạy dỗ các thiếu nữ, săn sóc
phụ nữ ốm đau, cải hóa phụ nữ trụy lạc. Đó là các đối tượng mà ngài muốn con
cái mình ưu tiên phục vụ. Tính chất cách mạng trong tầm nhìn của Đức Cha
Lambert còn được thể hiện qua lòng khoan dung bao quát, không phân biệt, “lương
cũng như giáo”. Khi đọc lại những trực giác và chủ trương này của Đức Cha
Lambert, nhất là về việc giao cho nữ tu trách nhiệm giáo dục phụ nữ, tác giả
Fauconnet-Buzelin đã ít nhất hai lần nhận định: “Đó là một biện pháp hoàn toàn cách mạng trong bối cảnh văn hóa của Việt
Nam thế kỷ XVII. [...] Vào thế kỷ
XVII, ở Pháp, ý tưởng này đã trở nên bình dân nhờ linh mục Vincent de Paul;
nhưng trong bối cảnh xã hội Châu Á, đó quả là một cuộc cách mạng đích thực”[23].
Chúng ta có thể gọi Đức Cha Pierre Lambert là vị tiên phong đề cao nữ quyền và
giải phóng phụ nữ ở Việt Nam, trong Giáo Hội cũng như ngoài xã hội.
Sứ mạng Dòng Mến
Thánh Giá được đặt trong mối tương quan với đặc sủng sống sứ vụ tông đồ thừa
sai rất phù hợp với tinh thần của Công Đồng Vatican II: “Nhà truyền giáo là con
người cầu nguyện, hy sinh, mang trong mình cuộc tử nạn của Chúa, tận hiến chính
bản thân, gia tăng tình yêu Thiên Chúa và tha nhân bằng việc thi hành nhiệm vụ
hằng ngày”[24].
II. NGƯỜI NỮ TU MẾN THÁNH GIÁ SỐNG SỨ MẠNG TÔNG ĐỒ
Trải qua bao biến
cố thăng trầm, chị em Mến Thánh Giá vẫn trung thành bảo toàn ơn gọi và thi hành
sứ mạng đặc biệt của Dòng với sự sáng tạo, thích nghi cần thiết, tuỳ hoàn cảnh
địa phương và khả năng của mình. Mọi sáng tạo thích ứng đó luôn trung thành với
con người và thời đại, Đức Kitô và Phúc Âm của Người, Giáo Hội và sứ mạng của
Giáo Hội trong thế giới, đời sống tu trì và đặc sủng của Dòng. Chúng ta sẽ lược
qua những sinh hoạt tông đồ của các nữ tu Mến Thánh Giá từ lúc mới thành lập
Dòng cho đến hôm nay.
1. Giai đoạn hậu bán thế kỷ XVII
Có thể nói, ngay
từ những ngày đầu khai sinh, Dòng Mến Thánh Giá đã hiện diện trong hoàn cảnh xã
hội vô cùng khó khăn, gian nan thử thách. Mặc cho nguy nan bao vây tứ bề, các nữ
tu Mến Thánh Giá vẫn hòa nhập vào nhịp sống của Giáo Hội và xã hội bằng sự dấn
thân không biết mệt mỏi. Các chị đã không ngừng thi hành sứ mạng truyền giáo
theo tinh thần Đấng Sáng Lập trong sự âm thầm và lòng yêu mến Giáo Hội. Hình ảnh
các “Bà Mụ Mến Câu Rút” ở Đàng Ngoài và các “Dì Nhà Phước Mến Thánh Giá” ở Đàng
Trong đã khá quen thuộc với đa số giáo dân Việt Nam. Hình ảnh quen thuộc nhất
có lẽ là từng nhóm hai người Nhà Mụ quẩy gánh thuốc viên, hoặc hai Dì Nhà Phước
tay mang tay nải đầy thuốc gia truyền, rảo khắp các nẻo đường bán thuốc chữa bệnh
cho người bình dân, như một kế sinh nhai khiêm tốn, và thi hành sứ mạng tông đồ
là tìm trẻ nhỏ lâm cơn nguy tử để rửa tội, và khuyên bảo người ta chăm lo phần
rỗi linh hồn...
Dù trong hoàn cảnh
nào, các chị Mến Thánh Giá vẫn luôn dấn thân phục vụ Tin Mừng. Đặc biệt trong
cơn bách hại, các chị cũng đã chịu chung số phận như các tín hữu khác, rất nhiều
nữ tu hiến mình chịu chết vì đức tin. Ngoài ra, vai trò và những việc làm khác
của các chị không kém phần ý nghĩa khi so với hành động tử vì đạo, vì những việc
làm này vừa thể hiện sức mạnh của đức tin, vừa giúp bảo vệ hàng ngũ lãnh đạo của
Giáo Hội, vừa củng cố và duy trì cộng đoàn các tín hữu. Các Tu Viện trở thành
nơi ẩn núp cho các vị thừa sai và linh mục bản xứ. Các nữ tu nhờ y phục thường
dân, dễ ra vào nơi lao tù để thăm viếng, tiếp tế lương thực, nhất là đem Mình
Thánh Chúa cho các đấng anh hùng tuyên xưng đức tin; liên lạc, trao thư từ cho
các thừa sai và linh mục bản xứ đang phải ẩn trốn. Những nơi mà linh mục không
thể vào được, thì các chị mạnh dạn đi tới để an ủi kẻ đau khổ, cứu giúp người yếu
đuối, nâng dậy các kẻ đã chối đạo. Các chị đã đồng hành cùng các chứng nhân đức
tin từ tòa án đến pháp trường. Khi các sắc chỉ cấm đạo của Nhà Vua ban ra, các
Tu Viện bị phá huỷ, các chị phân tán về gia đình nhưng vẫn gan dạ vào làng rửa
tội cho trẻ em nguy tử. Vì thế, rất nhiều chị em đã bị bắt, bỏ tù, bị đi đày đến
cả đổ máu đào vì Chúa và Tin Mừng[25].
Về giáo dục thiếu
nữ, chúng ta biết rằng đa phần phụ nữ thời đó đều thất học và trẻ nữ cũng ít được
học hành, nên hoạt động “giáo dục thiếu nữ” đã không thể bao hàm hoạt động giáo
dục học đường như ngày nay. Nhưng chắc hẳn các nữ tu Mến Thánh Giá cũng đã tham
gia dạy đạo, cộng tác với các linh mục và thừa sai, dẫu cho việc làm này có thể
gây nguy hại cho các chị. Một thừa sai xác nhận vào năm 1715: “Các nữ tu Mến
Thánh Giá, tuy nhút nhát tự nhiên theo giới tính, đã bí mật thực hành công việc
của một người dạy giáo lý cho phụ nữ và thiếu nữ Công Giáo. Bão tố sớm đến với
các chị. Chỉ riêng trong tỉnh Nghệ An, ba nhà đã bị phá hủy [...]. Một số trong
các nữ tỳ nhiệt thành này của Đức Kitô đã bị bắt và chịu những khổ cực kéo dài
trong tù đày; những người khác phải về tá túc ở nhà cha mẹ, và những người khác
nữa phải đi ăn xin”[26].
Các nữ tu Mến
Thánh Giá thời kỳ này đã thực hiện một nếp sống tu trì mẫu mực, theo sát tinh
thần và quy định của Luật Tiên Khởi. Ngoài lao động chân tay nhằm bảo đảm cho một
cuộc sống thanh đạm và khổ chế, các chị cũng đã tham gia công việc truyền giáo
theo khả năng và phương cách riêng của các chị. Đức Cha Néez nhận định: “Các nữ
tu Mến Thánh Giá cộng tác vào công cuộc truyền giáo bằng nhiều việc. Những việc
làm này tuy nhỏ bé và âm thầm nhưng được đánh giá là giúp ích rất lớn”[27].
Qua những việc dấn
thân phục vụ này, các nữ tu Mến Thánh Giá “thường được các tín hữu và cả lương
dân yêu mến và quý trọng”[28]. Đức
Cha Retord kể lại trong thư gửi cho cha Laurent ở Lyon vào tháng 01/1846: “Họ
đi thăm viếng và an ủi những người đau yếu, giúp chúng tôi dạy dỗ các phụ nữ dự
tòng.”[29].
Một trong những
hoạt động tông đồ của chị em Mến Thánh Giá là rửa tội cho trẻ em nguy tử, nhất
là trong những năm đói kém, dịch bệnh[30]. Riêng
năm 1812, “các chị rảo khắp nơi và rửa tội cho khoảng 51.000 sinh linh bé bỏng,
nay cũng là từng ấy thiên thần nhỏ, ngời sáng vẻ vô tội và niềm hạnh phúc trước
Tòa Thiên Chúa”[31].
Theo linh mục Đinh Thực, “từ năm 1835 đến năm 1844, ở Đàng Trong có 23.445 trẻ
em đã được rửa tội; trong năm 1854, 13.581 trẻ em đã được rửa tội trong cùng miền
truyền giáo này. Chỉ tại Qui Nhơn, mỗi năm các chị Mến Thánh Giá rửa tội trung
bình 10.000 trẻ em trong những năm trước năm 1886”[32].
Trong những lúc đồng
bào gặp cảnh đói khổ vì thiên tai, các nữ tu hy sinh một phần nhà của mình để
đón tiếp các phụ nữ đau yếu và các trẻ mồ côi[33].
Một đóng góp hữu
ích của các nữ tu Mến Thánh Giá là công việc dạy dỗ các thiếu nữ. Trong thư
ngày 02/06/1830 gửi cho Hội Truyền Bá Đức tin, Đức Cha Taberd cho biết đang có
16 Nhà dòng Mến Thánh Giá, “tất cả các nhà này sẽ đón nhận các người cùng giới
để dạy dỗ và đào tạo họ các công việc thích hợp”. Về hiệu quả của công việc
này, Đức Cha Taberd viết: “Thật là một lợi ích lớn lao cho các họ đạo khi có
các nữ tu, ngay cả cho các họ đạo lân cận. Chỉ những người ở rất xa mới không
được hưởng lợi. Phương cách duy nhất để làm cho các trường này nên hữu ích cho
cả miền truyền giáo là cung cấp một số trợ giúp cho các nữ tu, qua đó, các chị
có thể ở trong tình trạng đón nhận miễn phí một vài người của mỗi họ đạo. Những
người trẻ này, sau khi về lại nhà mình, sẽ trở thành những người mẹ tốt của gia
đình, và qua gương sáng cũng như qua những lời dạy dỗ của họ, sẽ là gương mẫu
và sự nâng đỡ cho bạn hữu”[34].
Như vậy, sự hiện
diện của các nữ tu Mến Thánh Giá trong đời sống của Giáo Hội Công Giáo Việt
Nam, được đánh giá là “rất quý báu, nhất là trong những cuộc bách hại”[35]. Dù
có khó khăn ra sao, trong khi làm những việc tông đồ, các nữ tu Mến Thánh Giá
chú tâm phục vụ ưu tiên cho giới nữ, đây chính là điều mà Đức Cha Lambert thao
thức và đặt kỳ vọng vào những nữ tu Mến Thánh Giá. Trong Luật Tiên Khởi ngài viết
cho những người con tinh thần của ngài: “Dạy những thiếu nữ, giáo cũng như
lương, những điều nữ giới cần biết. Nếu vì tình huống hiện nay xảy đến cho đạo
thánh không thể làm được, chị em hãy nhớ rằng khi hoàn cảnh cho phép, thì đó là
một trong những nhiệm vụ chính của mình”[36]. Đó là một
trong những nhiệm vụ chính của nữ tu Mến Thánh Giá. Tình yêu của Đấng Sáng Lập
đã thâm nhập sâu xa vào đời sống của người Việt, ngài hiểu thế nào là vị thế của
người nữ trong văn hóa Việt, ngài hiểu đâu là những thiệt thòi mà nữ giới phải
chịu, và đâu là tầm quan trọng nếu người nữ trong gia đình có được sự giáo dục
tốt.
Suốt một quá
trình dài, tinh thần tu trì và đời sống phục vụ của các nữ tu Mến Thánh Giá đã
được xây nên bằng máu, nước mắt và đức hạnh. Các chị là những người thuộc về những
thế kỷ trước, nhưng nền móng của các chị dựng nên vẫn còn vững bền cho đến hôm
nay và mai sau.
3. Thế kỷ XX đến nay: Thời kỳ phục hưng và phát triển
Trong hoàn cảnh
còn khó khăn của những năm sau thời kỳ kháng chiến, chị em Mến Thánh Giá vẫn
duy trì truyền thống của các vị tiền bối trong ý hướng của Đấng Sáng Lập và còn
làm cho tinh thần ấy thêm ngời sáng, cụ thể hơn trong đời sống cầu nguyện và
trong những hoạt động mục vụ của mình. Khi tình thế ổn định hơn, các Hội Dòng
tuỳ theo hoàn cảnh và khả năng của mình, đã tìm ra những đường hướng mới nhằm
phục vụ cho đời sống đức tin của giáo dân, nhất là trong công cuộc truyền giáo
cho lương dân và tham gia nhiều hơn trong công tác tông đồ xã hội. Cũng với sứ
mạng của mình, chị em luôn sẵn sàng cộng tác chặt chẽ với Hàng Giáo Sĩ địa
phương trong các lãnh vực, với ước mong cho mọi người được ơn cứu độ.
Trong bầu khí
canh tân, trở về nguồn sau Công Đồng Vatican II, chị em ý thức hơn về đặc sủng
Mến Thánh Giá của mình trong việc loan báo Tin Mừng. Như các môn đệ được Chúa
sai đi, chị em cũng thực hiện những cuộc thăm viếng bằng cách len lỏi vào các
khu xóm lao động, nơi mà sự nghèo đói, túng quẫn, đau đớn thể xác lẫn tinh thần
luôn chồng chất lên cuộc sống con người.
3.1. Giai đoạn từ năm 1975 - 1985
Sau biến cố năm
1975, nhiều cơ sở, trường học của các Tu Viện bị đóng cửa, các hoạt động tông đồ
cũng bị hạn chế rất nhiều. Đây là giai đoạn Chúa mời gọi chị em sống sứ mạng
truyền giáo theo tinh thần Mến Thánh Giá cách sâu đậm hơn bằng đời sống cầu
nguyện, hy sinh âm thầm, bằng sự hiện diện chứng nhân giữa cộng đoàn dân Chúa
nơi môi trường sống và phục vụ của mình. Các chị len lỏi vào các vùng xa xôi hẻo
lánh, thiếu linh mục để dạy giáo lý, an ủi người hoạn nạn, nâng đỡ đời sống đức
tin cho các tín hữu, chia sẻ cuộc sống nghèo và tìm cách giúp đỡ họ theo khả
năng của mình.
3.2. Giai đoạn canh tân từ năm 1985
Với sự phát triển
của đất nước, con người và xã hội cũng có nhiều biến đổi, các Hội Dòng cũng cố
gắng tìm những hướng đi mới trong việc truyền giáo, để có thể đáp lại những
thao thức của Giáo Hội nói chung và cách riêng trong từng Giáo Phận. Đặc biệt,
từ khi chị em Mến Thánh Giá có chung một Hiến Chương, việc dấn thân tông đồ của
chị em được định hướng rõ rệt qua các lãnh vực:
Giáo dục đức tin: Gắn bó với Giáo Hội địa phương trong công cuộc
loan báo Tin Mừng, chị em dấn thân trong các sinh hoạt mục vụ tại các giáo xứ:
dạy giáo lý thiếu nhi các cấp, giáo lý dự tòng và hôn nhân, hướng dẫn giáo lý
viên, trao Mình Thánh Chúa, thăm viếng kẻ liệt, phục vụ phòng thánh, phụ trách
ca đoàn, ban lễ sinh, các hội đoàn...
Giáo dục văn hóa: Song song với việc giáo dục đức tin là việc
giáo dục văn hoá. Đó cũng là nhiệm vụ tông đồ cụ thể Đấng Sáng Lập đã đề ra. Ý
thức tầm quan trọng ấy, chị em dấn thân nhiều hơn trong lãnh vực này qua việc cộng
tác giảng dạy tại các trường trung học, tiểu học, các lớp tình thương, phổ cập,
xoá mù chữ, trường mầm non và các nhóm trẻ gia đình tại các nhiệm sở, cơ sở,
nơi chị em công tác mục vụ giáo xứ. Trong việc dạy văn hóa cho các cháu mầm
non, ngoài việc giúp các cháu về mặt nhân bản, chị em cũng giới thiệu Chúa cho
các cháu cũng như các phụ huynh qua sự tận tâm dạy dỗ, phục vụ đơn sơ, khiêm tốn
của người nữ tu Mến Thánh Giá nhằm phản chiếu các giá trị Tin Mừng. Bên cạnh
đó, chị em còn tìm cách giúp đỡ những em thuộc gia đình nghèo hoặc có hoàn cảnh
đáng thương.
Công tác xã hội và y tế: Chị em góp phần xoa dịu nỗi đau của đồng bào với
cả tấm lòng yêu mến qua những công việc cụ thể: giúp những học sinh nghèo có điều
kiện đến trường; thăm viếng, trao quà cho người già neo đơn; giúp những gia
đình nghèo vùng sâu vùng xa, không phân biệt lương giáo; bảo vệ sự sống: giúp
những thiếu nữ lỡ lầm, trẻ sơ sinh bị bỏ rơi, chôn cất thai nhi.
Các Hội Dòng cũng
đã mở rộng lãnh vực công tác xã hội chuyên biệt: chăm sóc, nuôi dạy trẻ em khiếm
thị, khiếm thính; tham gia hoạt động xã hội tại các mái ấm, trường khuyết tật;
phục vụ các bệnh nhân tâm thần, bệnh nhân AIDS tại trung tâm cai nghiện và các
bệnh nhân tại các bệnh viện.
Hoạt động truyền giáo: Theo tinh thần của Đức Thánh Cha Phanxicô: “Hãy
đi ra đến vùng ngoại biên”, người nữ tu Mến Thánh Giá được mời gọi luôn mang
trong mình niềm say mến Chúa Giêsu và đầy nhiệt huyết truyền giáo, đặc biệt
truyền giáo cho đồng bào dân tộc thiểu số. Chị em hiện diện tại các giáo điểm
vùng cao với châm ngôn 3 cùng: cùng làm, cùng ăn và cùng sống với người dân.
Ngoài ra còn có
những công việc phục vụ mới trong hoàn cảnh thực tế hiện nay như: mục vụ di
dân, thăm viếng tù nhân...
Những sinh hoạt
đa dạng của nữ tu Mến Thánh Giá nhằm phục vụ hạnh phúc cho con người, giúp phát
triển cả về thể chất lẫn tinh thần. Người nữ tu Mến Thánh Giá luôn có một ý hướng,
một ước nguyện xây dựng hạnh phúc vĩnh cửu cho những người mình tận tình phục vụ,
để tình yêu của Đấng Chịu-Đóng-Đinh được chuyển trao đến những con tim đang
khao khát chân lý và yêu thương. Vì thế, các hoạt động phải được thực hiện với
tâm tình cầu nguyện và tinh thần trung gian, để trở thành lời chuyển cầu trong
cuộc sống, nối dài lời chuyển cầu trong nguyện đường.
Nhìn chung, các Hội
Dòng Mến Thánh Giá đều cố gắng góp phần nhỏ bé của mình trong việc thi hành sứ
mạng tông đồ là mục vụ và truyền giáo, để làm cho Giáo Hội mỗi ngày thêm phong
phú và mạnh mẽ hơn. Trong âm thầm và khiêm tốn, chị em hiện diện và phục vụ hầu
hết ở các Giáo Phận trong nước và một số cộng đoàn ở hải ngoại, từ thành thị đến
thôn quê, nơi cao nguyên rừng sâu đến miền quê hẻo lánh để loan báo Tin Mừng.
Hiện nay có 30 Hội Dòng Mến Thánh Giá đang phục vụ trong nhiều quốc gia và đây
cũng là nguồn năng lực cho công cuộc truyền giáo của Giáo Hội.
Qua mọi thời, dù
dấn thân bên ngoài hay âm thầm phục vụ trong cộng đoàn, người nữ tu Mến Thánh
Giá ý thức sống cách tích cực và thể hiện đặc tính của Dòng là chiêm niệm trong
hoạt động, sống sứ mạng thừa sai, gắn bó với Giáo Hội địa phương, đồng thời
phát huy những đức tính của người phụ nữ Việt Nam: đảm đang, trung hậu, quả cảm,
quên mình trong cuộc đời hiến dâng, để sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc và phục vụ
hạnh phúc của mọi người[37].
Hành trang chị em mang là tình yêu say mến đối với Chúa Giêsu-Kitô Chịu-
Đóng-Đinh, sự khao khát cho phần rỗi các linh hồn và lòng thương cảm sâu xa đối
với tha nhân.
Sử gia Francoise
Fauconet-Buzelin khẳng định: “Chính chị em Mến Thánh Giá cứu vãn lý tưởng truyền
giáo của Đức Cha Lambert và bảo đảm sự trường tồn cho lý tưởng ấy; và trải qua
thăng trầm lịch sử, Dòng Mến Thánh Giá vẫn bảo toàn được căn tính thừa sai đặc
sắc của mình, nếu không luôn luôn đúng trong thực hành, thì ít nhất luôn đúng
trong tinh thần”[38].
Trước nhu cầu cấp
bách của việc truyền giáo trong bối cảnh văn hóa xã hội ngày nay, thời đại 4.0
với những phát minh vĩ đại và ứng dụng khoa học kỹ thuật, chị em Mến Thánh Giá
không ngừng nỗ lực để phục vụ cách hiệu quả và đáp ứng những nhu cầu của thời đại.
Ước mong mầu nhiệm Thánh Giá đã thấm sâu vào con người Đức Cha Lambert, Đấng
Sáng Lập Dòng thế nào, thì linh đạo ấy cũng trở nên men làm dậy bột cho đời sống
thánh hiến và phục vụ của chị em Mến Thánh Giá hôm nay như vậy. Để qua đời sống
cầu nguyện, hy sinh khổ chế và sứ vụ tông đồ của các chị, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục
cứu độ cho đến tận thế, hầu nhiều người được ơn hoán cải và lương dân được đón
nhận Tin Mừng.
Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGMVN Số 116 (tháng 1 & 2 năm
2020)
Xin đọc thêm:
[30] Cf. Nouvelles
Lettres Édifiantes des Missions de la Chine et des Indes Orientales (NLE),
vol. 8, Paris, le Clerc, 1821, pp.319-320.
[35] L'Ami de la
religion, journal ecclésiastique, politique et littéraire, tome 127, Paris, Le Clerc, 1845, p.584.
[38] F. F. Buzelin, Quá Trình Hình Thành Dòng Nữ Mến Thánh Giá Trong Tư Tưởng Của Đức Cha
Lambert, phần I, số 11.12