VƯƠNG QUỐC CỦA TRÍ TUỆ:
CUỘC CHIẾN KHÔNG NGỪNG GIỮA ĐỨC TIN VÀ THUYẾT VÔ THẦN
Tác giả: William A. Borst, Ph.D.
Chuyển ngữ: Tuấn Việt
Từ: catholicculture.org
MỤC LỤC
2.
Những gã khổng lồ của Thuyết vô thần
4. Một
lực lượng đang hành quân
7.
Câu trả lời của các Giáo hoàng
WHĐ (12.03.2021) - Trong phần dẫn
nhập của cuốn sách The Twilight of
Atheism [Thời kì thoái trào của Thuyết vô thần], tác giả Aleister McGrath
nhắc đến diễn văn của Winston Churchill tại Đại học Harvard vào năm 1943, trong
bài diễn văn đó, Churchill đã tiên báo rằng “vương quốc của tương lai sẽ là
vương quốc của trí tuệ” (empires of the
future will be empires of the mind). Những ý thức hệ sẽ chi phối tương
lai chứ không phải là những quốc gia riêng lẻ. Churchill nói điều này nhằm ám
chỉ chủ nghĩa Quốc xã và chủ nghĩa Cộng sản, tuy vậy, sự tiên đoán của ông vẫn
xuất hiện trong các tiêu đề báo chí mỗi ngày.
1. Nguồn gốc Pháp quốc
Điều nguy hiểm nhất trong mọi tư
duy mang tính chất thống trị là Thuyết vô thần. Nó bao hàm một phạm vi rộng lớn
từ việc không tin vào Thiên Chúa hay một Hữu thể Thiêng liêng nào đó cho đến một
sự từ khước mãnh liệt và dứt khoát về bất cứ niềm tin tôn giáo nào và xem đó
như là một thứ dụ dỗ và nô lệ. Thuật ngữ atheist
xuất hiện trước tiên ở Hy lạp từ thời cổ và được hiểu như là chủ trương phủ nhận tôn giáo của quốc gia thời bấy giờ
hơn là không tin Thiên Chúa. Chính vì vậy, những người Kitô hữu tiên khởi từ chối
thờ lạy Caesar cũng bị gọi là atheist,
đồng thời họ cũng bị gọi là kẻ bội giáo, và họ chịu tử đạo chỉ vì không tin như
đồng bào của họ.
Cách mạng Pháp đã đem lại ý nghĩa
mới cho hạn từ này. Mặc dù nhiều người lãnh đạo cách mạng căm ghét Giáo hội
Công giáo, nhưng họ vẫn không minh nhiên phủ nhận Thiên Chúa. Trong khi
Voltaire tìm cách loại trừ Giáo hội và những cái bẫy của việc tôn thờ của tôn
giáo, thì những Philosophes, những
trí thức bừng bừng ngọn lửa cách mạng đã bổ sung thêm việc phủ nhận Thiên Chúa.
Họ tin rằng việc áp dụng phương pháp khoa học một cách triệt để có thể dẫn đến
việc phủ nhận Thiên Chúa. Baron Paul-Henri-Dietrich d'Holbach, người đầu tiên
trong lịch sử tự tuyên bố mình là người vô thần, đã thề sẽ loại trừ hoàn toàn sự
siêu việt (transcendent), để cho thấy
tất cả đều phát xuất từ con người. Ông ta tin rằng ông ta đang giải phóng nhân
loại ra khỏi vòng xiềng xích mê muội của một niềm tin vô lý vào siêu nhiên. Suy
nghĩ của ông đã dẫn tới việc sùng bái lý trí (cult of reason) tách rời khoa học ra khỏi mối dây tôn giáo của nó.
Mặc dù đã cố gắng hết sức, cuộc
cách mạng đã không áp đặt Thuyết vô thần như là quốc giáo trong suốt mười năm
thống trị. Mãi đến thế kỉ XX, chủ nghĩa cộng sản vô thần mới thiết lập một quốc
gia vô thần ở Liên Xô, Trung Hoa và Cuba.
2. Những gã khổng lồ của Thuyết vô thần
Theo McGrath, có ba gã khổng lồ của
thuyết vô thần đã xuất hiện từ sau Cách mạng Pháp. Quan điểm, tính khí và suy
nghĩ của họ đã xây dựng nền móng cho sự đả phá tín ngưỡng trong Thời Mới (Modern), nhằm phá hoại các niềm tin tôn
giáo truyền thống trong hơn một thế kỉ. Ludwig Feuerbach, Karl Marx, và Sigmund
Freud được xem như những tư tế vô thần (atheistic
priesthood), những người đã biến chuyển một giả thuyết cách mạng táo bạo
trở thành điều chắc chắn vững vàng trong suốt một thời kì lịch sử, đặt Kitô
giáo vào thế phòng thủ liên tục. Suy tư chung của họ, được nối kết với thuyết
hoài nghi (skepticism) của Emmanuel
Kant, làm phát sinh học thuyết Thời Mới (Modernism)
gây nhiều thiệt hại cho các tôn giáo lớn trong thế kỉ XX và XXI.
Feuerbach sinh ra trong bầu khí
cách mạng năm 1804. Ông học tại Đại học Berlin, nơi đây, ông được tiếp cận với
tư tưởng của G. W. F. Hegel. Ông rời bỏ Giáo hội đang quá mải mê tập trung vào
một thiên đàng xa vời nào đó hơn là chú ý đến những điều kiện sinh sống trên
trái đất. Feuerbach muốn tạo nên một cơn động đất về mặt trí tuệ, nhằm làm rung
chuyển những cột trụ đức tin ở Tây Phương, để làm sụp đổ toàn bộ kiến trúc Giáo
hội. Ông tin rằng nhân loại đã bịa ra ý niệm về Thiên Chúa như là một sự an ủi
hoặc để lãng quên những đau khổ của cuộc sống. Trong tác phẩm The Essence of Christianity (Bản chất của
Kitô giáo), ông đã tìm cách chứng minh nhân loại bị đàn áp bởi chính
phát minh của chính mình.
Karl Marx đã đưa thuyết vô thần
sang một chiều kích mới. Ông tin rằng tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân. Ông
cảm thấy rằng các cơ cấu quyền lực sử dụng tôn giáo để ru ngủ quần chúng nhân
dân, để quần chúng không nhận ra sự vô ích của cuộc đời và nhận ra những kẻ
đang đàn áp họ. Như một loại vũ khí của cơ cấu quyền lực, tôn giáo kìm giữ người
nghèo trong tình trạng đói khổ và bất mãn. Marx lý luận rằng nếu xã hội xóa bỏ
các điều kiện xã hội tạo nên nhu cầu tôn giáo, tôn giáo tự động sẽ biến mất.
Theo Freud, tôn giáo xuất hiện do
một áp lực tâm lý học sâu xa phản ánh lịch sử tiến hóa phức tạp của nhân loại.
Tư tưởng tôn giáo không phải là những lừa dối có chủ ý, nhưng chúng phát xuất từ
vô thức của con người, từ cái gọi là id. Đối
với ông, các thời kì tôn giáo trong lịch sử được xem như những ngày thơ ấu mông
muội của nhân loại. Niềm tin vào một Thiên Chúa ngã vị chỉ hơn kém là một ảo
giác ấu trĩ (infantile delusion) mà
thôi, phát sinh do những ước muốn trong vô thức
được bảo vệ, được an toàn. Với thuyết vô thần thời mới (modern atheism), thế giới đang ở trong tình trạng trưởng thành của
nó. Một xã hội càng trưởng thành và càng được dân sự hóa, thì nhu cầu tôn giáo
giảm sút.
3. Xung đột nội bộ
Những ảnh hưởng khác của cuộc
cách mạng Pháp vẫn còn tồn đọng cho đến ngày nay. Thuyết vô thần là buồng năng
lượng tăng cường sức mạnh cho thuyết thời mới (modernism) thấm nhuần cuộc chiến văn hóa, cuộc chiến này kéo dài
hơn mọi cuộc chiến khác trong lịch sử Hoa Kì cộng lại. Cuộc chiến về mặt trí tuệ
và tâm hồn này có thể dễ dàng rút gọn vào cuộc chiến không bao giờ ngừng giữa những
niềm tin còn lại từ cuộc Cách mạng Pháp với các truyền thống tôn giáo chán ngán
của nền văn minh Tây phương.
Những mặt xung khắc trong cuộc
xung đột ý thức hệ này có thể được giải thích tốt nhất bằng hình ảnh của hai
thành phố Jerusalem và Athens. Những thành phố lịch sử này đại diện cho hai lực
lượng – mặc khải và lý trí – đã đem lại sức sống và tồn tại ở Phương Tây suốt
500 năm. Trong nhiều thế kỉ dưới sự hướng dẫn của Giáo hội, hai lực lượng này
hoạt động hài hòa với nhau. Với sự trỗi dậy của thuyết Thời mới ở thế kỉ XIX, mọi
thứ đã thay đổi tận căn. Từ đó, hình ảnh Jerusalem và Athens, hay đức tin và lý
trí, sẽ không bao giờ xuất hiện trong cùng một hành trình ý thức hệ. Đúng như
Churchill đã tiên đoán, những thành phố biểu tượng này đại diện cho một cuộc
xung đột nội bộ của trí tuệ diễn ra trong bối cảnh của cuộc tranh luận ý thức hệ
trong thế kỉ XXI.
Vào tháng 11, nhà báo Maggie
Gallagher đã tường thuật về một cuộc gặp mặt thường niên của Salk Institute for Biological Studies tại
La Jolla, California, trong đó bà tỏ rõ thái độ hiếu chiến của Athens nhắm vào
Jerusalem. Bà muốn cho thấy khoa học cũng ganh đua với tôn giáo trong việc loan
báo tin mừng, khi đặt tên cho bài viết tiêu đề: Người kể câu chuyện vĩ đại nhất chưa từng có (teller of the greatest
story ever told). Trong khi nói tới các nhà khoa học tham dự như người
hùng mạnh của Athens, nhiều người trong số đó theo thuyết vô thần hoặc bất khả
tri, nhưng bà không thể che giấu được được “đôi chân đất” của họ, khi luôn tìm
cách đàn áp những người và những ý tưởng đe dọa tư tưởng nền tảng của họ.
Với nỗ lực vô vọng trong việc phá
hoại niềm tin tôn giáo, họ đã tỏ ra như những đứa trẻ không bình thường khi tự
hỏi làm thế nào Đấng Tạo Hóa nhân lành có thể ở đằng sau sự hiện hữu của chúng
ta. Những người khác thì cho thấy sự mênh mông và vẻ đẹp của vũ trụ như là sự
vinh quang và vẻ đẹp tuyệt vời hơn bất cứ điều gì khác được miêu tả trong Thánh
Kinh, hay từ khái niệm Thiên Chúa, và xem đó như là bằng chứng của việc Thiên
Chúa không hiện hữu. Sự dấn thân vào lý trí và luận lý không thể giúp họ nhận
ra sự mâu thuẫn đầy châm biếm trong chính quan điểm của họ.
4. Một lực lượng đang hành quân
Tác giả Aleister McGrath nghĩ rằng
thuyết vô thần đang ở trong thời kì thoái trào, bởi vì tương lai không hy vọng
tìm thấy điều gì giống như một thế giới không tưởng (utopia) mà thuyết vô thần đã hứa. Nó đã vất bỏ những “con đường
cao tốc của lịch sử” với cái chết và tàn phế của hàng triệu người. Ông tin rằng
những người lạc quan về mặt chính trị và những người nhạy cảm về mặt văn hóa đều
đã trở lại với tôn giáo nghiêm túc khi đối diện với sự sụp đổ của chủ nghĩa Cộng
sản.
McGrath đã tính toán sai lầm một
cách nghiêm trọng về cái chết yểu của thuyết vô thần. Thật vậy, chính quyền của
chủ nghĩa cộng sản đã mất nhiều quyền lực ở phương Tây, nhưng như một lực lượng
văn hóa, nó vẫn cổ vũ cho tư tưởng triết học vô thần của nó trên toàn thế giới.
Giáo sư Richard A. Shweder đã vẫy tay làm hiệu cho sự hồi sinh của thuyết vô thần
trong một bài báo ở trang kế bên trang của ban biên tập (op-ed piece) trên tạp chí New York Times số 11/26, với tựa đề
Atheists Agonistes. Ông thông
báo rằng những lực lượng vô thần đang trên đường hành quân, bởi vì thực trạng
tôn giáo đã khiêu khích họ. Những người vô thần đã tìm thấy sức mạnh mới trong
nguồn gốc lịch sử của họ. Họ không nhắm tới Kinh Thánh, nhưng quay trở lại với
những ngày Cách mạng Pháp, khi thế giới bừng tỉnh thức dậy vào một buổi bình
minh sau một giấc ngủ của những thời kì đen tối và được chiếu sáng với chân lý
đích thực.
Những người vô thần không quên rằng
Thời kì Ánh sáng đã cung cấp bức phác họa cho một thế giới mới dũng cảm, không
có mê tín dị đoan và ngu dốt. Mặc dù McGrath đã rung hồi chuông báo tử, thuyết
vô thần vẫn đang trở nên lão luyện hơn trong việc đưa ra những nghi ngờ của
mình bằng cách khoác nó vào trong chiếc áo của kinh tin kính thế tục, như là
tách rời Giáo hội ra khỏi nhà nước và đề cao chủ nghĩa nữ quyền cực đoan. Trong
khi những người vô thần vẫn là con số tối thiểu nhất trong số những người hăng
hái đả phá tín ngưỡng, sự nghi ngờ của họ đã thu hút những người quý phái theo
chủ nghĩa tự do, có thể nhắc tới một số tên tuổi nổi bật với những khuôn mặt sáng
chói như là Kurt Vonnegut, Warren Buffett, Larry Flynt, George Soros, Woody
Allen, George Carlin, và sau cùng là Katherine Hepburn. Danh sách những người
vô thần có ảnh hưởng lớn sẽ không đầy đủ nếu thiếu Christopher Hitchens, tác giả
cuốn sách The Case Against Religion (Vụ kiện chống Tôn giáo) tiếp tục
duy trì ngọn lửa chống tôn giáo một cách bất mãn điên cuồng.
5. Những người vô thần mới
McGrath cũng đã quên một lực lượng
mới trong số những người vô thần. Mặc dù đã có cuộc đối đầu riêng tư với Thiên
Chúa, nhưng Charles Darwin không hoàn toàn là người vô thần. Học thuyết tiến
hóa của ông không nhằm chống lại niềm tin tôn giáo, nhưng nhiều người đã sử dụng
những đề xướng trong học thuyết ấy để chứng minh sự thiếu hợp lý của Kinh
Thánh. Học thuyết ấy được những người vô thần sử dụng từ thế kỉ XVIII. Trước
đó, những người vô thần không bao giờ giải thích được quyền sáng tạo tối thượng
của Thiên Chúa, mãi cho đến khi tác phẩm
Origins of the Species (Nguồn gốc
các loài) của Darwin trở nên phổ biến vào năm 1859.
Người đi đầu trong thuyết vô thần
Darwin là Richard Dawkins, tác giả của một cuốn sách bán chạy nhất (best seller) năm 2006, The God Delusion (Ảo giác về Thiên
Chúa). Trái ngược với niềm tin phổ biến, Dawkins tin rằng việc tiến
hóa phải dẫn đến thuyết vô thần. Mô tả sơ lược bài báo được đăng trên Wired Magazine số ra tháng Mười một
của tác giả Gary Wolf, với tựa đề The
Church of Non-Believers (Giáo hội của những kẻ vô tín) , Dawkins giới
thiệu những người theo Thuyết tân vô thần (New Atheists), một nhánh của nhóm những anh em trí tuệ (intellectual brothers) đang ngày càng đẩy
mạnh một chiến dịch chống lại niềm tin vào Thiên Chúa. Cuốn sách có sức ảnh hưởng
rất lớn của ông, The Blind Watchmaker (Thợ
làm đồng hồ mù lòa), mặc dù vẫn còn nhiều vấn đề gây tranh cãi, đã đưa
Dawkins, vị giáo sư 65 tuổi của Oxford, lên một vị trí đáng chú ý. Ông ghê tởm
niềm tin vào Thiên Chúa vì các Giáo hội sử dụng nỗi sợ hãi và phán xét để làm
tưởng tổn tâm lý con người. Ông chống lại quyền của cha mẹ trong việc giáo dục
con cái theo niềm tin tôn giáo của họ. Ông gọi tôn giáo là thứ hoàn toàn xấu xa
(unmitigated evil) cần phải bị tiêu
diệt.
Một lực lượng vô thần xung kích
khác được mô tả trong bài viết của Wired là Sam Harris. Trong cuốn sách của
mình xuất bản năm 2004, The End of Faith:
Religion, Terror, and the Future of Religion (Sự kết thúc của Đức tin: Tôn
giáo, Nỗi kinh hoàng, và Tương lai của Tôn giáo), Harris đã đề cập nhiều hơn đến phương pháp khải huyền.
Ông cho rằng con người phải từ bỏ niềm tin tôn giáo hoặc nó sẽ đánh dấu sự kết
thúc nền văn minh, nhưng ông quá dễ dàng quên lãng việc giết chết hơn 175 triệu
người trong những bàn tay khát máu của các chính phủ vô thần trong thế kỉ XX.
Trong cuốn sách xuất bản năm 2006
của mình, cuốn Letter to a Christian
Nation (Thư gởi một Quốc gia Kitô giáo), Harris bàn luận về thói đạo đức
giả của các tôn giáo. Ông đả phá Kitô giáo, đặc biệt Thánh Kinh, vì nó rao giảng
một thứ luân lý hẹp hòi. Nó gây ra các cuộc chiến tranh, thảm sát, duy trì chế
độ nô lệ, đặt con người ở trong một tình trạng lạc hậu ; ông tuyên bố rằng những
người ở trong cái gọi là các tiểu bang đỏ của Hoa Kì có tỉ lệ tội ác và ly dị
cao hơn. Cũng như Intelligent Design (Kế
hoạch thông minh), ông chỉ ra một số lỗi hỏng trong tự nhiên, như là những
con chim không biết bay, những đôi mắt mù lòa, để phủ nhận tính xác thực của
nó.
6. Một Tư tế vô thần
Bài viết của Wolf đặc biệt làm nổi
bật thực tế đó là: khác với những người vô thần trước đây trong thời kì Khai
Sáng luôn tỏ ra chán ngán do mang tính phòng thủ, giờ đây họ đã xông xáo và
tích cực hơn trong việc chiến đấu với tôn giáo bằng một sự nhiệt tình đầy giận
dữ, một điều chưa từng thấy trong Thời Mời. Các lực lượng vô thần mới sẽ không
chấp nhận ảo tưởng của tôn giáo như là vai trò xoa dịu trong việc giúp đỡ con
người trong khi đối mặt với những đau đớn của hoạn nạn hoặc chết chóc. Các nhà
vô thần thời mới tranh cãi với nhau rằng đây là sự hão huyền và nô dịch. Họ tin
rằng Kitô giáo là sự trống rỗng, lố bịch về mặt trí tuệ, áp bức về mặt luân lý
và không thể tự biện hộ được.
Những người vô thần xung kích chê
bai những người giữ thái độ trung lập như là những người không có can đảm tin
theo những lời thuyết phục của họ. Những tư tế vô thần này đang tiến hành một cuộc chiến không khoan nhượng đối với
các tín ngưỡng và những tín hữu. Những người vô thần không tham gia trong các
cuộc chiến này thì lăng mạ câu cách ngôn của Ernie Pyle rằng: “Không có kẻ vô
thần nào khi sắp chết” (there are no
atheists in a foxhole), như là một sự phân biệt đối xử không công bằng
và không đúng.
Cuộc chiến của họ cũng diễn ra
trong các tương quan công cộng. Nhận thức rằng hạn từ “vô thần” đã trở nên chán
ngán với phần đông người Hoa Kì, nên vào năm 2003, những người vô thần đã sử dụng
một thuật ngữ mới trong Hội nghị thường niên của họ họp ở Florida. Họ tự gọi
mình là “Những người thông minh” (Brights), điều
này rõ ràng cho thấy có sự nối kết với lối suy nghĩ thời Khai Sáng. Thuật ngữ bright muốn nhắm tới một cái gì đó
rộng lớn hơn là một phong trào vô thần. Nó không chỉ đơn thuần phủ nhận Thiên
Chúa – một điều mà không còn đứng vững – nhưng nhằm bài bác những lối suy nghĩ
mê tín, ma thuật nói chung. Mặc dù họ phủ nhận, nhưng thật khó để không nhận thấy
họ nghĩ về chính họ như là những người thông minh siêu phàm, không bị ảnh hưởng
bởi những ràng buộc của niềm tin tôn giáo.
7. Câu trả lời của các Giáo hoàng
Theo giáo lý Hội Thánh Công giáo,
thuyết vô thần là một tội chống lại nhân đức thờ phượng, bởi vì nó đánh giá sai
lầm về con người, loại bỏ khả năng của ý chí tự do, và xem con người như những
con vật trong học thuyết Darwin. Đã có khá nhiều tư tưởng xuất hiện trong dòng
tư tưởng triết học trong thế kỉ XVI và XVII chống lại chủ nghĩa vô thần, Giáo hội
Công giáo đã có một số kinh nghiệm trong việc đối diện với thuyết vô thần thực
chứng (positive atheism). Chính cuộc
Cách mạng Pháp đã mở ra những buổi ngồi lại của Giáo hội để giải quyết những
nguy hiểm về mặt thiêng liêng và thể xác của những kẻ vô tín của thế giới.
Đối với thuyết tân đại và cộng sản,
Giáo hoàng đã đưa ra những lưu ý rất hợp thời về những nguy hiểm tiềm tàng
trong các học thuyết vô thần ấy. Ngay từ đầu năm 1846, Giáo hoàng Piô IX đã đưa
ra những lưu ý liên quan đến sự tục hóa của thế giới với sự nổi lên của chủ
thuyết thời mới và cộng sản duy vật. Trong Thông điệp Qui Pluribus, Giáo hoàng đã đưa ra những lên án chính thức đối với
học thuyết vô luân của cái gọi là chủ nghĩa Cộng sản, vì trong chủ thuyết đó
hoàn toàn trái ngược với luật tự nhiên. Năm 1878, Giáo hoàng Lêô XIII ra Thông
điệp Quod Apostolici Muneris, xác
định thuyết Cộng sản như là bệnh dịch chết người đã đặt chính mình vào trong một
quan niệm rất hẹp hòi về xã hội loài người và sẽ dẫn đến đổ nát. Trong thông điệp Pascendi Dominici Gregis (1910),
Giáo hoàng Piô X gọi chủ thuyết Thời mới là tổng hợp của các lạc giáo (synthesis of all the heresies). Năm
1937, Giáo hoàng Piô XI đã viết thông điệp Divini
Redemptoris, nhằm trả lời cách dứt khoát với chủ nghĩa cộng sản vô thần.
Thông điệp ấy nhắc lại phẩm giá của mọi loài Thiên Chúa dựng nên, và nhấn mạnh
đến việc chủ nghĩa cộng sản đã phá hủy không chỉ thân xác nhưng còn linh hồn
con người.
Trong khi triều đại Giáo hoàng
Gioan XXIII phần nào nới lỏng sự phòng thủ của Giáo hội trước chủ nghĩa cộng sản
Soviet, đến Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II nhắc nhở thế giới về những tội ác
kinh khủng mà chủ nghĩa Cộng sản đã gây ra cho quê hương Ba Lan của ngài sau thế
chiến. Theo Michael Novak, Giáo hoàng Benedict nhận thức rằng sự chuyển hướng
nhắm tới thuyết vô thần ngày nay đã khác với những gì diễn ra ở thế kỉ XIX, khi
nó hướng tới thế giới khách quan của lý trí khoa học. Mô hình mới của nó thì
hung hãn hơn vì nó chủ quan thuần túy (pure
subjectivism), nó nằm ở trọng tâm của thời hiện đại và cuộc chiến văn hóa
ngày nay. Nỗi lo ngại nhất của Giáo hoàng đó là sự độc tài của chủ nghĩa tương
đối sẽ đưa thế giới trở về với việc công chính hóa kẻ sát nhân nhân danh lòng
khoan dung và sự lựa chọn chủ quan đã thực sự rung lên hồi chuông cảnh báo.
Cũng giống như Churchill, Giáo
hoàng Benedict nhìn nhận rõ ràng rằng Giáo hội phải dấn bước vào cuộc chiến đấu
chống lại các lực lượng của nền văn hóa sự chết của thuyết vô thần, với những
âm mưu xảo quyệt tấn công sự sống trên diện rộng. Có những học thuyết vô thần mới,
Giáo hội cũng rất cần có những lực lượng xung kích mới để chống lại sự phát triển
nguy hại của những thuyết vô thần này.
Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 92 (Tháng
01 & 02 năm 2016)