VÌ SAO KI-TÔ HỮU NGÀY NAY ÍT QUAN TÂM ĐẾN VIỆC ĐỌC THÁNH KINH?
Aug. Trần Cao Khải
WHĐ (28.1.2021) – Ngày 22-1-2021 vừa qua, trên
trang web Giáo phận Qui Nhơn (gpquinhon.org) có đăng bài viết tựa đề “Sáu lý do người Công giáo nên đọc Thánh Kinh”,
theo đó tác giả đã khẳng định rằng, chỉ cần một trong sáu lý do này là đủ để
thay đổi thói quen của chúng ta. Nhân mở đầu bài này, chúng ta tạm liệt kê tóm
tắt sáu điều nêu trên, như sau:[1]
1.- Thánh
Kinh là Lời Chúa đang nói với chúng ta
2.- Thánh
Kinh chất chứa sự khích lệ
3.- Đọc
Thánh Kinh sẽ giúp chúng ta thành những nhà truyền giáo tốt hơn
4.- Khi đọc
Thánh Kinh chúng ta sẽ tập trung vào những gì thực sự quan trọng
5.- Đọc
Thánh Kinh dạy chúng ta cầu nguyện
6.- Càng đọc
Thánh Kinh, chúng ta càng có thể nghe rõ tiếng Chúa
Xét như vậy chúng ta thấy rằng, việc đọc Thánh
Kinh đối với Ki-tô hữu là một bổn phận rất nên và cần thực hiện mỗi ngày, với
cách thức nào đó tùy theo hoàn cảnh của mỗi người. Lý do đơn giản của việc NÊN
và CẦN đọc Thánh Kinh mỗi ngày là, Thánh Kinh là một trong những cuốn sách có số
độc giả đông nhất và dịch ra nhiều thứ tiếng nhất trên thế giới. Qua Thánh
Kinh, Thiên Chúa ngỏ lời tình yêu cứu độ cho con người. Với Thánh
Giê-rô-ni-mô, ngài còn khẳng định: “Không
biết Thánh Kinh là không biết Chúa Ki-tô”. Vì thế, ngài đã hy sinh suốt cuộc
đời để khám phá và sống trọn vẹn sứ điệp của Lời Chúa.
Trong phạm vi bài viết ngắn này, chúng ta cùng
bàn về ba vấn đề chủ chốt, đó là: 1- Lý
do chúng ta cần đọc Thánh Kinh; 2- Lợi
ích của việc đọc, lắng nghe và suy niệm Lời Chúa; 3- Vì sao ngày nay nhiều người trong chúng ta ít quan tâm việc đọc Thánh
Kinh?
I.- LÝ DO CHÚNG TA CẦN ĐỌC THÁNH KINH
Cách đây một năm, vào sáng ngày 26-1-2020, ĐTC
Phan-xi-cô đã cử hành thánh lễ tại đền thờ thánh Phê-rô nhân ngày Chúa Nhật Lời
Chúa lần thứ nhất. Nhân dịp này, ĐTC khuyến khích các tín hữu đọc và lắng nghe
Lời Chúa để nghe tiếng Chúa mời gọi sám hối thay đổi đời sống mỗi ngày, để Lời
Chúa đưa chúng ta ra khỏi bóng tối và bước vào ánh sáng.[2]
Cũng theo bản tin này, trong bài giảng, ĐTC tập
trung vào sứ vụ rao giảng của Chúa Giêsu. Ngài là Lời của Thiên Chúa, đến trần
gian để nói với chúng ta bằng lời và cuộc sống của Người. Đức Thánh Cha giải
thích 3 điểm: cách thế, nơi chốn và đối tượng của lời rao giảng của Chúa Giêsu.
Đặc biệt, ĐTC đã lưu ý rằng, những người đầu
tiên đón nhận lời Chúa Giê-su giảng dạy là những người đánh cá, những người
không được chọn theo điều kiện khả năng hay đạo đức, nhưng là những người lao động.
Người gọi họ từ cuộc sống của họ, nơi họ ở và như chính họ là, để tham gia vào
sứ mạng của Người. Và họ ngay lập tức bỏ lưới theo Người, bởi vì họ bị thu hút
bởi tình yêu.
ĐTC nhấn mạnh: “Để theo Chúa Giêsu, những việc làm tốt thôi chưa đủ, còn cần lắng nghe
lời mời gọi của Người mỗi ngày. Chỉ có Người, Đấng biết và yêu chúng ta tận thẳm
sâu, giúp chúng ta bước ra biển đời. Do đó chúng ta cần lắng nghe Lời Chúa giữa
hàng ngàn tiếng nói mỗi ngày, chỉ có Lời Chúa không nói với chúng ta những sự
kiện nhưng về sự sống”.
ĐTC đã kết thúc bài giảng bằng lời mời gọi “Hãy
dành chỗ cho Lời Chúa. Mỗi ngày hãy đọc cẩn thận vài câu Kinh Thánh”.
Và ngài khuyên chúng ta luôn có cuốn Kinh Thánh bên cạnh, trên ghế bành ở nhà,
trong túi áo, trên điện thoại. Hãy để Lời Chúa linh hứng cho chúng ta. Chúng ta
sẽ khám phá rằng Thiên Chúa ở gần chúng ta, chiếu sáng bóng đêm của chúng ta, dẫn
dắt chúng ta bằng tình yêu.
Đặc biệt là cuối thánh lễ này, ĐTC đã trao sách
Kinh Thánh cho 40 người đại diện cho các hoàn cảnh sống khác nhau, từ các giám
mục đến linh mục, từ các tín hữu Công giáo đến tín hữu các hệ phái Ki-tô giáo
khác, từ giáo lý viên đến những người tình nguyện, từ hiến binh đến lính Thụy
Sĩ, từ cảnh sát đến quân cảnh, từ bác sĩ đến y tá, người già, người khuyết tật,
vv. Các tín hữu tham dự thánh lễ cũng được nhận mỗi người một cuốn Kinh Thánh.
Nhân đây cũng xin nhắc lại thư Mục Vụ của HĐGMVN
năm 2005 chủ đề “Sống Lời Chúa”,
trong đó giáo huấn đã nhấn mạnh về việc “Tăng cường vai trò ưu tiên của Thánh
Kinh”, như sau:[3]
“Yêu mến
Thánh Kinh không chỉ thể hiện qua việc phổ biến sách Thánh Kinh, mà còn là
siêng năng đọc Lời Chúa trong đời sống và cho đời sống cụ
thể của mình. Nói cách khác, đọc Lời Chúa không những để hiểu về Chúa mà còn để
tìm hướng đi cho cuộc đời. Nhìn
chung, Kitô hữu Việt Nam còn chưa thực sự chú trọng đến việc đọc Thánh
Kinh. Có thể nói, chúng ta rất siêng năng đọc kinh, nhưng còn chưa chú trọng
đến việc đọc và suy niệm Lời Chúa. Thánh Kinh chưa có chỗ đứng xứng đáng trong
các sinh hoạt đạo đức, nhất là trong đời sống gia đình.
“Việc suy
gẫm Lời Chúa ngày càng trở nên quan trọng và cấp bách, nhất là trong một xã hội
đang biến chuyển sâu rộng về mọi phương diện, bởi lẽ Lời Chúa chỉ ra những định
hướng và nền tảng cho đời sống luân lý đạo đức.
“Ước gì Thánh Kinh, nhất là những trang liên hệ đến đời sống mới trong Đức
Kitô, từ Bài Giảng Trên Núi cho đến những lời khuyến thiện trong Thư các thánh
Tông đồ, từ các sách Khôn Ngoan trong Cựu Ước cho đến những lời cảnh tỉnh trong
sách Khải Huyền, thực sự trở thành sức mạnh nâng đỡ và ánh sáng soi đường cho
chúng ta”
Cũng theo thư Mục
Vụ năm 2005, HĐGMVN đã nhấn mạnh rằng: “Phải
mở rộng lối vào Thánh Kinh cho các Kitô hữu (MK 22). Thánh Giê-rô-ni-mô đã
viết: ‘Không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô’ (được trích trong MK 25).
Do đó, bận tâm hàng đầu của chúng tôi là làm sao cho mọi tín hữu có thể tiếp cận
với Lời Chúa, không những trong Phụng vụ mà còn trong đời sống thường ngày. Cụ
thể là:
- Phát động và cổ võ để mỗi gia đình có sách Thánh Kinh, ít là Tân
Ước;
- Tạo cơ hội tôn vinh và suy niệm Lời Chúa, riêng từng cá nhân,
trong gia đình hoặc cộng đoàn;
- Dành vị trí trọng yếu cho Lời Chúa trong các giờ cầu nguyện và
các việc đạo đức;
- Phát huy phương pháp diễn giải phù hợp với từng giới, áp dụng những
hình thức phổ biến Lời Chúa bằng các phương tiện truyền thông hiện đại.”
II.- LỢI ÍCH CỦA VIỆC CHÚNG TA ĐỌC - LẮNG NGHE – SUY NIỆM LỜI
THIÊN CHÚA
Bên cạnh việc đọc Thánh Kinh, chúng ta còn phải
tập trung việc nghe, suy gẫm và thi hành Lời Chúa nữa. Thực tế chỉ ra rằng
chúng ta chỉ “Nghe” Lời Chúa nhiều hơn là “Lắng nghe” Lời Người. Trong khi
“Nghe” thì hời hợt, thoáng qua, lơ đãng, mau quên...thì “Lắng nghe” là thái độ
cần thiết giúp ta nghe Lời Chúa một cách chăm chú, với tất cả tinh thần và tâm
trí của con cái yêu mến Cha mình. Khi lắng nghe Thiên Chúa nói với mình, chúng
ta sẽ khám phá ra điều này, đó là Thiên Chúa không những dạy bảo chúng ta đường
ngay nẻo chính, nhưng còn muốn đối thoại với chúng ta, muốn bộc lộ ý định yêu
thương dành cho chúng ta, và muốn tâm sự với chúng ta nữa.
Vậy lý do nào khiến chúng ta phải siêng năng và
sốt sắng lắng nghe Lời Chúa? Trước hết, Công đồng Vaticanô II, trong Hiến chế
Tín lý về Mạc khải đã viết: “Trong các Sách Thánh, Chúa Cha trên trời bằng
tất cả lòng trìu mến đến gặp gỡ con cái mình và ngỏ lời với họ. Vậy sức mạnh và
quyền năng chứa đựng trong Lời Chúa lớn lao đến độ trở thành điểm tựa đầy năng
lực cho Hội thánh và là sức mạnh của đức tin, lương thực nuôi linh hồn, nguồn sống
thiêng liêng, tinh tuyền và trường cửu cho con cái của Hội thánh” (MK số 21).
Khi đi sâu vào Lời Chúa, chúng ta sẽ thấy trong
đó một kho tàng cực kỳ phong phú, bổ dưỡng và hữu hiệu. Như trong Is 55 Chúa đã
phán: “Hãy lắng tai và đến với Ta, hãy
nghe thì các ngươi sẽ được sống...Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời,
không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi
nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn, thì lời Ta cũng vậy,
một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả,
chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó” (Is
55, 3. 10-11).
Lời Chúa không chỉ là lời nói, chữ viết, thông
điệp suông mà còn là một sức mạnh quyền năng và sống động. Khi tiếp nhận Lời
Chúa với một đức tin chân thành và thái độ khiêm tốn, chúng ta sẽ khám phá
trong đó hàm chứa những nội dung thật phong phú, đa dạng và một khi được Lời
Chúa thấm nhập vào, chúng ta sẽ được bồi dưỡng, tái sinh và biến đổi.
2.1. Lời Chúa là lời mạc khải
Nói về tính chất mạc khải của Lời Chúa, Giáo lý
Hội thánh Công Giáo nhấn mạnh, “Để mạc khải
chính mình cho loài người, Thiên Chúa đã đoái thương dùng ngôn ngữ loài người
mà nói với họ: ‘Lời của Thiên Chúa, diễn đạt bằng ngôn ngữ nhân loại, trở nên
giống tiếng nói loài người, cũng như khi xưa Ngôi Lời của Cha hằng hữu đã trở
nên giống như con người khi mặc lấy xác phàm yếu đuối của chúng ta’ (DV 13).
Qua tất cả các lời ở trong Thánh Kinh, Thiên Chúa chỉ nói có một Lời là Ngôi Lời
duy nhất, trong Người, Thiên Chúa nói hết về mình cho nhân loại (Dt 1, 1-2)”
(số 101-102).
Khi đón nhận Lời mạc khải của Thiên Chúa, tâm
trí chúng ta sẽ được khai mở về một chân trời mới, bao la diệu vợi. Thực vậy, “Chân trời mới quan trọng nhất, mà Lời Chúa
hé mở cho tôi thấy, là tôi có một Người Cha trên trời. Đời sống của tôi là chuyến
đi về Trời để gặp Cha của tôi. Chuyến đi này có vô vàn trắc trở. Tôi phải biết
đón nhận Chúa Cứu độ và ơn Chúa đổi mới tôi. Chân trời này chan chứa tình yêu
thương.”[4]
2.2. Lời Chúa là lời sáng tạo và hành động
Trong Cựu Ước, Lời Chúa là lời sáng tạo. Chỉ một
lời Chúa phán mà vũ trụ, trời đất, vạn vật, con người được tạo dựng (x. St 1,
3-26).
Lời Chúa cũng bao hàm quyền năng hành động. Thực
vậy, “Chỉ một lời, Đức Giê-su hoàn tất các phép lạ là những dấu chỉ của Vương
Quốc Thiên Chúa (Mt 8, 8. 16; Ga 4, 50-53). Cũng chỉ một lời, Ngài hoàn tất nơi
các tâm hồn những hiệu quả thiêng liêng mà các phép lạ này biểu tượng, như sự
tha thứ tội lỗi (Mt 9, 1-7 ss). Chỉ một lời, Ngài thông ban quyền năng của mình
cho Nhóm Mười Hai (Mt 18, 18; Ga 20, 23) và thiết lập những dấu chỉ của Giao ước
mới (Mt 26, 26-29 ss). Như thế, trong Ngài và qua Ngài, Lời sáng tạo hành động,
thực hiện sự cứu rỗi ở trần gian.”[5]
Lời Chúa là một hiện thực sống động, vì thế khi
chúng ta chăm chú lắng nghe và để cho Lời ấy thẩm thấu vào tâm trí mình thì bản
thân mình sẽ được biến đổi. Sẽ xảy ra một cuộc sáng tạo mới, một cuộc tái sinh
nhờ Lời Chúa trong Đức Giê-su Ki-tô. “Vì
anh em đã được tái sinh, không phải do hạt giống mục nát, mà do hạt giống bất
diệt, nhờ Lời Thiên Chúa hằng sống và tồn tại mãi mãi... Lời Chúa vẫn tồn tại đến
muôn Thuở muôn đời. Đó chính là Lời đã được loan báo cho anh em như một Tin Mừng
” (1Pr 1, 23. 25).
2.3. Lời Chúa đem lại niềm vui và sự sống
Trong Cựu Ước, Lời Chúa luôn là niềm vui của vị
ngôn sứ. Chẳng hạn, “Gặp được Lời Chúa,
con đã nuốt vào, lời Ngài làm cho con hoan hỷ, làm vui thỏa lòng con, vì con được
mang danh Ngài, lạy Đức Chúa, Thiên Chúa các đạo binh” (Gr 15, 16). Lời
Chúa cũng đem lại sự sống cho những ai lắng nghe và tin vào Người. Các môn đệ
đi theo Chúa Giê-su đã nhận ra rằng Lời Chúa có khả năng đem lại cho kẻ tin sự
sống viên mãn, đời đời. Như lời tuyên tín của tông đồ Phê-rô: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với
ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6, 68).
Đối với các tín hữu thời Tân ước thì Lời Chúa chẳng
những là sứ điệp mạc khải từ Thiên Chúa, nhưng còn là chính bản thân Đức Giê-su
Ki-tô, Ngôi Lời nhập thể làm người. Khi lắng nghe Lời Chúa chính là lúc chúng
ta chấp nhận đi vào tương quan mật thiết với Chúa Ki-tô, Đấng là đường, là sự sống
và là sự thật. Như Chúa đã khẳng định: “Thật,
tôi bảo thật các ông: ai nghe lời tôi và tin vào Đấng đã sai tôi, thì có sự sống
đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống” (Ga 5,
24); “Nếu anh em ở lại trong Thầy và lời
Thầy ở lại trong anh em, thì muốn gì anh em cứ xin, anh em sẽ được như ý”
(Ga 15,7).
2.4. Lời Chúa là lời yêu thương, vỗ về, ủi an
Lắng nghe và đi sâu vào Lời Chúa, chúng ta sẽ thấy
Lời Chúa thật ngọt ngào dịu êm. Lời Chúa luôn đem lại yêu thương và thúc giục
yêu thương. Lời Chúa như tấm lòng người mẹ hiền, luôn gần gũi con cái để vỗ về ủi
an. “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh
nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy
ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn
anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng”
(Mt 11, 28-30). Thánh sử Gio-an cũng đã nhắc lại lời của Đức Giê-su: “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu
thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em ” (Ga 15,12). Thánh Phao-lô trong
thư Roma đã quả quyết: “Quả thế, mọi lời
xưa đã chép trong Kinh Thánh, đều được chép để dạy dỗ chúng ta. Những lời ấy
làm cho chúng ta nên kiên nhẫn, và an ủi chúng ta, để nhờ đó chúng ta vững lòng
trông cậy” (Rm 15, 4).
2.5. Lời Chúa có sức chữa lành và hoán cải
Trong lịch sử Hội thánh, có khá nhiều Ki-tô hữu
trở nên những vị thánh nổi tiếng nhờ tác động kỳ diệu của Lời Chúa. Tác động hướng
dẫn và hoán cải.
Trường hợp thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê: “Thánh Phanxicô sinh năm
1506 tại miền xaviê thuộc địa phận Pampelune nước Tây Ban Nha trong một gia
đình giàu sang, quyền quí, vị vọng. Thánh nhân có trí thông minh đặc biệt, nên
vào năm Ngài lên 19 tuổi, cha mẹ ngài gửi ngài qua Paris để tiếp tục công việc
đèn sách. Tám năm sau đó, ngài tốt nghiệp đại học và trở thành giáo sư danh tiếng
tại nước Pháp. Thánh nhân lúc đó miệt mài chạy theo danh vọng trần tục. Ngài
coi trần gian là tất cả. Nhưng ý Chúa nhiệm mầu, cao sâu, huyền bí nào ai hiểu
nổi. Một lời của Chúa đã khiến Phanxicô
thay đổi tất cả: Ðược lời lãi cả và thế
gian mà mất linh hồn nào được ích gì ?’. Chúa đã dùng miệng lưỡi của
thánh Ignatiô cũng là thầy dạy ngài để nói lên điều đó. Chính lời Chúa đã biến
đổi cuộc đời của ngài tận căn. Chúa đã chiếm đoạt con tim của ngài toàn vẹn.
Thánh nhân đã trở thành khí cụ bình an đem Tin Mừng cho người Á Châu...”[6]
Trường hợp của thánh nữ Tê-rê-xa HĐ Giê-su: “Có những
người sống thánh chỉ nhờ lời Chúa hướng dẫn, chẳng hạn Têrêxa Hài Đồng Giêsu.
Thánh nữ viết: ‘Trong Phúc âm, tôi tìm được tất cả những gì cần thiết cho tâm hồn
bé nhỏ đáng thương của tôi. Tôi luôn tìm thấy ở đó những ánh sáng mới, những ý
nghĩa ẩn giấu và mầu nhiệm…Nhờ kinh nghiệm, tôi hiểu và biết rằng ‘Nước Thiên Chúa ở giữa chúng ta’ (Lc 17,21).
Đức Giêsu không cần sách vở, cũng không cần các tiến sĩ để dạy dỗ các tâm hồn.
Chính Ngài là vị tiến sĩ lớn nhất, Ngài giảng dạy không cần những lời ồn ào’. Khi lần lượt đọc các chương 12 và 13 của
thư thứ nhất Corintô, thánh nữ đã khám phá ra ơn gọi sâu xa, và vui mừng thốt
lên là mình sẽ trở thành tình yêu trong Nhiệm thể Đức Kitô.”[7]
2.6. Lời Chúa là lời soi sáng và dạy dỗ
“Lời Chúa
là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 119, 105).
Khi tiếp xúc Lời Chúa, chúng ta khám phá ra rằng Lời Chúa chính là nguồn sáng
giúp soi sáng chúng ta trong đời sống đức tin này.
Những lúc chúng ta rơi vào tình trạng tăm tối,
khốn cùng nhất thì lúc đó Lời Chúa sẽ là nguồn sáng dẫn ta ra khỏi chốn u mê, lầm
lạc, chết chóc. Đức Giê-su nói với người Do thái: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối,
nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8, ).
Những lúc chúng ta lo lắng về cuộc sống này, thì
có tiếng Chúa bên tai ta nhắc nhở ta về việc tin tưởng vào Chúa quan phòng (x.
Mt 6, 25-34).
Những lúc chúng ta chạy theo đam mê tiền bạc của
cải trần gian, thì có tiếng Chúa nhắc bảo chúng ta về việc phải tích trữ cho
mình kho tàng bền vững trên trời (x. Mt 6, 19-21).
Những lúc dường như cuộc đời mất phương hướng,
chúng ta rơi vào tình trạng tuyệt vọng, chán nản cùng cực. Khi đó Lời Chúa bỗng
xuất hiện trong tâm trí ta: “Anh em hãy
vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh
em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Ki-tô Giê-su” (1Tx
5, 16-18); “Anh em đừng lo lắng gì cả.
Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà
giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện” (Pl 4, 6).
2.7. Lời Chúa chứa đựng chân lý và sự thật
Chúng ta luôn xác tín một điều quan trọng này
là, Lời Chúa chứa đựng sự thật tuyệt hảo. Bởi chính Chúa Giê-su đã khẳng định:
“Chính Thầy là con đường, là sự thật và
là sự sống” (Ga 14, 6); “Xin Cha lấy
sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật” (Ga 17, 17). Thiên Chúa là sự
thật, là chân lý cho nên những lời của Người cũng là chân lý và sự thật.
Khi tiếp nhận Lời Chúa, chúng ta vững tâm, tin
tưởng rằng mình không sai lạc, lầm đường. Sự thật có sức mạnh giải phóng chúng
ta, như thánh sử Gioan đã ghi lại: “Đức
Giê-su nói với những người Do-thái đã tin Người: ‘Nếu các ông ở lại trong lời của
tôi, thì các ông thật là môn đệ tôi; các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải
phóng các ông’ ” (Ga 8, 31-32). Sự thật chứa đựng trong Lời Chúa sẽ đem lại
tự do và bình an. Đó là ơn huệ của Thần khí mà chỉ có những ai tin tưởng và thuộc
về hàng ngũ con cái Thiên Chúa mới có được.
Tóm lại, chúng ta có đủ lý do để xác tín rằng việc
đọc Thánh Kinh, việc lắng nghe và suy gẫm Lời Chúa là tối cần thiết đối với đời
sống đức tin của người Ki-tô hữu, vì nếu chúng ta lơ là điều này, thì chứng tỏ
mình chưa phải là môn đệ của Chúa.
III.- TẠI SAO ÍT NGƯỜI CÔNG GIÁO QUAN TÂM VIỆC ĐỌC THÁNH
KINH?
Có thể nói, ngày nay hầu hết các tín hữu Công
Giáo chúng ta đều giữ đạo khá chu đáo nhưng lại ít quan tâm đến việc đọc và học
Thánh Kinh, cũng như suy gẫm Lời Chúa hằng ngày, coi đó như bổn phận trọng yếu
của mình. Đó là một thực trạng khiến cho chúng ta phải suy nghĩ và thúc đẩy ta
tìm ra những giải pháp thích hợp nhằm cải thiện tốt tình hình đáng quan tâm
này.
3.1. Thực trạng Ki-tô hữu một vài nơi đối với việc đọc Thánh
Kinh
Trong bài viết có tựa đề “Tại sao ít người đọc Kinh Thánh?”, tác giả trang
vietcatholicsydney.net đã đưa ra một số thông tin và những con số thống kê đáng
lưu ý tại Mỹ về việc đọc Thánh Kinh, như sau:[8]
“Trong một thế giới ngày càng bị tục hóa, quyển
Thánh Kinh vẫn có mặt và không phải chỉ dành cho các tín hữu ngoan đạo nhất. Ở
Mỹ, trong các phòng ở khách sạn vẫn còn để quyển Thánh Kinh trong ngăn kéo ở
bàn đầu giường.
Dù vậy, trong một nghiên cứu gần đây của văn phòng Nghiên Cứu Lối Sống
(LifeWay Research) ở Mỹ, hơn một nửa dân số Mỹ chưa bao giờ đọc hoặc rất ít khi
đọc Thánh Kinh. Nghiên cứu còn cho biết: “Dưới một phần tư những người đọc
Thánh Kinh biết đọc một cách có hệ thống. Trong khi có đến một phần ba không có
thói quen mở ra đọc”.
“Ông Scott McConnell, giám đốc trung tâm nghiên
cứu Lối Sống (LifeWay) cho biết: Đa số
người Mỹ thật sự không biết có gì trong quyển Thánh Kinh, vì họ gần như không
bao giờ mở sách ra. Ông giải thích: Trong
số những người giữ đạo thường xuyên, chưa đến một nửa đọc Thánh Kinh mỗi ngày.
Văn phòng Lối Sống dò hỏi 1000 người Mỹ về tương
quan của họ với Thánh Kinh, thì kết quả là 10% chưa bao giờ đọc, 13% đọc được
vài câu, 30% đọc một vài đoạn hay một vài câu chuyện trong Thánh Kinh. Trong
khi có 1 phần 5 người Mỹ đọc hết quyển Thánh Kinh ít nhất một lần. Con số này gồm
11% người đọc trọn Thánh Kinh một lần, 9% đọc nhiều lần, 12% đã đọc gần như trọn
quyển và 15% đọc ít nhất được một nửa.
Nhưng theo Stephen J. Binz, tác giả của một loạt
sách về nghiên cứu Thánh Kinh, thì đó không phải là chuyện thiết yếu. Quan trọng
là chất lượng chứ không phải số lượng Ông nhận xét : Sự thông hiểu Lời Chúa để biến đổi con người không tùy thuộc vào số lượng.
Nó tùy thuộc vào chất lượng nhiều hơn, dựa trên các phương pháp mà Giáo hội
mang lại cho chúng ta. Đọc một hay nhiều lần không quan trọng. Đó không phải là
chuyện mang lại sự gặp gỡ giữa chúng ta với Lời Chúa.
“Mọi cách đọc Thánh Kinh sẽ không hoàn hảo nếu
nó không đưa chúng ta đến cầu nguyện. Thời gian đọc Thánh Kinh trở thành một cuộc
đối thoại, qua đó chúng ta nghe tiếng Chúa trong bản văn, và chúng ta đáp lại
Ngài trong lời cầu nguyện và qua cuộc sống được biến đổi.”
Bài báo trên cũng đưa ra một vài con số đáng lưu
ý như sau:
“Cuộc nghiên cứu của trung tâm Lối Sống đưa ra một
số lý do, theo đó vào khoảng 27% số người Mỹ không đọc Thánh Kinh vì không cho
đó là chuyện ưu tiên, 15% không có thì giờ, 13% nói là đã đọc đủ, 9% không đọc
một cách chung, 9% cho rằng Kinh Thánh không phải dành cho họ, 6% không có
Thánh Kinh, 10% không đồng ý với nội dung của Thánh Kinh.
Và đây là một số kết quả khác của cuộc nghiên cứu:
22% đọc Thánh Kinh mỗi ngày, một cách có hệ thống, 35% không bao giờ mở sách
ra, 30% đọc khi họ cần, 19% đọc thường xuyên những đoạn mình thích, 17% mở tình
cờ và đọc đoạn trước mặt, 27% đọc những đoạn người khác khuyên đọc, 16% đọc để
giúp người khác.
Người Tin Lành (36%) có thói quen đọc Kinh Thánh
mỗi ngày hơn là người Công Giáo (17%). Người Mỹ nào càng đi nhà thờ thì họ càng
có khuynh hướng đọc Thánh Kinh mỗi ngày, phụ nữ đọc Kinh Thánh nhiều hơn đàn
ông, 35% cho rằng Thánh Kinh thay đổi đời
họ, 36% cho rằng đó là sự thật, 52% cho rằng Thánh Kinh là nguồn của các giá trị
đạo đức, 14% nghĩ rằng Thánh Kinh đã lỗi thời…”
Đó là chuyện ở bên nước Mỹ, còn tại Việt Nam thì
sao?
Hiện nay có lẽ chưa có một cuộc khảo sát sâu rộng
nào để tìm hiểu việc đọc Thánh Kinh của tín hữu Việt Nam, do đó mà chưa có một
thống kê cụ thể nào nói lên thực trạng này. Dù sao HĐGMVN qua thư Chung năm
2005 về chủ đề “Sống Lời Chúa” đã lưu
ý một cách khái quát đến thực trạng Ki-tô hữu chưa quan tâm việc đọc Thánh
Kinh, như sau:
“Nhìn chung, Kitô hữu Việt Nam còn chưa
thực sự chú trọng đến việc đọc Thánh Kinh. Có thể nói, chúng ta rất siêng
năng đọc kinh, nhưng còn chưa chú trọng đến việc đọc và suy niệm Lời Chúa.
Thánh Kinh chưa có chỗ đứng xứng đáng trong các sinh hoạt đạo đức, nhất là
trong đời sống gia đình.” (số
8)
Sự phổ biến và tầm ảnh hưởng của Thánh Kinh thì
chúng ta ai cũng biết cả rồi. Tuy nhiên, xét phạm vi cá nhân mỗi tín hữu thì liệu
cuốn Thánh Kinh đã trở thành vật bất ly thân chưa? Như lời mời gọi của ĐTC
Phan-xi-cô: “Hãy dành chỗ cho Lời Chúa. Mỗi ngày hãy đọc cẩn thận vài câu Kinh Thánh”.
Và ngài cũng khuyên chúng ta luôn có cuốn Kinh
Thánh bên cạnh, trên ghế bành ở nhà, trong túi áo, trên điện thoại. Hãy để Lời
Chúa linh hứng cho chúng ta. Chúng ta sẽ khám phá rằng Thiên Chúa ở gần chúng
ta, chiếu sáng bóng đêm của chúng ta, dẫn dắt chúng ta bằng tình yêu.
Tuy vậy, trên thực tế, có lẽ trong các tín hữu
chúng ta, nhiều người chưa từng chạm tay đến một cuốn Thánh Kinh. Trong khi từng
giây từng phút kè kè bên họ là chiếc smartphone hiện đại. Vậy thì làm sao họ biết
đến Chúa Ki-tô?
Cũng có người, một cách nào đó, đã có dịp tiếp
xúc với Thánh Kinh nhưng chưa một lần mở ra đọc và suy gẫm. Trong khi họ mất
hàng giờ để theo dõi chương trình giải trí trên TV hay trò chuyện trên mạng. Vậy
thì làm sao họ có thể nghe được Lời Chúa nói với chúng ta, có thể thu hút bởi
tình yêu của Chúa, có thể hoán cải nhờ tác động kỳ diệu của Lời Hằng Sống nói với
chúng ta thông qua Thánh Kinh?
Cũng có nhiều trường hợp chúng ta mở Thánh Kinh
ra đọc, nhưng rồi mất tập trung, đầu óc phân tán, chúng ta không đủ kiên nhẫn
và bình tâm để nghe Chúa nói và để Lời Chúa thấm nhập vào tâm hồn mình. Và
chúng ta bỏ cuộc.
Cũng có người thỉnh thoảng mở Thánh Kinh ra đọc
nhưng đọc một cách thụ động, tò mò hơn là đọc và suy gẫm bằng sự lắng nghe Lời
Chúa nói với mình, để đón nhận sự sống giữa muôn ngàn tiếng nói của thế tục, trần
gian.
Vậy để tìm ra nguyên nhân của những thái độ
trên, “Chúng ta phải thừa nhận rằng, phần không nhỏ các tín hữu Công giáo ít
khi dự một chương trình đào tạo liên quan đến những vấn đề như phương pháp đọc
Thánh Kinh; hoặc có người gợi ý những câu hỏi, những đề tài để giúp họ suy niệm
Lời Chúa.
“Vì vậy, họ không biết phải bắt đầu từ đâu, hệ lụy
là đôi khi họ đọc Lời Chúa nhưng không mấy khi nhận ra Lời Chúa là lời ngỏ với
chính bản thân. Sau nữa, có những người nghe Lời Chúa, nhưng lại nghĩ Lời Chúa
nói cho người khác, cho tập thể chứ không phải cho mình, chính vì thế không có
được sự gặp gỡ cá vị với Chúa. Vì vậy, họ không thường xuyên tìm đọc Thánh Kinh
để sống tương quan mật thiết với Chúa.”[9]
3.2. Những lý do chính khiến các Ki-tô hữu ngày nay ít quan
tâm việc đọc Thánh Kinh.
Trong phạm vi bài viết này, xin mạn phép đưa ra
3 lý do chính khiến các tín hữu Công Giáo ngày nay ít quan tâm đến việc đọc
Thánh Kinh. Đó là: 1- Nhận thức chưa đúng
về vai trò của Thánh Kinh trong đời sống đức tin; 2- Kiến thức về Thánh Kinh còn rất hạn chế; 3- Lối giữ đạo còn tập trung vào luật lệ, nghi lễ và kinh kệ.
3.2.1. Nhận thức chưa đúng về vai trò của Thánh
Kinh trong đời sống đức tin
Mỗi khi nghe đọc xong bài Sách Thánh hay nghe
công bố xong một đoạn Tin Mừng, chúng ta mạnh mẽ đáp lại câu xướng “Đó là Lời
Chúa” bằng câu đáp “Tạ ơn Chúa!” hay
“Lạy Chúa Ki-tô, ngợi khen Chúa!”. Đó
là theo nghi thức bên ngoài và theo thói quen sẵn có, còn tự thâm tâm ta, sự lắng
nghe và để cho Lời Chúa thấm vào tâm hồn mình thì không biết được bao nhiêu phần
trăm?…
Sự xác tín về Lời Chúa phải bắt nguồn từ nhận thức
“Đó là Lời Chúa”, một sự thánh thiêng
mà chúng ta phải kính cẩn đón nhận như lãnh nhận Thánh Thể Chúa vậy. Thánh Kinh
không phải là cuốn sách để nghe hay để đọc cho vui, nhưng là cơ hội giúp ta “tiếp
xúc” với Thiên Chúa để đón nhận sự sống thần linh.
Thực vậy, “Bộ Kinh Thánh không phải chỉ nói cho
loài người biết về Chúa, mà sách còn là cách thế Chúa dùng để bày tỏ ý muốn cứu
rỗi loài người, và thông ban bản thân Người cho chúng ta. Vì vậy đọc Kinh Thánh
vừa để biết Chúa vừa để lĩnh sự sống thần thiêng Chúa ban. Đó cũng là cách thế
người phàm được gặp gỡ thân mật với Chúa.”[10]
Nhiều người trong chúng ta, nhất là người lớn tuổi,
vẫn coi Thánh Kinh là sách viết về những câu chuyện đạo, nghe cho biết và đọc
vì tò mò. Còn lắng nghe, đọc, suy, sống…thì ít ai quan tâm.
Linh mục An-rê Đỗ Xuân Quế, OP, trong bài viết tựa
“Phải đọc Kinh thánh thế nào?”, đã nêu
ra vấn đề như sau:
“Nói đến Kinh Thánh với người lớn tuổi, thường
người ta nhớ lại những chuyện trong sách Sấm Truyền cũ. Hồi ấy, Kinh Thánh chưa
được dịch sang tiếng bản quốc và phổ biến rộng rãi. Thường là mấy cuốn sách kể
các tích chuyện trong Kinh Thánh được trình bày với những tranh vẽ ngây ngô
nhưng hấp dẫn. Vì vậy, người ta mới đồng hóa những chuyện này với các sách chuyện
dành cho trẻ con, như các sách vẽ tranh hoạt hình của Walt Disney dành cho thiếu
nhi bây giờ. Nhưng Sách Thánh không chỉ kể
những tích chuyện mà đàng sau còn có ý nghĩa nữa. Đó mới là điều quan trọng vì
những chuyện ấy bày tỏ cho chúng ta ý định của Thiên Chúa trong chương trình cứu
độ của Người.”[11]
Có lẽ chúng ta nghĩ rằng, Thánh Kinh là cuốn
sách được thêm vào trong đời sống đức tin, có hay không cũng không quan trọng.
Thực ra, chúng ta cần nhận thức rằng, “Khi
đọc Thánh Kinh chúng ta sẽ tập trung vào những gì thực sự quan trọng. Điều
gì sẽ xảy ra nếu chúng ta dùng thời gian đọc Thánh Kinh để xem tin tức, nghe nhạc
hoặc lướt các trang mạng xã hội? Đời sống Kitô giáo cơ bản là một cuộc đấu
tranh để nắm giữ Chúa ở trung tâm của đời sống và tập trung vào những điều quan
trọng. Đọc Thánh Kinh thường xuyên, giúp chúng ta đương đầu với cuộc sống theo
cái nhìn của Thiên Chúa ngay lúc đầu, để tránh những điều đang lôi kéo sự chú ý
của chúng ta nhưng thực ra thì không quan trọng.”[12]
Linh mục An-tôn Nguyễn Cao Siêu S.J, trong bài
viết có tựa “Giáo dân học hỏi Kinh Thánh”,
đã làm rõ vấn đề, như sau:
“Có thể nói Giáo hội Công Giáo từ hơn 50 năm nay
đã không ngừng muốn cho mọi giáo dân có cơ hội học hỏi Kinh Thánh dưới nhiều
hình thức. Phải nhìn nhận rằng đây không phải là điều dễ dàng. Người Công Giáo
Việt Nam quen đọc kinh lần chuỗi và thực hành những hình thức đạo đức khác. Có
người giáo dân nghĩ rằng việc học Kinh Thánh là điều khó, là việc dành riêng
cho các linh mục tu sĩ, chính vì thế họ sợ tiếp cận với Sách Thánh. Có người
không thấy hứng thú khi đọc Lời Chúa, nên cuốn Tân Ước vẫn nằm yên một chỗ. Có
nhóm thích chia sẻ Lời Chúa, nhưng lại không thấy cần tìm hiểu xem bản văn Lời
Chúa thật sự muốn nói gì.
Kinh Thánh là Lời của Thiên Chúa. Đức Giêsu đã lấy
sách Đệ-nhị-luật để nói với tên cám dỗ trong hoang địa: ‘Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên
Chúa phán ra’ (Đnl 8,3). Người Công Giáo chẳng những được nuôi bằng bàn tiệc
Mình Chúa mà còn bằng bàn tiệc Lời Chúa nữa (DV 21). Thiếu một trong hai, là đặt
mình trong tình trạng thiếu thốn.
Chúng ta đã có nhiều hình thức biểu lộ sự kính
trọng đối với Bí Tích Thánh Thể như dọn mình rước lễ, rước kiệu hay chầu Mình
Thánh Chúa. Điều đó là tốt, nhưng Công Đồng Vaticanô II nhắc chúng ta: ‘Giáo
Hội đã luôn luôn tôn kính Kinh Thánh như đã tôn kính chính Thánh Thể Chúa’
(DV 21). Làm sao bày tỏ sự tôn kính đối với
Kinh Thánh nếu không phải là cầm lấy sách Thánh mà đọc, nghiền ngẫm, tìm hiểu ý
nghĩa, cầu nguyện với sách Thánh bằng cách suy niệm hay chiêm niệm, và cuối
cùng là thực hành Lời Chúa? Có người bảo nếp sống đạo của người Việt còn hời
hợt, hình thức, chưa có bề sâu, chưa có nền vững. Điều đó có đúng không? Dựa
vào Công Đồng, ta có thể tìm thấy câu trả lời: ‘Toàn thể việc rao giảng trong
Giáo Hội cũng như chính nếp sống đạo của người Kitô hữu phải được Kinh Thánh
nuôi dưỡng và hướng dẫn’ (DV 21). Chúng ta đã quá quen với câu này: “Lời
Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 118,105), nhưng quả thật nhiều người Công giáo ở Việt
Nam vẫn còn xa lạ với Lời Chúa.
Để thân quen với Lời Chúa, chúng ta cần dành thời gian để học hỏi. Kinh Thánh là một bộ sách cổ,
được viết trong nhiều thế kỷ. Ngay bộ Tân Ước cũng đã cách xa chúng ta gần hai
ngàn năm. Các tác giả Sách Thánh là những người Do-thái sống trong những thời đại
lịch sử khác nhau, sống trong nền văn hóa, xã hội và phụng tự khác chúng ta. Chính
vì thế chúng ta không ngạc nhiên khi gặp những đoạn văn khó hiểu và thậm chí
gây sốc trong Kinh Thánh. Vô tri bất mộ, để có ‘lòng yêu mến nồng nàn và
sống động đối với Kinh Thánh’ (Hiến Chế về Phụng Vụ số 14) người giáo dân cần học hỏi không ngừng qua các bài dẫn nhập, các sách
chú giải, và những khóa học.”[13]
3.2.2. Kiến thức về Thánh Kinh còn rất hạn chế
Có thể nói, phần đông Ki-tô hữu chúng ta còn rất
mù mờ về Thánh Kinh. Một phần do chủ quan chúng ta nghĩ rằng đọc kinh, xem lễ,
nghe giảng…thế là đủ, còn việc học, đọc Thánh Kinh và suy gẫm Lời Chúa là việc
của các linh mục, tu sĩ. Từ cách nghĩ đó mà phần đông chúng ta không sắm cho cá
nhân mình hay ít ra cho gia đình mình một cuốn Thánh Kinh trọn bộ Tân và Cựu Ước,
để đọc riêng hay đọc chung, để suy gẫm Lời Chúa. Ngoài ra, chúng ta cũng không
tìm đọc những tài liệu hướng dẫn về cách đọc Thánh Kinh sao cho đúng, cho hiệu
quả. Bên cạnh đó, có thể chúng ta đã bỏ qua nhiều cơ hội để tham gia các lớp
Giáo Lý Kinh Thánh được mở ra cho các thành phần Dân Chúa, cấp giáo xứ hay giáo
phận…
Đó là nói qua về phía chủ quan các tín hữu. Còn
phía giáo quyền, mức độ quan tâm có lẽ cũng còn giới hạn. Thử hỏi, trong phạm
vi giáo xứ, có mấy nơi tổ chức các lớp giáo lý hay lớp bồi dưỡng Thánh Kinh cho
người trưởng thành? Có mấy nơi phát động phong trào “Mỗi gia đình một cuốn
Thánh Kinh”? Có mấy nơi mục tử đích thân đến các gia đình để đọc kinh tối và
giúp chia sẻ Lời Chúa? Có mấy nơi quy tụ những nhóm nhỏ để giúp nhau học hỏi và
chia sẻ Lời Chúa? vv…
Các câu hỏi có lẽ còn nhiều và giáo dân chúng ta
chờ đợi câu trả lời từ phía giáo quyền và các mục tử chăn dắt đời sống thiêng
liêng của tín hữu.
3.2.3. Lối
giữ đạo của đa số tín hữu còn tập trung vào luật lệ, nghi lễ và kinh kệ
Ở trên chúng ta cũng đã đề cập sơ qua đến việc
phần đông tín hữu chúng ta vẫn còn duy trì cách giữ đạo theo thói quen tập
trung nhiều vào nghi lễ, luật lệ và kinh kệ, trong khi việc đọc-học-suy gẫm
Thánh Kinh thì chúng ta lại ít quan tâm. Đây là một lỗ hổng lớn trong đời sống
đức tin của nhiều người.
Chúng ta thử hình dung, đa số giáo dân chúng ta,
nhất là các bạn trẻ, mỗi tuần tham dự thánh lễ Chúa Nhật một lần, nên chỉ được
nghe Lời Chúa một lần trong phần Phụng Vụ Lời Chúa và qua việc nghe giảng lễ của
linh mục. Nếu chúng ta tập trung hiệp thông thánh lễ, tích cực theo dõi, lắng
nghe Lời Chúa và nếu bài giảng đạt chất lượng cao thì chúng ta đã được hưởng lợi
ích thiêng liêng phần nào rồi. Nhưng nếu chúng ta lơ là, không quan tâm, tham dự
thánh lễ một cách máy móc, chiếu lệ…thì coi như mọi sự xem ra vô ích và uổng
công!
Chúng ta nhận thấy rằng, đời sống đức tin của
nhiều Ki-tô hữu bị ảnh hưởng không ít bởi các hiện tượng tục hóa và do nhu cầu
“cơm áo gạo tiền” chi phối. Một tuần chỉ tham dự thánh lễ một lần, hằng ngày
không có thời gian quy tụ để đọc kinh và chia sẻ Lời Chúa trong gia đình. Rất
nhiều người cũng không có thời gian tham gia các hội-đoàn-nhóm trong giáo xứ để
có cơ hội làm việc đạo đức và tham gia học hỏi Lời Chúa. Thậm chí có nhiều người
đến nhà thờ tham dự thánh lễ Chúa Nhật, thì chỉ muốn “đi trễ về sớm”, tìm chỗ
bên ngoài nhà thờ để đứng ngồi thoải mái, mát mẻ, lại có không ít người ngồi
trên xe hút thuốc hay chuyện trò, cũng có người lấy điện thoại ra vào facebook
xem, nghe và liên lạc với ai đó vv…
Chúng ta thử dò hỏi các bạn trẻ Công Giáo xem
ngày nay họ thích đọc Thánh Kinh, say mê nghe Lời Chúa hay là ghiền mạng xã hội
hơn, thì câu trả chắc là thiên về mạng xã hội hơn. Điều đó chứng tỏ rằng Thánh
Kinh và Lời Chúa chưa có sức hút mạnh mẽ khiến cho chúng ta phải thay đổi sự chọn
lựa ưu tiên cho mình. Thiết nghĩ, ngay bây giờ chúng ta phải có can đảm vượt
qua ranh giới từ “giữ” Đạo đến “sống” Đạo, đặc biệt trong các việc đạo đức phải
chọn vị trí ưu tiên cho Lời Chúa trong Thánh Kinh. Khi tiếp xúc trực tiếp với Lời
Chúa, chúng ta sẽ được tiếp nhận sự sống mới, sự sống thần linh diệu vợi, nhờ
đó Lời Chúa có tác động mãnh liệt biến đổi con người và cuộc sống ta nên giống
Chúa Ki-tô.
Mỗi người trong chúng ta đều mang danh Ki-tô hữu,
tức là “người-có-Đức-Kitô”. Tức là chúng ta đang sống sự sống của Đức Ki-tô và
ta có thể tự hào nói như thánh Phao-lô, “Tôi
sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl
2,20). Vì thế, tất cả con người và cuộc sống của chúng ta phải lấy Chúa làm mẫu
gương và phản ánh hình ảnh Chúa trước mặt người khác. Chúa đã nói: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em
trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,18).
Chúng ta noi gương Chúa là để làm chứng nhân cho Chúa và làm chứng tá Tin Mừng của Ngài. Thông qua con người và cuộc sống Ki-tô hữu chúng ta, mọi người thấy được ánh sáng Tin Mừng của Chúa, biết rõ bản chất đích thực của đạo Chúa và có thể cảm nhận được vinh quang Thiên Chúa ngay trong cuộc sống dương thế này. ĐTC Phao-lô VI đã nhấn mạnh vai trò và giá trị của đời sống chứng nhân trong việc loan báo Tin Mừng, như sau: “Người thời nay tin vào các chứng nhân hơn là thầy dạy, và nếu họ có tin vào thầy dạy là vì các thầy dạy ấy đã là những chứng nhân”./.