GIẢI ĐÁP THẮC MẮC CHO NGƯỜI TRẺ CÔNG GIÁO
VẤN ĐỀ “THEO ĐẠO RỒI MỚI CHO CƯỚI”
Pr. Lê Hoàng Nam, SJ
Câu hỏi:
Con hay nghe các bạn không
cùng tôn giáo than phiền bên Công Giáo: “Sao cứ phải bắt người ta theo đạo mới
cho cưới”. Có phải người Công Giáo bắt buộc người bên lương phải theo đạo khi kết
hôn?
Trả lời:
Nhiều người vẫn
hay đặt đâu hỏi tại sao đạo Công Giáo cứ bắt người không có đạo phải theo đạo
Công Giáo rồi mới cho cưới. Thật ra, Giáo Hội không bắt buộc ai phải theo đạo cả.
Thuật ngữ “theo đạo” mà dân gian hay dùng là để ám chỉ đến việc lãnh nhận Bí
tích Thanh Tẩy và trở thành thành viên của Giáo Hội. Nói chính xác hơn, nó là
việc một người lãnh nhận hồng ân đức tin ngang qua các bí tích và được tháp nhập
vào sự sống mới của Đức Kitô. Nhưng vì đức tin là một hồng ân của Thiên Chúa,
và đòi hỏi nơi người nhận lãnh một sự tự nguyện, nên sự cưỡng ép hay bắt buộc
trở nên vô nghĩa và ấu trĩ. Người nào đó, dù đồng ý lãnh nhận Bí tích Thanh Tẩy,
nhưng chỉ vì muốn lập gia đình, không hề có một chút ý thức và khao khát sống đức
tin thì chỉ mang danh nghĩa là Kitô hữu trên giấy tờ chứ không phải là một Kitô
hữu đích thực.
Tại sao các bậc cha mẹ Công Giáo luôn muốn con cái
mình lập gia đình với người Công Giáo?
Cha mẹ nào cũng
lo cho con cái. Vì xuất thân từ môi trường Công Giáo, cha mẹ sẽ có một sự tin
tưởng dành cho những bạn trẻ nào cũng được nuôi dưỡng và lớn lên trong môi trường
đó. Họ sẽ yên tâm hơn khi gửi gắm con cái của mình cho một gia đình Công Giáo.
Nếu hai bên thông gia đều Công Giáo thì sẽ dễ dàng có cùng quan điểm, lối sống,
cách bảo ban, dạy dỗ con cháu.
Ngoài ra, tuy tôn
giáo không phải là yếu tố duy nhất quyết định hạnh phúc của lứa đôi, nhưng nếu
họ cùng chia sẻ với nhau một niềm tin tôn giáo, đời sống chung cũng sẽ thuận lợi
hơn rất nhiều. Môi trường Công Giáo là một môi trường rất tốt để nâng đỡ họ. Nếu
cả vợ và chồng đều sớm tối cầu nguyện, dâng những lời kinh lên Chúa, tham dự
thánh lễ, các bí tích, tham gia các hoạt động của giáo xứ, tích cực sống theo
những chỉ dẫn của Giáo Hội… họ sẽ không cảm thấy cô đơn trong cuộc hành trình
hôn nhân của mình, con cái của họ cũng sẽ được giáo dục tốt không chỉ về kiến
thức nhưng còn về đức tin, nhân bản. Mỗi khi gặp khó khăn, họ có nơi chạy đến để
tìm sự nâng đỡ cả về thiêng liêng lẫn vật chất. Những điều này sẽ khó có thể có
được khi vợ và chồng thực hành niềm tin của mình ở hai tôn giáo khác nhau.
Ngược lại, cưới một
người không Công Giáo sẽ có thể dẫn đến nguy cơ bên Công Giáo lơ là hoặc đánh mất
đi đức tin của mình, đặc biệt là khi bên nữ Công Giáo phải về làm dâu bên chồng
là người không Công Giáo. Nếu một bên lại theo tôn giáo khác, có những sinh hoạt
tâm linh khác, bên Công Giáo có thể sẽ đánh mất điều kiện để thực thi bổn phận
Kitô hữu của mình. Con cái sinh ra sẽ khó có điều kiện được giáo dục tốt trong
một môi trường tâm linh thuần nhất.
Nói tóm lại, việc
các bậc cha mẹ thường đòi hỏi con cái mình phải lấy người cùng theo đạo Công
Giáo chỉ là lo lắng cho đời sống đức tin của con cái mình. Nếu trong gia đình,
tất cả mọi người đều thờ phượng Thiên Chúa, sớm tối đọc kinh quây quần bên
nhau, con cái được giáo dục theo đường hướng đúng đắn, hẳn đó là một gia đình hạnh
phúc. Trong khi đó, sự khác biệt trong tôn giáo đôi khi sẽ kéo theo những bất đồng
khác trong quan điểm và lối sống, dẫn đến bất hoà, làm ảnh hưởng đến đời sống
chung. Vì thế, Giáo Hội khuyến khích bên
không có đạo Công Giáo tìm hiểu đạo Công Giáo, học giáo lý để có cùng tôn giáo
với người phối ngẫu của mình: khuyến khích chứ không bắt buộc.
Giáo Hội có quy định gì về những hôn nhân khác đạo?
Giáo Hội muốn con
cái mình phải luôn được lãnh nhận ơn lành của Chúa. Trong một cuộc hôn nhân, vốn
là quãng
thời gian quan trọng nhất của đời người, Giáo Hội càng muốn cho hai bên nam nữ
được Thiên Chúa chúc lành và thánh hoá cho tình yêu của họ và cho những dự
phóng tương lai trong cuộc sống lứa đôi. Ơn lành của Thiên Chúa được ban cho họ
ngang qua Bí tích Hôn Phối mà chính cặp đôi là người cử hành, với việc chứng
hôn của thừa tác viên Hội Thánh và hai người làm chứng (x.GL 1108 §1). Muốn vậy,
cả hai phải là Kitô hữu, nghĩa là đã thuộc về gia đình Giáo Hội. Vì thế, hôn phối
giữa một người đã rửa tội và một người chưa rửa tội thì vô hiệu đối với Giáo Hội.
Điều 1086 §1 quy
định rằng: “Hôn
nhân giữa một người đã được Rửa Tội trong Giáo Hội Công giáo hoặc đã được nhận
vào Giáo Hội ấy và không rời bỏ Giáo Hội ấy bằng một hành vi dứt khoát với một
người không được Rửa Tội, thì bất thành.” Người Kitô hữu nào cố tình thực hiện cuộc hôn phối
này sẽ phải chịu hình phạt của Giáo Hội.
Tuy nhiên, trong
trường hợp bên kia vẫn nhất quyết không muốn gia nhập đạo Công Giáo vì lý do gì
đó, để không cản trở tình yêu chính đáng của cả hai, không gây khó khăn cho bên
Công Giáo đồng thời cũng để đảm bảo bên Công Giáo không mất đức tin do cuộc hôn
nhân khác đạo này, Giáo Hội vẫn chấp nhận cho họ kết hôn với nhau, với phép của
Đức Giám Mục giáo phận. Tuy nhiên, Đức Giám Mục chỉ có thể ban phép này khi họ
đáp ứng các điều kiện quy định ở Giáo Luật,
điều 1125:
(1) Bên Công Giáo phải tuyên bố
mình sẵn sàng tránh mọi nguy cơ mất đức tin và thành thật cam kết sẽ làm hết sức
để tất cả con cái được Rửa Tội và được giáo dục trong Giáo Hội Công Giáo.
Trước hết là bổn
phận phải lo cho đức tin của chính mình: bên
Công Giáo phải tuyên bố mình sẵn sàng tránh mọi nguy cơ mất đức tin. Những
nguy cơ làm mất đức tin có thể là bê trễ chuyện kinh hạt, tham dự thánh lễ,
tham dự và lãnh nhận các bí tích… Họ phải tiếp tục chu toàn những bổn phận là
người Kitô hữu của mình cách tích cực và xa tránh những điều làm cho họ bị nguội
lạnh dẫn đến không còn tin và thực hành những gì đã được dạy liên quan đến
Thiên Chúa và Giáo Hội. Ngoài ra, người này còn phải nghĩ đến đức tin cho con
cái mình bằng cách cam kết sẽ làm hết sức
để tất cả con cái được Rửa Tội và giáo dục trong Giáo Hội Công Giáo. Ở đây,
ta chú ý đến cụm từ “làm hết sức”. Có thể có trường hợp là việc rửa tội cho con cái và giáo dục chúng trong
Giáo Hội Công Giáo không thể thực hiện được vì sức ảnh hưởng quá lớn từ
phía không Công Giáo hoặc vì nguy cơ đổ vỡ hôn nhân chỉ vì chuyện này. Cũng có
thể không phải “tất cả con cái” nhưng chỉ một hoặc một vài đứa con được rửa tội.
Nhưng bên Công Giáo phải ý thức và cam kết rằng sẽ cố gắng “làm hết sức”. Nghĩa
là có cố gắng thuyết phục, tìm mọi cách trong khả năng… để hướng đến mục đích
tuyệt vời ấy. Có thành công hay không lại là một chuyện khác.
Thông thường, việc
tuyên bố hay cam kết này phải được thực hiện trước mặt vị linh mục (hoặc phó tế
được uỷ quyền) bằng văn bản hay lời nói. Nếu các vị này nhận thấy bên Công Giáo
không hiểu hoặc không ý thức về những điều mình hứa hoặc nhận thấy người đó
không muốn hứa thì có quyền từ chối viết thư giới thiệu để xin phép chuẩn của Đức
Giám Mục.
Ta thấy rõ quy định
này của Giáo Hội là để nhắm đến việc bảo vệ đức tin của bên Công Giáo và của
con cái họ. Giáo Hội không muốn mất đi người con nào của mình, nhưng Giáo Hội
cũng không quá đòi buộc để làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến hạnh phúc của các
Kitô hữu.
(2) Bên Công Giáo phải kịp thời
thông báo cho bên không Công Giáo biết những điều bên Công Giáo phải cam kết để
họ ý thức thật sự về lời cam kết và nghĩa vụ của bên Công Giáo.
“Phải kịp thời
thông báo” không xác định thời điểm rõ ràng và chính xác. Tuy nhiên, được hiểu
là diễn ra trước cuộc hôn nhân để cho bên
không Công Giáo biết về những gì mà bên Công Giáo phải cam kết và thực thi
trong nghĩa vụ và bổn phận của mình. Mục đích nhắm tới là hai bên có thể hiểu
và tạo điều kiện cho nhau, hoặc ít là để bên không Công Giáo không gây cản trở.
Ở đây nói đến hành vi “thông báo”, dĩ nhiên là cố gắng đạt được sự ưng thuận của
bên không Công Giáo, nhưng có vẻ như Giáo Hội chỉ cần yêu cầu việc “họ biết” là
đủ rồi.
(3) Cả hai bên phải được giáo huấn
về những mục đích và đặc tính chính yếu của hôn nhân mà không bên nào được phép
loại bỏ.
Điều kiện này chắc
hẳn có liên quan đến chương trình đào tạo mà giáo phận (hoặc giáo xứ) phải có đối
với các cặp đôi chuẩn bị bước vào đời sống hôn nhân. Ít là để bên Công Giáo có
thể hiểu và chuẩn bị bản thân cho thật tốt để sống cuộc sống lứa đôi sao cho thật
triển nở. Bên không Công Giáo cũng phải “được giáo huấn”, nghĩa là tham dự những
buổi học này để hiểu về “mục đích và đặc tính chính yếu của hôn nhân”. Người
này không cần phải tin nhưng phải biết
những đòi hỏi của bên Công Giáo để có thể tôn trọng và muốn kết hôn với người
Công Giáo, và cũng với hy vọng là khi hiểu được rồi, họ sẽ giúp bên Công Giáo
chu toàn bổn phận của mình, hoặc xa hơn, họ sẽ được cảm hoá và muốn được rửa tội
sau đó để cùng người bạn đời và con cái đắp xây một gia đình theo văn hoá Kitô
giáo.
Như thế, khi muốn kết hôn với người không phải Công Giáo, phải gặp cha xứ, để xin ngài giúp xin phép của Đức Giám Mục, cùng với một số thủ tục kèm theo tuỳ quy định của từng giáo phận. Giáo Hội quy định những điều này chỉ vì lợi ích đức tin của con cái mình, chứ không hề có ý muốn bắt buộc ai phải theo đạo rồi mới cho cưới.
(Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 1, Nxb Tôn Giáo, 2020)
Đọc thêm: