VAI TRÒ CỦA MẠNG XÃ HỘI
TRONG CUỘC SỐNG
DI DÂN LAO ĐỘNG TRẺ VIỆT NAM Ở THÁI LAN
Lm. Anthony Lê Đức, SVD
1.
Dẫn nhập
Vào tháng 4-2020,
trong thời gian cao điểm của đại dịch Covid-19 ở Thái Lan, khi đất nước này bị
phong tỏa toàn quốc với lệnh giới nghiêm hằng đêm, tôi nhận được một tin nhắn
qua Facebook Messenger từ một di dân lao động trẻ Việt Nam sống ở phía đông bắc
Thái Lan. Trong tin nhắn, anh nói với tôi rằng vợ anh vừa sinh con được vài
ngày. Họ buộc phải sinh con ở Thái Lan vì lệnh phong tỏa đã ngăn cản họ quay trở
lại Việt Nam. Thật không may, đứa trẻ sinh non có vấn đề về hô hấp và phải được
chuyển đến phòng chăm sóc đặc biệt của bệnh viện trung tâm ở tỉnh Udon Thani.
Là một người nước
ngoài cư trú tại Thái Lan theo thị thực du lịch, chỉ riêng tiền viện phí trong
hai ngày đầu tiên đã gần bằng số tiền anh ta có thể kiếm được trong một năm khi
làm việc như một công nhân không có giấy tờ ở Thái Lan. Việc người nước ngoài
được tính mức phí khác với công dân Thái Lan là lý do chính dẫn đến hóa đơn viện
phí cao ngất ngưởng này.
Trong hoàn cảnh của
anh ta, không có cách nào có thể thanh toán được các chi phí và anh ta rất cần
được giúp đỡ. Anh ấy hỏi tôi, liệu tôi có thể sử dụng fanpage Facebook của tôi
- đang được cộng đồng di dân lao động Việt Nam tại Thái Lan theo dõi rộng rãi -
để giúp đỡ anh ấy được không?
Sau khi tìm hiểu
chi tiết hoàn cảnh khốn khó của anh ấy, tôi quyết định thay mặt anh ấy thực hiện
một bài đăng để nhờ sự giúp đỡ từ những người Việt Nam đang sinh sống và làm việc
tại Thái Lan.
Ngoài ra, tôi còn
liên hệ với một số người Thái mà tôi biết ở tỉnh Udon Thani để tiếp cận ban
giám đốc bệnh viện, xin giảm giá cho cặp vợ chồng bất hạnh này.
Nhờ hai nỗ lực ấy,
cha mẹ của đứa trẻ sơ sinh đã có thể chi trả viện phí, khi nhận đủ số tiền
quyên góp từ những người xem bài đăng của tôi trên mạng xã hội, cũng như nhận
được sự ưu ái của ban lãnh đạo bệnh viện giảm phí điều trị cách đáng kể.
Câu chuyện trên
đây minh họa một trong những cách mà người di dân lao động Việt Nam tại Thái
Lan (DDLĐVN) - phần lớn trong độ tuổi từ 16 đến 30 - đã sử dụng mạng xã hội để
đối phó và giảm thiểu được những khó khăn cũng như giảm bớt cảm nghiệm bị bỏ
rơi trong thời điểm khủng hoảng và trong cuộc sống hằng ngày của họ.
Nó cũng cho thấy
cách mà một cá nhân như tôi, người đồng hành với cộng đồng này, dựa vào mạng xã
hội để hỗ trợ họ cách liên tục, đặc biệt là trong thời gian khủng hoảng. Câu
chuyện được đưa ra ở trên cũng minh họa cách gửi và nhận thông tin qua mạng xã
hội, đặc biệt là Facebook và ứng dụng Messenger của nó đã trở thành một phần
thiết yếu trong cuộc sống của DDLĐVN ở Thái Lan.
Tuy nhiên, mạng
xã hội không chỉ đơn giản là một kênh giao tiếp cho những người lao động trẻ tuổi
này. Câu chuyện trên cũng nhấn mạnh vai trò nâng cao vị thế của mạng xã hội
trong việc giúp các DDLĐVN ở Thái Lan đối phó với khủng hoảng và thiệt thòi ở một
quốc gia mà sự hiện diện của họ không được hoan nghênh, ít nhất là từ góc độ
pháp lý - nếu không phải là từ góc nhìn xã hội.
Trong bài này,
tôi sẽ thảo luận về vai trò thiết yếu của mạng xã hội trong việc giảm bớt cảm
nghiệm bị gạt ra ngoài lề xã hội và đối
phó với khủng hoảng
đang diễn ra, đặc biệt là đại dịch Covid-19 đang tàn phá thế giới.
Tôi sẽ chứng
minh: nhờ mạng xã hội mà người ta đã hỗ trợ và tìm được sự hỗ trợ lẫn nhau như
thế nào khi thiếu các kênh hỗ trợ chính thức.
Ngoài ra, tôi
cũng sẽ thảo luận về một số khía cạnh tiêu cực về vai trò của mạng xã hội đối với
cuộc sống của các DDLĐVN mà các nhà lãnh đạo tôn giáo và xã hội cần phải giải gỡ.
Do vai trò nổi bật - cả tích cực và tiêu cực - của mạng xã hội đối với cuộc sống
của các DDLĐVN, những người hướng tới công việc hỗ trợ xã hội và tinh thần cho
người lao động di cư phải tận dụng mạng xã hội để đáp ứng đầy đủ hơn nhu cầu của
họ.
Cuộc thảo luận
này được trình bày dưới góc nhìn của một người đã tham gia vào công việc hỗ trợ
cho cộng đồng này trong 14 năm, một phần đáng kể diễn ra trên môi trường trực
tuyến.
Điều được chứng
minh trong nghiên cứu này là: mạng xã hội - khi được sử dụng có chủ đích và thận
trọng - có thể giúp bù đắp những hạn chế đáng kể về xã hội, pháp lý, tình cảm
và vật chất mà cộng đồng di cư phải đối mặt do tình trạng thiệt thòi của họ. Đồng
thời, các biện pháp phải được thực hiện để giúp các DDLĐVN trẻ tận dụng mạng xã
hội tốt hơn để nâng cao cuộc sống của họ, thay vì phải gánh chịu hậu quả của việc
lạm dụng công nghệ thông tin kỹ thuật số.
2. Các yếu
tố khiến người Việt Nam đến sống tại Thái Lan
Hiện tượng toàn cầu
hóa đã gây ra mức độ di cư chưa từng có trên khắp thế giới và sẽ tiếp tục diễn
ra theo những cách thức phức tạp. Người Việt Nam không nằm ngoài xu hướng này,
đặc biệt với dân số hiện đạt tới gần 100 triệu người, Việt Nam trở thành quốc
gia đông dân thứ 15 trên thế giới. Đồng thời, mỗi năm thêm gần một triệu người
Việt Nam đến tuổi lao động khiến nhu cầu tạo việc làm đã trở thành vấn đề cấp
thiết đối với chính phủ.
Trong hai thập kỷ
qua, chính sách khuyến khích lao động xuất khẩu của chính phủ Việt Nam đã dẫn đến
một số lượng lớn người Việt Nam rời khỏi đất nước mỗi năm để tìm việc làm ở các
nước khác. Một báo cáo của Bộ Ngoại giao Việt Nam cho biết, năm 2011, có trên
500.000 công dân Việt Nam đang làm việc tại hơn 40 quốc gia và vùng lãnh thổ
trên thế giới. Đến năm 2013, tổng số đã lên tới khoảng 600.000. Riêng năm 2017,
có 134.751 người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. Năm 2018, gần 143.000 người
Việt Nam đã đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài, chủ yếu đến các nước Nhật Bản,
Đài Loan và Hàn Quốc. Năm 2019, con số này là 134.482 - Nhật Bản tiếp nhận hơn
80.000 lao động Việt Nam trong khi Đài Loan là điểm đến của 54.480 lao động Việt
Nam. Theo thống kê của Chính phủ Việt Nam, hiện có gần 230.000 người Việt Nam
đang làm việc tại Đài Loan và gần 50.000 người làm việc tại Hàn Quốc. Lao động
Việt Nam là nhóm tăng trưởng nhanh nhất tại Nhật Bản, phần lớn họ nhập cảnh vào
nước này theo chương trình thực tập sinh kỹ thuật do chính phủ Nhật Bản thiết lập
nhằm cung cấp cho đất nước họ nguồn lao động ‘cổ xanh'. Hiện có 412.000 người
Việt Nam đang sinh sống tại Nhật Bản, đại đa số là công nhân. Người Việt Nam là
nhóm người nước ngoài lớn thứ ba ở Nhật Bản sau người Trung Quốc và người Hàn
Quốc. Việc đưa người Việt Nam đi làm việc tại các quốc gia khác đã có tác động
tích cực đến nền kinh tế của đất nước. Trong các năm 2017, 2018 và 2019, người
lao động ở nước ngoài đã gửi về nước tổng cộng lần lượt là 13,8 tỷ USD, 15,9 tỷ
USD và 16,7 tỷ USD, đóng góp khá lớn vào GDP hàng năm của đất nước (269,92 tỷ
USD vào năm 2019).
Tuy nhiên, số liệu
thống kê chính thức không thể hiện toàn bộ bức tranh vì có rất nhiều người ra
nước ngoài làm việc với visa du lịch hoặc sinh viên. Điều này thường thấy trong
trường hợp người Việt Nam đi Úc, Mỹ, Singapore, Hàn Quốc, và hầu như luôn thuộc
về trường hợp này khi người Việt đến làm việc ở Thái Lan.
Có những phương
cách khác nguy hiểm hơn mà người Việt Nam sử dụng để ra nước ngoài. Theo Hội đồng
Kinh tế và Xã hội của Liên hợp quốc, khoảng 18.000 người Việt Nam bị buôn lậu
vào châu Âu mỗi năm qua các đường dây buôn người. Vụ việc 39 thanh niên Việt
Nam tử vong trong chiếc xe tải đông lạnh ở Anh khi được bị đưa lậu vào nước này
năm 2019 đã cho thấy hoàn cảnh của hàng nghìn người Việt Nam sẵn sàng chấp nhận
những phương tiện thực sự nguy hiểm để ra nước ngoài kiếm sống.
Mặc dù các quốc
gia như Hoa Kỳ, Anh, Nhật Bản và Hàn Quốc là những nước mà nhiều người Việt Nam
rất mong muốn di cư đến để hy vọng có được một tương lai tài chính tốt hơn cho
bản thân và gia đình, nhưng đó là những nơi mà người Việt lao động bình thường
khó mà đến được. Do đó, nhiều người phải chấp nhận tìm đến các nước dễ tiếp nhận
họ hơn như Đài Loan, Malaysia, Lào và Thái Lan ở châu Á, hoặc Libya và Angola ở
châu Phi.
Phần lớn các
DDLĐVN ở Thái Lan không có giấy tờ. Trước khi đại dịch coronavirus buộc phải
đóng cửa biên giới giữa Thái Lan và các nước láng giềng, mỗi ngày, rất nhiều xe
đò chở người Việt Nam từ các tỉnh từ Việt Nam sang Lào hoặc Campuchia, sau đó
đi đến các tỉnh và thành phố khác nhau ở Thái Lan.
Mặc dù không có
con số chính thức về số lượng DDLĐVN ở Thái Lan, người ta tin rằng tổng số lên
đến hàng chục nghìn. Trên thực tế, con số thực liên tục thay đổi, tùy theo các
yếu tố khác nhau, chẳng hạn như tình trạng của nền kinh tế Thái Lan hoặc các thời
điểm trong năm. Rất nhiều người lao động Việt Nam về Việt Nam vào dịp Tết
Nguyên đán để sum họp với gia đình. Số lượng người Việt Nam sống ở Thái Lan
cũng phụ thuộc vào việc chính phủ Thái có chiến dịch tích cực để truy quét lao
động nước ngoài bất hợp pháp hay không. Lý do người Việt chọn đến định cư ở
Thái Lan tùy thuộc vào hoàn cảnh sống ở Việt Nam cũng như những phẩm chất cuộc
sống hiện có ở Thái Lan.
Theo báo cáo của
Bộ Ngoại giao Việt Nam, việc đưa công dân Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài là
một chính sách quan trọng và tích cực của Chính phủ Việt Nam vì Việt Nam hiện
chưa đáp ứng được toàn bộ nhu cầu việc làm trong nước.
Đa số DDLĐVN có
tay nghề thấp và đến từ nông thôn. Tạo công ăn việc làm cho tất cả những người
này là một thách thức khó vượt qua.
Mặc dù tốc độ
tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam đã vượt qua Thái Lan trong những năm gần
đây, nhưng sự phát triển kinh tế nói chung của Thái Lan vẫn đi trước Việt Nam
nhiều năm. GDP bình quân đầu người của Thái Lan năm 2018 gấp ba lần Việt Nam.
Trong khi người
Việt Nam từ khắp nơi ra nước ngoài tìm việc làm thì những người đến kiếm sống ở
Thái Lan chỉ đến từ một số tỉnh, phần lớn ở nửa phía Bắc Việt Nam, cụ thể là
các tỉnh Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa, Phú Thọ, Hòa Bình. Trong số
này, phần lớn đến từ hai tỉnh Hà Tĩnh và Nghệ An, do tình hình kinh tế ở các tỉnh
này có xu hướng không tốt bằng các vùng khác trên cả nước.
Khi xem xét một số
yếu tố xuất phát từ quê hương Việt Nam, ta không thể bỏ qua những lý do chính yếu
khiến Thái Lan trở thành điểm đến mong muốn của các DDLĐVN. Thái Lan là một
trong những nền kinh tế mạnh nhất trong khu vực với GDP bình quân đầu người năm
2019 đứng thứ 4 trong khu vực ASEAN, hơn Việt Nam 3 bậc. Cho dù nền kinh tế của
Thái Lan phát triển hơn Việt Nam nhưng Thái Lan đang đối mặt với tình trạng thiếu
lao động, đặc biệt là trong lĩnh vực tay nghề thấp.
Do sự gia tăng
thu nhập cá nhân cũng như gia tăng trình độ học vấn và kỹ năng chuyên môn của
người dân Thái Lan, số lượng lao động có kỹ năng thấp đã giảm xuống. Người sử dụng
lao động ngày càng khó tìm được lao động địa phương cho những công việc đòi hỏi
lao động nặng nhọc với mức lương thấp, ít ổn định và điều kiện làm việc kém hơn
niềm mong muốn. Tình hình càng đáng quan ngại hơn khi xã hội Thái Lan ngày càng
già đi. Theo Ủy ban Phát triển Kinh tế và Xã hội Quốc gia (NESDC) của Thái Lan,
người cao niên (từ 60 tuổi trở lên) vào năm 2020 là 12 triệu người, chiếm 18% tổng
dân số.
NESDB dự báo dân
số cao tuổi sẽ đạt 20,42 triệu người, tương đương 31,28% tổng dân số vào năm
2040.
Đồng thời, số người
trong độ tuổi lao động (từ 15 đến 59 tuổi) cũng giảm tương tự, từ 43,26 triệu
năm 2020 xuống 36,5 triệu năm 2040. Con số này giảm từ 65% xuống chỉ còn 56% tổng
dân số. Cùng lúc Thái Lan đối mặt với xu hướng giảm dân số trong độ tuổi lao động,
nước này vẫn tiếp tục có nhu cầu về lao động để duy trì hoạt động của nền kinh
tế.
Ngoài sức mạnh
kinh tế tương đối cao hơn của Thái Lan so với Việt Nam, còn có những lý do khác
thu hút các DDLĐVN đến nước này.
Trong khi quá
trình xin việc ở các nước như Úc, Hàn Quốc và Nhật Bản - thông qua các công ty
môi giới vừa tốn kém vừa mất thời gian, chưa kể đối mặt với nguy cơ bị lừa đảo
bởi những cá nhân và công ty vô đạo đức - thì việc sang Thái Lan lại đơn giản
và ít rủi ro hơn rất nhiều. Mặc dù mức lương ở các quốc gia này khá cao, nhưng
không phải ai cũng có đủ khả năng đầu tư tài chính lên tới 10.000 USD để có được
một công việc tại Hàn Quốc hoặc Nhật Bản.
Mặt khác, việc
sang Thái Lan không phải thực hiện thông qua trung gian. Khoảng 15-20 năm trước,
khi làn sóng DDLĐVN đến Thái Lan mới ở giai đoạn đầu, nhiều người đã trả tiền
cho những cá nhân gọi là “người đưa quân” để họ giúp sắp xếp chuyến đi, hướng dẫn
tới Thái Lan, thậm chí giúp tìm việc làm. Ngày nay, dịch vụ người hướng dẫn vẫn
còn tồn tại, nhưng chỉ để giúp đưa cá nhân vào đất nước an toàn và ít gặp rắc rối
tại cửa khẩu nhập cảnh, nơi người Việt Nam có thể gặp khó khăn hoặc bị các nhân
viên xuất nhập cảnh từ chối không cho nhập cảnh khi bị nghi ngờ là không đến
Thái Lan với mục đích du lịch.
Đến Thái Lan cũng
là một lựa chọn hấp dẫn một phần vì chuyến đi tương đối dễ dàng. Trong những
năm sau này, điều kiện đường xá đã được cải thiện rất nhiều ở cả Việt Nam cũng
như Lào và Campuchia, khiến cho chuyến đi trở nên ít tốn thời gian và khó khăn
hơn trước đây. Một người rất có thể ăn sáng ở Việt Nam, sau đó ăn trưa ở Lào,
và cuối cùng là thưởng thức bữa tối ở Thái Lan. Chuyến trở về Việt Nam cũng thuận
lợi không kém. Vào những dịp đặc biệt như Tết Nguyên đán, lễ hội tôn giáo và
các sự kiện gia đình như đám cưới, đám tang, họ có thể dễ dàng về quê để tham dự.
Khi các trường hợp khẩn cấp và các vấn đề gia đình phát sinh cần sự hiện diện của
họ để giúp giải quyết, hầu hết có thể di chuyển bằng xe đò để trở về nhà trong
vòng 24 giờ. Việc đi lại bằng đường hàng không giữa Thái Lan và Việt Nam cũng
đã hợp lý hơn đáng kể trong những năm gần đây với sự phổ biến của các hãng hàng
không giá rẻ bay một chiều Bangkok - Hà Nội với giá chỉ 50 USD.
Bên cạnh khoảng
cách gần và phương tiện đi lại thuận tiện giữa Việt Nam và Thái Lan, một yếu tố
quan trọng khác là chính sách miễn thị thực cho công dân các nước thành viên
ASEAN đi du lịch trong khu vực. Người Việt Nam nhập cảnh vào Vương quốc Thái
Lan được lưu trú tối đa 30 ngày mà không cần xin thị thực. Sau đó, họ phải rời
khỏi vương quốc. Tuy nhiên, đối với đa số DDLĐVN, họ giải quyết vấn đề này bằng
cách đi xe đò đến biên giới, xuất cảnh (nhập cảnh vào Lào hoặc Campuchia), sau
đó quay lại với một con tem mới để ở lại thêm 30 ngày. Quy trình này diễn ra lặp
đi lặp lại đối với phần lớn các DDLĐVN. Đối với một số ít người lao động không
muốn đối phó với rắc rối của việc gia hạn thị thực hằng tháng, họ chọn chấp nhận
rủi ro để thị thực hết hạn và không chỉ trở thành những người làm việc bất hợp
pháp ở Thái Lan mà còn ở lại nước này bất hợp pháp.
Yếu tố tiếp theo
thu hút DDLĐVN đến Thái Lan là mức thu nhập tương đối cao mà họ có thể đạt được
tại đây. So với các công việc đòi hỏi kỹ năng thấp ở Việt Nam như bán trái cây
và kem, làm việc tại nhà hàng và quán rượu, may vá, v.v. thu nhập ở Thái Lan có
thể lớn hơn gấp đôi hoặc gấp ba lần so với những gì có thể kiếm được ở quê
hương của họ. Với một công việc ổn định, một người lao động có thể tiết kiệm
khoảng 10.000 - 20.000 baht (280 - 560 USD) mỗi tháng để gửi về quê giúp đỡ tài
chính cho gia đình. Đây là một số tiền không hề nhỏ đối với những cá nhân xuất
thân từ nông thôn, hầu hết chưa học hết cấp 3. Điều này càng đáng chú ý hơn khi
năm 2018 và 2019, Việt Nam lần lượt có 142.300 và 124.500 người có trình độ đại
học thất nghiệp.
Tóm lại, các yếu
tố làm phát sinh hiện tượng DDLĐVN đến Thái Lan phản ánh tình hình cả hai đất
nước: nơi rời đi và nơi đến. Mặc dù lao động Việt Nam đang kiếm sống bất hợp
pháp tại Thái Lan và kế hoạch hợp tác lao động Thái - Việt vẫn đang trong giai
đoạn đầu triển khai, nhưng thực tế cho thấy Thái Lan tiếp tục là điểm đến hấp dẫn
của các DDLĐVN cả trong hiện tại và tương lai.
3. Di dân
lao động Việt Nam bị gạt ra ngoài lề xã hội Thái Lan
Lao động nhập cư
cảm thấy bị gạt ra ngoài lề xã hội - đây không phải là một chủ đề mới được
nghiên cứu, mà đã được nhiều học giả đề cập đến trong nhiều bối cảnh khác nhau
(Calavita 1998; Schatz & Schiffer 2008; Srivirojana et al. 2014; O'Neil et
al. 2016; Zhizhko 2016; Muller 2016). Mặc dù đã có một số bài báo viết về kinh
nghiệm của các DDLĐVN ở Thái Lan, những những bài báo này không tập trung vào cảm
nhận bị gạt ra ngoài lề xã hội của các DDLĐVN không có giấy tờ và phần lớn là
các DDLĐVN trẻ tuổi (Sripana 2004; Nguyen & Walsh 2014; Srikham 2014; Le
Duc 2016).
Nghiên cứu này nhằm
mục đích làm nổi bật khía cạnh này trong cuộc sống của DDLĐVN ở Thái Lan cũng
như thảo luận về cách họ dùng mạng xã hội để giảm thiểu tình trạng bị gạt ra
ngoài lề xã hội.
- Nhận dạng người lao động nhập cư
Tại Thái Lan, giống
như những người lao động Campuchia, Lào và Myanmar, người lao động Việt Nam hầu
như luôn được nhắc đến - ngay cả trên các phương tiện thông tin đại chúng và
các tuyên bố của chính phủ - là “khon tang dao” (người nước ngoài) hoặc “reng
ngan tang dao” (người lao động nước ngoài). Đáng ngạc nhiên là khi nói về những
người nước ngoài khác, đặc biệt là người phương Tây, người Thái không dùng các
thuật ngữ này, mà dùng các từ “tang chart” hoặc “tang prathet”. Mặc dù các thuật
ngữ “tang dao”, “tang chart” và “tang prathet” là các từ đồng nghĩa trong từ điển
tiếng Thái, nhưng theo kinh nghiệm thực tế hằng ngày của người nước ngoài ở
Thái Lan, thuật ngữ “tang dao” mang một hàm ý hơi tiêu cực, coi thường và gièm
pha. Việc sử dụng ngôn từ mang tính phân biệt đối xử này được phản ánh rõ nét
khi tìm kiếm từ khóa “khon tang dao” nơi Google: Google sẽ cho xuất hiện nội
dung và hình ảnh các quan chức chính phủ và pháp luật tổ chức họp báo về lao động
nước ngoài, hoặc hình ảnh những người lao động chân tay đang cầm giấy phép lao
động, hoặc bị cảnh sát kiểm tra và bắt giữ. Trong khi đó, khi tìm kiếm từ khóa
“khon tang chart” nơi Google, sẽ thấy xuất hiện hình ảnh các du khách và chuyên
gia ăn mặc đẹp đẽ, vui vẻ đến từ nhiều quốc gia khác nhau trên thế giới.
- Khó khăn về kinh tế
Hầu hết các
DDLĐVN ở Thái Lan đến từ các tỉnh phía Bắc Việt Nam. Ngoại trừ một vài trường hợp
ngoại lệ, phần lớn là các gia đình nông thôn và có trình độ học vấn hạn chế. Phần
lớn các DDLĐVN nằm trong độ tuổi từ 16 đến 30 tuổi của cả hai giới tính. Khi đến
đất nước này, họ tìm được việc làm trong các công việc như phục vụ trong nhà
hàng và quán bar, làm việc trong ngành công nghiệp may mặc và bán trái cây, rau
và kem, v.v. Phần lớn lao động nhập cư làm việc từ 10 đến 15 giờ một ngày, cả
ngày và đêm tùy thuộc vào loại hình công việc mà họ tham gia. Rất ít ngày được
nghỉ ngoài thời gian họ phải gia hạn thị thực hằng tháng hoặc vào những ngày
nghỉ lễ quan trọng khi một số doanh nghiệp quyết định đóng cửa.
- Chi phí nặng nề cho việc làm bất hợp pháp
Muốn có việc làm ở
Thái Lan thì phải trả một cái giá theo đúng nghĩa đen. Khi các công dân Việt
Nam đến các trạm kiểm soát xuất nhập cảnh như Nong Khai và Nakhon Phanom ở biên
giới Thái - Lào, họ không được xếp hàng như những khách du lịch khác mà phải xếp
hàng riêng để đi vào một không gian kín đáo hơn. Tại đó, họ được yêu cầu trả một
khoản phí không chính thức để được phép nhập cảnh - một khoản phí không áp dụng
cho bất kỳ ai khác muốn nhập cảnh vào đất nước này với tư cách là khách du lịch
chân chính. Việc những người Việt Nam không phải thực sự là khách du lịch được
chứng minh bởi hàng loạt những con dấu ra vào được đóng trên quyển hộ chiếu do
phải đi gia hạn hàng tháng.
Người lao động Việt
Nam không những phải trả tiền cho các nhân viên nhập cảnh ngay từ lúc nhập cảnh,
mà còn phải trả tiền cho các nhân viên cảnh sát khác nhau - trực tiếp hoặc
thông qua những chủ lao động của họ để được phép làm việc. Mỗi người phải trả từ
500 đến vài nghìn baht cho một viên quan chức hoặc một bộ phận cảnh sát.
Một DDLĐVN có quầy
bán trái cây tại một khu chợ buổi tối ở quận Laksi của Bangkok cho biết mỗi
tháng họ phải trả tổng cộng cho 7 bộ phận khác nhau.
Tuy nhiên, cho dù
đã trả tiền cho các quan chức địa phương, nhiều người vẫn bị bắt khi cảnh sát từ
cấp trên hoặc từ sở lao động đến truy quét. Một số quan chức cảnh sát bắt công
nhân Việt Nam không nhất thiết để thực thi luật pháp, mà chỉ đơn giản là để tống
tiền trước khi thả họ đi. Việc tống tiền và hối lộ, dao động từ 1.000 baht đến
20.000 baht / người, không chỉ được giao dịch tại địa điểm nơi xảy ra vụ bắt giữ,
mà nhiều khi ngay cả lúc họ đã bị đưa đến đồn cảnh sát.
Trong trường hợp
người bị bắt đã được chuyển đến sở di trú, họ còn phải nộp tiền bảo lãnh trước
khi được thả. Bởi vì phải là một công dân Thái Lan mới có thể đóng tiền bảo
lãnh, nên các DDLĐVN thường phải nhờ vào dịch vụ của người Thái Lan, tất nhiên
với một khoản phí khá lớn. Phiên tòa sau đó thường dẫn đến việc phạt tiền và trục
xuất khỏi đất nước cùng với tên của người vi phạm xuất hiện trong danh sách đen
trong ít nhất 5 năm. Muốn không bị bắt, các DDLĐVN phải bỏ ra nhiều tiền hơn để
thực hiện các chuyến đi gia hạn thị thực hằng tháng nhằm kéo dài thời gian lưu
trú ở nước này.
Khi làm việc mà
không có giấy phép ở Thái Lan, các DDLĐVN không được hưởng bất kỳ quyền lợi nào
của người lao động. Một số người kể lại rằng họ bị lạm dụng hoặc buộc phải làm
việc nhiều giờ mà không được đền bù xứng đáng. Nhiều người bị chủ lao động đánh
lừa, không chịu trả tiền cho công việc mà các DDLĐVN đã hoàn thành. Khi bị đối
xử bất công, người lao động Việt Nam không thể dùng đến các biện pháp pháp lý để
đòi lại công bằng cho mình. Khi đối mặt với bệnh tật, các DDLĐVN phải tự lo mọi
chi phí y tế, có thể lên đến hàng trăm nghìn baht trong trường hợp bệnh nặng
hay gặp tai nạn.
- Sống bên lề xã hội
Không cần phải
nói, các DDLĐVN ở Thái Lan phải đối mặt với nhiều hạn chế trong cuộc sống của họ.
Đa số phải làm việc nhiều giờ với một hoặc thậm chí hai công việc, ít có thời
gian giải trí và thư giãn.
Một số công nhân
Công giáo đã báo cáo rằng họ không thể đi lễ nhà thờ vào ngày Chủ nhật vì họ phải
làm việc. Không đến nơi làm việc đồng nghĩa với nguy cơ bị sa thải mất việc
làm.
Vì những hạn chế
về pháp lý và tài chính, nên các DDLĐVN cũng có rất ít cơ hội để hội họp gặp gỡ
nhau. Cuộc sống của đa số DDLĐVN xoay quanh nơi họ làm việc và phòng trọ. Điều
này hoàn toàn khác với lối sống của họ ở quê hương. Hầu như tất cả những người
Việt Nam làm việc tại Thái Lan đều đến từ các vùng quê nông thôn của Việt Nam,
nơi đại gia đình và cộng đồng với mối quan hệ gắn bó mật thiết đóng vai trò đặc
biệt quan trọng như là nguồn hỗ trợ xã hội và tinh thần. Ngoài ra, đối với người
trẻ, gia đình và cộng đồng rất cần thiết trong việc xây dựng nề nếp và thường
xuyên đào tạo về mặt xã hội, đạo đức và tinh thần.
Các DDLĐVN Công
giáo được lớn lên trong một môi trường thậm chí còn nề nếp hơn, với lịch trình
hằng ngày thường bao gồm các hoạt động tôn giáo như thánh lễ buổi sáng và giờ cầu
nguyện buổi tối.
Cho dù ở quê
hương mình, các DDLĐVN đã được gia đình, cộng đồng và Giáo hội giúp họ sống có
nề nếp sâu sắc đến đâu đi nữa, tình hình vẫn hoàn toàn khác hẳn, khi họ đến
Thái Lan. Ở đây, người lao động Việt Nam chủ yếu sống độc lập, với bạn bè, hoặc
với anh chị em, họ hàng. Tuy nhiên, hầu như họ không có sự giám sát từ những
nhân vật trưởng thành truyền thống như cha mẹ, lãnh đạo cộng đồng và linh mục
quản xứ, điều này có thể dẫn đến sự lơ là trong các vấn đề tâm linh và có những
hành vi phóng túng điển hình của đời sống thanh thiếu niên khi không được giám
sát. Tình trạng bị gạt ra ngoài lề một phần cũng bởi vì thanh niên Việt Nam ở
Thái Lan buộc phải sống dường như không có bất kỳ sự hướng dẫn chính thức nào
như trong các hệ thống xã hội truyền thống.
- Bắt giữ và trục xuất
Tình trạng bị gạt
ra bên lề xã hội của thanh niên Việt Nam ở Thái Lan tăng cao nhất bởi nguy cơ bị
bắt giữ thường xuyên diễn ra, và đặc biệt nghiêm trọng trong các chiến dịch
truy quét công khai nhằm truy quét lao động nhập cư nước ngoài bất hợp pháp.
Một chiến dịch
như vậy đã diễn ra vào tháng 6-2014 sau khi chính phủ quân sự lên nắm quyền
thông qua một cuộc đảo chính không đổ máu. Trong chiến dịch đó, hàng trăm nghìn
lao động nhập cư nước ngoài buộc phải rời khỏi đất nước, trong số đó có người
Việt Nam, Campuchia và người Miến Điện không có giấy phép lao động.
“Cuộc di cư” lại
diễn ra vào tháng 9 năm 2015 với quyết định đột ngột của chính phủ cấm việc gia
hạn thị thực, điều đó có nghĩa là bất kỳ người Việt Nam nào không rời khỏi đất
nước sẽ bị rơi vào tình trạng thị thực quá hạn.
Một năm sau đó, một
chiến dịch trấn áp công khai rộng rãi khác đã được phát động nhằm vào những người
nước ngoài được cho là “ăn cắp” hoặc “cướp giật” những công việc dành riêng cho
người Thái khi bán hàng rong trên đường phố hoặc mở quầy hàng ở chợ. Giới truyền
thông đã trích dẫn lời của các nhà chức trách rằng: người nước ngoài chỉ nên nhận
những công việc mà người Thái không muốn. Theo Sunai Phasuk - nhân viên của Tổ
chức Theo dõi Nhân quyền, mức độ phản đối người nhập cư ở Thái Lan đã gia tăng
chưa từng thấy. “Có vẻ như ‘cảm thức về dân tộc' đang trỗi dậy trong chính sách
nhập cư của Thái Lan, ví dụ trong lập luận cho rằng những người di cư từ Việt
Nam đang lấy mất những công việc dành riêng cho công dân Thái Lan. Chúng tôi đã
không thấy sự gia tăng tình cảm chống người nhập cư như thế trong nhiều thập kỷ
trước đây. Điều này liên quan rất nhiều đến kinh tế.”
Tình cảm chống đối
ngoại kiều vẫn không giảm bớt trong những năm qua. Các cuộc đột kích định kỳ lớn
và nhỏ đã được thực hiện liên tục, một phần là do chiến dịch toàn quốc nhằm
ngăn chặn lao động nhập cư bất hợp pháp hoặc truy quét tội phạm nước ngoài - những
kẻ biến Thái Lan thành căn cứ hoạt động bất hợp pháp của họ. Chỉ trong hai tuần
đầu tháng 6 năm 2019, cảnh sát Thái Lan đã bắt giữ 2.274 người nước ngoài ở
vùng Đông Bắc Thái Lan, trong số đó có những người bị tình nghi thuộc các băng
nhóm tội phạm đến từ Cameroon và Colombia. Những người bị bắt bao gồm những người
nước ngoài nhập cảnh bất hợp pháp, làm việc không phép và quá hạn visa.
Vào tháng 8-2019,
các quan chức chính phủ Thái Lan đưa ra bản thống kê: trong khoảng thời gian từ
ngày 1-7-2018 đến 13-8- 2019, họ đã kiểm tra 599.148 người. Gần 8.000 người
trong số này bị phát hiện là bất hợp pháp, phải đối mặt với truy tố và phạt tiền.
Cuối cùng, hơn 7.000 người đã bị trục xuất và tổng cộng hơn 35,5 triệu baht tiền
phạt đã được thu thập.
Nhiều cuộc truy
quét cùng với các chiến dịch truyền thông miệt thị người lao động nhập cư không
có giấy tờ đã gây nhiều thiệt hại cho cuộc sống của người lao động Việt Nam tại
Thái Lan. Kể từ năm 2018, các DDLĐVN điều hành dịch vụ giao hàng B-B-Q đã báo
cáo số lượng đơn đặt hàng sụt giảm nghiêm trọng sau khi truyền thông Thái Lan
đưa tin về việc cảnh sát truy quét các “cửa hàng” của họ, nói rằng: thịt bán
cho khách hàng là loại thấp, không đảm bảo vệ sinh.
Các chiến dịch
toàn quốc, cùng với những phản ánh tiêu cực trên các phương tiện truyền thông địa
phương, cũng như các vụ bắt giữ thường xuyên liên tục nhằm mục đích tống tiền,
tạo ra nhiều bất ổn cho cuộc sống của các DDLĐVN, vốn bản chất của nó đã chứa đựng
nhiều bấp bênh. Quả thực, các chiến dịch trấn áp và lời lẽ bài ngoại của các
quan chức chính phủ cũng như các phương tiện thông tin đại chúng địa phương đã
làm gia tăng cảm giác bị gạt ra bên lề xã hội nơi những người lao động nhập cư
không có giấy tờ.
4. Bị gạt
ra ngoài lề xã hội trong đại dịch Covid-19
Thái Lan là quốc
gia phát triển mạnh về ngành du lịch, đặc biệt là phục vụ du khách đến từ Trung
Quốc đại lục. Vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi vi-rút corona đã xuất hiện lần
đầu tiên tại Vương quốc này qua đường của khách du lịch Trung Quốc đến từ thành
phố Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc, tâm chấn ban đầu của đại dịch.
Sau khi Tổ chức Y
tế Thế giới (WHO) tuyên bố rằng coronavirus mới là nguyên nhân gây bệnh đường
hô hấp vào ngày 12-1-2020, Thái Lan đã có trường hợp đầu tiên được xác nhận bên
ngoài Trung Quốc. Bệnh nhân là một phụ nữ 61 tuổi, vào ngày 8-1-2020 bắt đầu có
các biểu hiện trước khi bay cùng một nhóm du lịch đến sân bay Suvarnaphumi -
Bangkok, nơi bà được máy dò nhiệt phát hiện bị sốt. Chẩn đoán ban đầu của các
quan chức y tế về bệnh viêm phổi nhẹ đã xác nhận sự xuất hiện của loại
coronavirus mới này vào ngày 13-1-2020. Điều này không có gì quá ngạc nhiên khi
vào ngày 10-1- 2020, WHO đã đưa ra một tuyên bố cảnh báo các quốc gia khác về
nguy cơ lây lan ra ngoài biên giới Trung Quốc. Mặc dù là nơi có ca bệnh đầu
tiên bên ngoài Trung Quốc, nhưng trong tháng 1 và tháng 2-2020, số người được
phát hiện nhiễm bệnh tương đối thấp. Phần lớn trong số 42 trường hợp tại thời
điểm đó bao gồm du khách Trung Quốc, một số ít người dân từ Trung Quốc trở về,
và những người Thái Lan thường xuyên tiếp xúc với du khách nước ngoài do công
việc của họ.
Mối đe dọa của đại
dịch trở nên rõ rệt hơn ở Thái Lan với việc ghi nhận ca tử vong đầu tiên vào
ngày 1-3-2020, một nhân viên 35 tuổi của tập đoàn bán lẻ du lịch hàng đầu King
Power. Khi phát hiện nhiều trường hợp hơn, các quan chức địa phương bắt đầu
thông báo hủy bỏ các sự kiện và lễ hội, bao gồm cả những sự kiện liên quan đến
lễ hội Songkran là lễ hội hằng năm lớn nhất của Thái Lan, dự kiến vào giữa
tháng 4. Tháng 3 chứng kiến sự khởi đầu của nhiều bệnh nhiễm trùng địa phương
hơn, bao gồm một vụ bùng phát liên quan đến sân vận động muay Thai Lumpini dẫn
đến hàng chục người nhiễm bệnh. Vào ngày 15-3-2020, các quan chức đã báo cáo 32
trường hợp mới, mức tăng lớn nhất hằng ngày trong số các ca nhiễm trùng kể từ
khi dịch bùng phát ở nước này. Số ca nhiễm mới đã tăng lên 111 vào ngày
17-3-2020, khiến các quan chức quốc gia và địa phương ra lệnh đóng cửa các trường
học, địa điểm vui chơi giải trí như quán bar, câu lạc bộ đêm và cửa hàng mát-xa
trong 14 ngày để đối phó với số ca lây nhiễm ngày càng tăng.
Ngày 18-3-2020,
nước láng giềng Lào của Thái Lan thông báo đóng cửa các trạm kiểm soát xuất nhập
cảnh giáp biên giới hai nước. Về phần mình, Thái Lan thông báo sẽ đóng cửa các
trạm kiểm soát xuất nhập cảnh dọc biên giới Thái Lan - Malaysia. Trong những
ngày tiếp theo, các trạm kiểm soát xuất nhập cảnh giữa Thái Lan và Myanmar,
Thái Lan và Campuchia cũng lần lượt đóng cửa. Campuchia cũng bắt đầu hạn chế nhập
cảnh của người nước ngoài từ nhiều quốc gia khác nhau, trong đó có Việt Nam, nhằm
ngăn chặn sự lây lan của vi-rút trong biên giới của mình. Người Việt Nam không
còn được phép vào Campuchia bắt đầu từ ngày 20-3-2020. Giữa lúc đó, Thái Lan đã
báo cáo số ca mắc mới hằng ngày lớn nhất từ trước đến nay vào ngày 22-3-2020 với
188 ca và nâng tổng số ca nhiễm ở nước này lên 599 ca.
Trước việc Thái
Lan đóng cửa các trạm kiểm soát nhập cư cùng với tất cả các quốc gia láng giềng
của mình, những người lao động nhập cư đã phải đối mặt với một tình huống vô
cùng khó khăn. Khi các quốc gia đóng cửa các doanh nghiệp và có khả năng rơi
vào tình trạng phong tỏa, họ phải quyết định về nước hay cố gắng vượt qua đại dịch
ở Thái Lan cho đến khi mọi thứ trở lại bình thường.
Do phần lớn trong
số hàng triệu lao động nhập cư ở Thái Lan đến từ bốn quốc gia láng giềng ASEAN
là Myanmar, Campuchia, Lào và Việt Nam, cuộc khủng hoảng leo thang đã chứng kiến
một làn sóng di cư của người lao động nhập cư về nước của họ, nơi mà vào thời
điểm đó, đại dịch còn đang nhẹ hơn nhiều. Trong số 4 nước này, Việt Nam có số
ca mắc nhiều nhất. Tuy nhiên, tổng số vào ngày 20-3 vẫn chỉ là 85, ít hơn nhiều
so với Thái Lan. Mãi đến ngày 24-3-2020, Lào mới xác nhận có 2 trường hợp nhiễm
vi-rút đầu tiên.
Cùng với thông
tin từ các quan chức chính phủ Thái Lan rằng người nước ngoài bị nhiễm vi-rút sẽ
phải tự bỏ tiền túi để điều trị, nhiều lao động nhập cư cảm thấy không có nhiều
động lực để tiếp tục ở lại. Do đó, trong các ngày từ 20 đến 25-3-2020, lao động
nhập cư từ 4 quốc gia này đã tràn đến các trạm kiểm soát nhập cư giữa Thái Lan
và Lào, Campuchia, Myanmar để tìm đường hồi hương, thoát khỏi đại dịch ở Thái
Lan và hy vọng có nơi trú ẩn an toàn hơn ở quốc gia của họ.
Khi đại dịch
Covid-19 bắt đầu leo thang vào giữa tháng 3, các DDLĐVN đã rơi vào tình thế khó
khăn. Nhiều người trong thời điểm đó vừa mới trở lại Thái Lan sau kỳ nghỉ Tết
Nguyên đán, với hy vọng làm việc và có tiền dành dụm. Một số chỉ mới đến một hoặc
hai tuần. Tuy nhiên, trước khi họ có thể nhận được tiền lương của tháng đầu
tiên, các doanh nghiệp đã buộc phải đóng cửa và đất nước đã sẵn sàng đi vào
tình trạng phong tỏa nếu tình hình trở nên tồi tệ hơn.
Khi các hãng hàng
không hủy các chuyến bay rời khỏi đất nước và các trạm kiểm soát xuất nhập cảnh
ở biên giới cũng chuẩn bị đóng cửa, họ phải lựa chọn có nên chăng ở lại để rồi
rơi vào nguy cơ bị hết hạn visa trong tháng tới. Thông thường, người Việt kéo
dài thời gian lưu trú tại Thái Lan bằng cách xuất cảnh đến các nước láng giềng
rồi tái nhập cảnh với con dấu cho phép lưu trú thêm 30 ngày. Tuy nhiên, điều
này sẽ không còn khả thi nếu các quốc gia ấy đồng loạt đóng cửa biên giới. Vào
thời điểm đó, chính phủ Thái Lan vẫn chưa đưa ra bất kỳ quyết định nào về việc
sẽ làm gì đối với những người nước ngoài bị mắc kẹt ở lại trong thời kỳ đại dịch.
Người Việt Nam cũng như những người nước ngoài khác đã đúng khi lo lắng về hình
phạt nào đang chờ đợi họ nếu giấy tờ của họ hết hạn.
Một nguyên nhân
khác khiến các DDLĐVN hoang mang là vì không nắm rõ tình hình thực tế của đại dịch
ở Thái Lan. Mặc dù nhiều DDLĐVN có thể đàm thoại bằng tiếng Thái để có thể làm
việc ở đây, nhưng hầu hết không nắm vững tiếng Thái chính thức. Rất ít người
theo dõi các tờ báo tiếng Thái và hầu hết không có đủ trình độ thông thạo tiếng
Thái để hiểu rõ các khía cạnh khác nhau liên quan đến đại dịch ở nước này. Họ
lo ngại về mức độ nghiêm trọng của đại dịch ở Thái Lan và địa phương nơi họ
đang cư trú, những vấn đề mà họ không dễ dàng có được câu trả lời do không
thông thạo ngôn ngữ. Những người khác lo lắng về những dịch vụ mà chính phủ
Thái Lan sẽ cung cấp cho họ trong trường hợp họ có các triệu chứng Covid-19 hoặc
nếu họ đã nhiễm vi-rút. Ngay cả những thông tin như xét nghiệm ở đâu cũng không
được đa số người Việt Nam biết đến.
Vì nhiều bất ổn về
an toàn và sinh kế ở Thái Lan, nhiều người Việt Nam quyết định đổ xô sang biên
giới để làm thủ tục về nước. Tuy nhiên, trong việc này họ cũng không biết liệu
mình có thể đến kịp không, vì mặc dù đã có thông báo chính thức rằng các trạm
kiểm soát xuất nhập cảnh giữa Thái Lan và Lào đã đóng cửa, các quan chức tại
các trạm kiểm soát vẫn từng ngày cho phép mọi người đi qua một số trạm kiểm
soát nhất định. Do đó, hầu hết đều đã tìm đến những trạm kiểm soát trong một thời
gian rất ngắn sau khi nhận được thông báo về hoạt động của trạm. Có người lên
đường chỉ với niềm hy vọng rằng trạm kiểm soát sẽ vẫn mở cửa để họ có thể xuất
cảnh vào ngày hôm sau. Trong sự việc này, họ không thể trông chờ vào bất kỳ
kênh thông tin chính thức nào.
Một số người Việt
Nam đã chọn đi các chuyến bay cuối cùng giữa Thái Lan và Việt Nam. Tuy nhiên,
nhiều người không biết cách kiểm tra các chuyến bay chưa bị hủy, không biết cách
đặt vé, và ngay cả khi họ đã đặt chỗ nhưng không biết cách cập nhật thông tin về
tình trạng chuyến bay của mình.
Vào thời điểm mà
ngay cả chính các hãng hàng không cũng phải đối mặt với sự bất ổn và không thể
cung cấp thông tin cập nhật về tình trạng các chuyến bay của họ, thì người Việt
Nam lại càng khó có được thông tin cần thiết. Cuối cùng, nhiều người đã mua vé
máy bay nhưng rốt cuộc chuyến bay lại bị hủy. Tuy nhiên, rất ít người biết cách
liên hệ với các hãng hàng không để được hoàn tiền lại. Nếu việc đặt vé máy bay
đã khó, thì việc nhận được tiền hoàn lại từ các công ty hàng không sẽ là một
thách thức còn phức tạp hơn. Cuối cùng, hàng ngàn DDLĐVN cũng đã rời khỏi được
Thái Lan trước khi các trạm kiểm soát nhập cư đóng cửa hoàn toàn và tất cả các
chuyến bay bị hủy bỏ.
Vào ngày
26-3-2020, Thái Lan đã đóng cửa khẩn cấp với lệnh giới nghiêm ban đêm được áp dụng
trên toàn quốc. Những người chọn ở lại phải đối mặt với tình trạng không có việc
làm, không có thu nhập, mơ hồ về nguy cơ nhiễm vi-rút và tình trạng thị thực của
họ. Trong khi chính phủ Thái Lan tiến hành nhiều biện pháp hỗ trợ khác nhau để
giảm thiểu những khó khăn do đại dịch mang lại cho công dân của mình, thì những
người nước ngoài như các DDLĐVN về cơ bản vẫn phải tự lực xoay xở chống đỡ.
Một nữ công nhân
nhập cư L.T, thường làm hầu bàn ở Bangkok cho biết: trong tháng phong tỏa đầu
tiên, cô không có việc làm và không có tiền để mua thức ăn. “Tôi phải nhờ đến sự
giúp đỡ của những khách hàng thân thiết để có thức ăn,” cô nói. “Mãi sau này,
tôi mới tìm được công việc tạm thời để sống qua ngày”.
P.N.X. và chồng
cô làm nghề bán trái cây. Theo chị P., trong thời gian phong tỏa, họ không thể
làm việc và không có thu nhập. Tuy nhiên, chi phí hằng ngày của họ tăng lên do
ba đứa con nhỏ của họ ở Việt Nam không được đi học, đồng nghĩa với việc phải
chi nhiều tiền hơn để mua thức ăn, sữa và những thứ khác cho chúng.
Một thanh niên
tên B.B cho biết, trong thời kỳ đại dịch, anh chỉ được ăn một bữa trong ngày.
“Chủ nhà sắp đuổi chúng tôi đi vì chúng tôi chưa trả tiền thuê nhà trong ba
tháng. Tôi đã tìm kiếm việc làm mỗi ngày, nhưng không thành công,” anh nói.
T.D.N. làm việc tại
tỉnh Chacheongsao cho biết trong thời gian xảy ra đại dịch, anh thường phải ra
sông đánh cá để có thức ăn.
Chị B.N. đã trở lại
Phuket một tháng trước khi đại dịch ập đến hòn đảo du lịch nổi tiếng ở miền nam
Thái Lan. Bởi vì Phuket là một trong những tỉnh bị ảnh hưởng nặng nề nhất bên
ngoài Bangkok, hòn đảo này đã bị phong tỏa và những người có sinh kế phụ thuộc
chủ yếu vào du lịch đã bị ảnh hưởng rất nhiều. Chị B.N cho biết đã phải nhờ vào
gạo, mì gói và trứng phát chẩn từ thiện để tồn tại.
Chị T.D., làm
móng tay ở Bangkok, chia sẻ rằng, trong suốt thời gian cô sống ở Thái Lan, đây
là lúc khó khăn nhất. Bởi vì tất cả các thẩm mỹ viện buộc phải đóng cửa trong
thời gian cao điểm của đại dịch ở Thái Lan, cô ấy không có việc làm thường
xuyên. Cô phải làm nhiều công việc lặt vặt khác nhau để tồn tại. “Tôi nghĩ tôi
sẽ rơi vào tình trạng trầm cảm nặng nề nếu không có ơn Chúa,” cô nói. “Tôi rất
biết ơn sự giúp đỡ của các linh mục Công giáo, những người đã giúp tôi một số
tiền và những lời động viên.”
Chị N.P. không chỉ
không thể làm việc trong đợt bùng phát coronavirus, mà cô còn phải chịu đựng nỗi
đau mất mát người chồng đã qua đời tại Việt Nam vì bạo bệnh. Thật không may, vì
không có cách nào để rời khỏi Thái Lan và trở về Việt Nam, cô ấy đã phải chịu
tang chồng từ nơi xa. “Tôi rất đau đớn vì tôi không thể có mặt ở nhà để dự đám
tang của chồng mình,” cô nói.
Gian khổ trong đại
dịch không chỉ là hoàn cảnh của các DDLĐVN. Người Thái cũng phải đối mặt với những
thách thức to lớn. Tuy nhiên, người Thái có trợ cấp xã hội khi sống ở đất nước
của họ và có thể nhận được nhiều loại biện pháp cứu trợ khác nhau từ chính phủ,
ví dụ như 5.000 baht được phát cho những người có thu nhập thấp. Trong trường hợp
nhiễm vi-rút, người Thái tất nhiên sẽ được đảm bảo điều trị miễn phí. Người dân
Thái Lan cũng được hưởng lợi từ các mạng lưới hỗ trợ gia đình, cộng đồng, tôn
giáo và xã hội trong thời gian khủng hoảng. Trong khi đó, các DDLĐVN không có
các nguồn và phương tiện hỗ trợ này.
Giống như phần lớn
người nước ngoài nhập cảnh vào Thái Lan bằng thị thực tạm thời hoặc các chương
trình miễn thị thực, các DDLĐVN cũng phải giải quyết tình trạng thị thực của họ.
Đầu tháng 4, khi lệnh cấm vận đã có hiệu lực được gần hai tuần, trong khi các
quốc gia khác như Nhật Bản và Campuchia đã tuyên bố đặc xá cho người nước ngoài
mắc kẹt tại nước này, thì chính phủ Thái Lan vẫn đang xem xét có nên làm điều
tương tự hay không. Cơ quan xuất nhập cảnh và các quan chức chính phủ khác bày
tỏ sự miễn cưỡng đối với hành động đặc xá vì lý do an ninh quốc gia. Vào cuối
tháng Ba và đầu tháng Tư, những người nước ngoài có thị thực sắp hết hạn bị Cục
quản lý xuất nhập cảnh Thái Lan yêu cầu phải đến đại sứ quán của họ để xin thư
xác nhận không thể về nước - mặc dù thực tế là tất cả các sân bay và các giao lộ
biên giới đất liền đều đã đóng cửa. Sau đó, họ phải mang giấy xác nhận đến văn
phòng nhập cư để được gia hạn tối đa 30 ngày cho thời gian lưu trú tại Vương quốc
Thái. Yêu cầu này là một bất tiện lớn đối với người nước ngoài và đối với các
DDLĐVN nói riêng. Đối với người di cư Việt Nam, việc phải đến Đại sứ quán ở
Bangkok hoặc Tổng lãnh sự quán ở tỉnh Khon Kaen (Đông Bắc Thái Lan) có nghĩa là
phải tốn chi phí đi lại và thủ tục giấy tờ đáng kể.
Đối với nhiều người,
đó không phải là một chuyến đi ngắn mà là một chuyến đi kéo dài nhiều giờ bằng
xe đò và taxi. Ví dụ, một người ở tỉnh Nakhon Pathom sẽ phải thực hiện một chuyến
đi kéo dài sáu giờ đến tỉnh Khon Kaen để nhận được thư từ Tổng lãnh sự quán Việt
Nam. Mặc dù Đại sứ quán Việt Nam đồng ý cấp thư xác nhận bằng phương thức điện
tử, nhưng đa số các DDLĐVN tại Thái Lan không biết cách điền vào mẫu yêu cầu và
gửi đến Đại sứ quán qua email. Sau khi có được giấy xác nhận của đại sứ quán,
giấy tờ này phải được đưa đến văn phòng xuất nhập cảnh để xin gia hạn. Tuy
nhiên, thủ tục giấy tờ tại văn phòng nhập cư không đơn giản và không thống nhất.
Các văn phòng xuất nhập cảnh ở Bangkok và ở các tỉnh dường như còn yêu cầu các
giấy tờ không giống nhau. Tại một số văn phòng xuất nhập cảnh cấp tỉnh, người nộp
đơn được yêu cầu phải nộp rất nhiều hồ sơ. Một văn phòng khác thậm chí còn yêu
cầu người nộp đơn cung cấp một bức ảnh “tự chụp” được chụp tại nơi tạm trú để
làm bằng chứng về việc lưu trú.
Bất chấp tất cả
những rắc rối đó, văn phòng xuất nhập cảnh tỉnh bang thường chỉ đóng dấu 10
ngày hoặc 14 ngày, và yêu cầu người nộp đơn phải thực hiện chuyến đi thứ hai nếu
họ muốn phần còn lại của 30 ngày cho phép. Đối với một người Việt Nam sống ở
Bangkok, tất cả các thủ tục giấy tờ và chi phí đi lại cộng lại để được gia hạn
sẽ lên tới từ 120 đến 150 USD - một phần ba thu nhập một tháng của nhiều
DDLĐVN.
Điều đáng nói hơn
là tất cả những rắc rối này đều diễn ra ở đỉnh điểm của làn sóng dịch Covid-19 ở
Thái Lan. Người nước ngoài phải đổ xô đến các văn phòng xuất nhập cảnh trên khắp
nước Thái để được đóng dấu giấy tờ trong khi công chúng được khuyến cáo ở nhà
và thực hành giãn cách xã hội để giảm lây nhiễm.
May mắn thay, các
nhà lãnh đạo Thái Lan cuối cùng cũng đã nhận ra rằng việc buộc người nước ngoài
phải tụ tập đông đúc tại các văn phòng nhập cư là mối nguy hiểm cho cả người nước
ngoài cũng như các nhân viên nhập cư, nên đã quyết định áp dụng biện pháp đặc
xá vào ngày 8-4-2020. Dự luật này ban đầu cho phép người nước ngoài được đặc xá
cho đến ngày 30-4-2020, sau đó sẽ được gia hạn cho đến cuối tháng 7, và cuối
cùng cho đến ngày 26-9 trong đợt thứ hai. Tuy nhiên, vào thời điểm đó, vô số
người nước ngoài đã phải chi tiền đến nỗi họ không còn đủ tiền để trang trải
cho cuộc sống. Cho dù có nhiều DDLĐVN sẵn sàng chi tiền và liều mạng để có thể
gia hạn thị thực, nhiều người khác cho hay nếu phải chi tiền cho việc gia hạn
giấy tờ thì họ sẽ không còn gì để sống.
Vào ngày
25-4-2020, các quan chức y tế Thái Lan đã báo cáo có 53 trường hợp nhiễm
Covid-19 mới, mức tăng lớn nhất trong một ngày kể từ ngày 9-4. Trong số 53 trường
hợp, 42 trường hợp là người nước ngoài đang bị giam giữ tại trung tâm nhập cư ở
tỉnh Songkhla, miền nam Thái Lan. Theo các quan chức nhập cư, những người nước
ngoài này đã bị giam giữ do nhập cảnh trái phép. Những người bị nhiễm bao gồm
các cá nhân đến từ Myanmar (34), Việt Nam (3), Malaysia (2), Yemen (1),
Campuchia (1) và Ấn Độ (1).
Mặc dù các quan
chức lần ra nguồn gốc lây nhiễm từ một nhân viên xuất nhập cảnh làm việc tại trạm
kiểm soát biên giới Sadao, nhưng trên mạng xã hội, nhiều người Thái Lan - bức
xúc với số ca nhiễm tăng đột biến sau vài tuần có xu hướng giảm - đã cáo buộc rằng
những người nước ngoài đã cố tình nhập cảnh mặc dầu biết mình dương tính với
vi-rút corona. Theo họ, những người này biết rằng các dịch vụ y tế của Thái Lan
có chất lượng cao nên muốn lợi dụng các dịch vụ bằng cách nhập cảnh trái phép.
Điều đáng chú ý
là, những người nước ngoài khác như người Trung Quốc và châu Âu - bị phát hiện
dương tính với Covid-19 khi nhập cảnh vào Thái Lan hoặc khi ở trong nước Thái -
lại không bị cáo buộc về âm mưu này. Một số dường như không biết rằng vào thời
điểm đó ở Việt Nam, tỷ lệ nhiễm thấp hơn nhiều so với ở Thái Lan và cũng chưa
có báo cáo tử vong do Covid-19. Hơn nữa, ở những nước như Campuchia, chính phủ
tuyên bố rằng người nước ngoài có thể được điều trị miễn phí. Vào ngày
27-3-2020, báo Khmer Times đưa tin rằng có 2 người Indonesia - biết rằng mình
dương tính với Covid-19 - đã từ Thái Lan nhập cảnh chui vào Campuchia vì biết rằng
họ có thể được điều trị miễn phí ở Campuchia. Trong bài phát biểu trước các
nhân viên y tế tình nguyện ngày 25-3-2020, Thủ tướng Hun Sen xác nhận rằng tất
cả bệnh nhân Covid-19 sẽ được điều trị trong nước bất kể họ thuộc quốc tịch
nào. Ngược lại, ở Thái Lan, bệnh nhân sẽ phải trả tiền điều trị có thể lên tới
hàng trăm nghìn THB. Tuy nhiên, sự thật này đã không ngăn được một số người
Thái đưa ra cáo buộc nói trên. Luận điệu và tâm lý này lại càng tăng cao khi đã
có thêm 18 người bị giam giữ từ cùng một trung tâm được báo cáo có kết quả xét
nghiệm dương tính với Covid-19 vào ngày 4-5-2020 - là ngày mà không có người
Thái nào được báo cáo là bị nhiễm bệnh. Có vẻ như ít người hiểu rằng chùm lây
nhiễm rất có thể đã xảy ra bởi vì những người nước ngoài đang bị giam giữ tập
thể, điều này khiến cho khả năng lây lan vi rút sẽ cao hơn nhiều. Thay vì đã bị
nhiễm trước khi nhập cảnh Thái Lan, đúng hơn là việc phải sống chung trong điều
kiện tồi tệ đã góp phần làm cho những người nói trên bị nhiễm bệnh.
Theo Văn phòng
Cao ủy Nhân quyền Liên Hợp Quốc (OHCHR), các trung tâm giam giữ người nhập cư
được coi là “những địa điểm có nguy cơ cao làm lây lan các bệnh truyền nhiễm,
vì chúng thường quá đông đúc và thiếu dịch vụ chăm sóc sức khỏe, thiếu thức ăn
nước uống, thiếu vệ sinh sạch sẽ”.
Tình tiết liên
quan đến chùm lây nhiễm tại Trung tâm giam giữ người nhập cư Songkhla - ở một mức
độ nào đó - đã minh họa những tiêu cực mà những người di cư nước ngoài phải đối
mặt, trong số đó có những DDLĐVN không có giấy tờ. Các yếu tố tạo ra cảm giác bị
gạt ra ngoài lề xã hội sẽ gia tăng trong các tình huống mà lợi ích và phúc lợi
của người dân địa phương được coi là ưu tiên, hoặc lợi ích của người nước ngoài
được coi là mâu thuẫn với lợi ích của người dân địa phương. Thông thường, tình
trạng bị gạt ra ngoài lề xã hội chỉ đơn giản là do người lao động nhập cư bất hợp
pháp không có sự giúp đỡ từ các cơ chế hỗ trợ của chính quyền hoặc từ các tổ chức
phi chính phủ.
5. Sử dụng
mạng xã hội để bớt bị gạt ra ngoài lề xã hội
Đối mặt với căng
thẳng tinh thần và thể chất trong cuộc sống lao động nhập cư không giấy tờ, các
DDLĐVN ở Thái Lan đã đương đầu với tình trạng bị gạt ra ngoài lề xã hội chủ yếu
bằng cách sử dụng mạng xã hội.
Trong những năm gần
đây, Facebook đã trở nên phổ biến ở Việt Nam, nơi cũng là một trong những thị
trường phát triển nhanh nhất của Facebook trên thế giới. Tính đến tháng 1-2020,
tỷ lệ sử dụng Internet của Việt Nam là 70% với 68,17 triệu người dùng. Trong số
này, 65 triệu người cũng sử dụng mạng xã hội. Facebook là nền tảng mạng xã hội
phổ biến nhất tại Việt Nam, được 61 triệu người sử dụng hầu hết với điện thoại
di động. Đến tháng 7-2020, con số này đã tăng lên 64 triệu. Việt Nam đứng thứ 7
trên thế giới về số lượng người dùng Facebook. Phần lớn người dùng Facebook ở
Việt Nam là người trẻ, trong độ tuổi từ 18 đến 34 tuổi. Đa số sử dụng Facebook
để đăng ảnh, xem video và trò chuyện với người khác thông qua ứng dụng Facebook
Messenger.
Một số người Việt
Nam cũng sử dụng Facebook như một phương tiện để bán hàng trực tuyến. Vì
Facebook cũng rất phổ biến ở Thái Lan - quốc gia có 50 triệu người dùng trong tổng
số 70 triệu dân, nên các DDLĐVN ở Thái Lan cũng hầu hết chọn sử dụng Facebook.
Người ta sẽ khó
tìm thấy bất kỳ DDLĐVN nào mà không có tài khoản Facebook. Nhiều người cho biết
họ sử dụng Facebook tới 5 hoặc 6 giờ một ngày trong cũng như sau giờ làm việc.
Bởi vì các DDLĐVN làm việc cả ngày và đêm tùy thuộc vào loại việc làm, nên người
ta có thể thấy họ trực tuyến vào mọi giờ trong ngày. Đối với các DDLĐVN ở Thái
Lan, Facebook không chỉ là một cách để chia sẻ hình ảnh, suy nghĩ và giữ kết nối
với bạn bè và gia đình, mà còn là một nguồn tin tức và giải trí vì nhiều bài
báo và video clip được chia sẻ trên nền tảng này.
Việc sử dụng
Facebook cách phổ biến của các DDLĐVN ở Thái Lan đã khiến mạng xã hội có một
vai trò khác biệt trong đời sống của nhóm này. Nó đã trở thành cách phổ biến nhất
để họ giữ liên lạc với các thành viên trong gia đình ở Việt Nam. Ngoài ra, vì một
số lượng lớn DDLĐVN là cha mẹ trẻ, đã để con cái của họ cho ông bà, cô chú ở
nhà chăm sóc, các ứng dụng nhắn tin di động là cách rẻ nhất và thuận tiện nhất
để theo dõi các sinh hoạt, hành vi hằng ngày của con cái họ, cũng như duy trì mối
quan hệ cha mẹ - con cái. Trong số các DDLĐVN, cũng có nhiều trường hợp vợ hoặc
chồng ở trong nước, còn người phối ngẫu thì đi làm việc ở nước ngoài. Do đó,
các ứng dụng nhắn tin di động cũng là những phương cách chính yếu mà các cặp vợ
chồng sử dụng để duy trì liên lạc thường xuyên.
Ngoài việc đóng
vai trò một phương thế liên lạc với các thành viên trong gia đình, Facebook còn
là một phương tiện mà các DDLĐVN có thể thu thập các thông tin mà trước đây chỉ
có thể được truyền miệng. Hiện nay, có hàng chục trang Facebook cộng đồng hoặc
nhóm đã được thành lập nhằm mục đích thảo luận và trao đổi thông tin.
Một nhóm có tên
“Hội Người Việt tại Thái”, tính đến tháng 2-2021, có hơn 103.000 thành viên và
là nhóm FB lớn nhất nhắm đến các vấn đề liên quan đến cộng đồng người Việt di
cư tại Thái Lan. Một trong những người tạo và quản trị viên chính của trang là
Hà Văn Phúc. Theo anh Phúc, trang này được thành lập cách đây 9 năm - khi trong
cộng đồng người Việt di cư ở Thái Lan lúc ấy chưa có nhiều nỗ lực tạo ra một điều
gì đó nhằm phục vụ cho cả cộng đồng.
Khi trang FB này
ngày càng trở nên nổi tiếng và có sức ảnh hưởng trong cộng đồng, các trang khác
cũng được tạo ra, dẫn đến có gần chục trang loại này. Các thành viên chủ yếu đến
với diễn đàn vì những vấn đề chung, chẳng hạn như tìm việc làm, tìm kiếm sự hỗ
trợ về thị thực hoặc cách gửi tiền về nước và quảng cáo hàng hóa và dịch vụ của
mình. Nhiều thành viên còn đăng tải những tin tức, thông tin ảnh hưởng trực tiếp
đến cuộc sống của các DDLĐVN tại Thái Lan. Tin tức về các cuộc truy quét của cảnh
sát đang hoặc có thể sẽ xảy ra, và người Việt Nam bị bắt vì sai phạm, luôn được
các thành viên nhiệt tình chia sẻ và bình luận.
Các bài đăng khác
nhận được sự quan tâm lớn của các thành viên là tin tai nạn giao thông trong đó
có nạn nhân là người Việt Nam. Trong năm 2019, một số vụ tai nạn nghiêm trọng
đã xảy ra liên quan đến xe của công ty CPS, dịch vụ đưa người đi gia hạn thị thực
lớn nhất cho người lao động Việt Nam và Lào tại Thái Lan. Những vụ tai nạn này
đã dẫn đến thương tích hoặc tử vong cho hàng chục hành khách của công ty, cả Việt
Nam và Lào. Các clip tin tức và hình ảnh về những vụ tai nạn này đã được đăng tải
trên nhiều diễn đàn khác nhau, sau đó được nhiều thành viên chia sẻ, dẫn đến việc
một số thành viên lên tiếng kêu gọi tẩy chay công ty.
Trước những dư luận
xấu mà công ty đang nhận được từ khách hàng, CPS đã phản hồi bằng cách tổ chức
một cuộc họp với các quản trị viên trang Facebook nổi tiếng và người lao động
Việt Nam vào ngày 31-8-2019 để làm rõ những hiểu lầm và thảo luận cách cải thiện
dịch vụ. CPS cũng trả lời các vấn đề thắc mắc bằng một tuyên bố chính thức sau
cuộc họp, được đăng trên các trang nhóm Facebook khác nhau cũng như trang
Facebook mới được tạo của họ.
Theo Hà Văn Phúc,
“Một trong những mục đích của việc thành lập ‘Hội người Việt tại Thái' là tạo
ra một nền tảng để gặp gỡ và hỗ trợ lẫn nhau trong cuộc sống cũng như trong các
vấn đề liên quan đến công việc. Các mục tiêu của nền tảng này đã được hiện thực
hóa ở một mức độ nhất định vì nó đã trở thành nơi mà nhiều người tìm đến để tìm
kiếm tình bạn khi họ cô đơn, sự trợ giúp khi họ gặp khó khăn và hạnh phúc khi họ
gặp phải nỗi buồn trong cuộc sống.”
Ngoài các trang cộng
đồng chung, còn có các trang Facebook tập trung vào tôn giáo. Ví dụ, trang cộng
đồng “Liên Hiệp Công Giáo Việt Nam tại Thái Lan” (Hiệp hội Công giáo Việt Nam tại
Thái Lan) đóng vai trò là trang chính thức của Ủy ban Mục vụ dành cho Người di
cư Việt Nam dưới sự bảo trợ của Hội đồng Giám mục Thái Lan. Nội dung của trang
chủ yếu bao gồm lịch Thánh lễ hằng tuần hoặc hình ảnh của các cử hành phụng vụ
quan trọng đã diễn ra.
Trước khi có hiện
tượng mạng xã hội, ban tổ chức Thánh lễ đã phải phụ thuộc vào việc phổ biến bằng
việc truyền miệng. Thời đại của mạng xã hội đã làm cho công việc này trở nên dễ
dàng hơn nhiều, và các Thánh lễ - vào những dịp quan trọng như lễ Phục sinh,
Giáng sinh hoặc lễ Đức Mẹ về trời - thường quy tụ được từ 1.000 đến 2.000 người
tham dự. Các thánh lễ của nhóm nhỏ, diễn ra tại các nhà thờ khác nhau hằng tuần,
có số lượng người tham dự từ vài chục đến vài trăm người.
Đối với các
DDLĐVN Công giáo, được tiếp cận với nhà thờ và các bí tích bằng ngôn ngữ mẹ đẻ
là một nguồn hỗ trợ tinh thần quý giá, giúp giảm thiểu cảm giác bị gạt ra ngoài
lề xã hội hằng ngày. Do không thông thạo tiếng Thái, đặc biệt là ngôn ngữ trang
trọng dùng trong phụng vụ và nghi lễ, người lao động Việt Nam không thể tham dự
các Thánh lễ bằng tiếng Thái và không thể hiểu được nhiều điều. Nhiều người cũng
cho biết không thể lãnh nhận bí tích hòa giải do khó khăn về ngôn ngữ. Đối với
bí tích này, họ đặc biệt phụ thuộc vào các linh mục Việt Nam để có thể lãnh nhận
bí tích thường xuyên. Việc sử dụng mạng xã hội để thông báo địa điểm và thời
gian của các thánh lễ ở nhiều nơi khác nhau có nghĩa là ngày càng có nhiều
DDLĐVN Công giáo có thể lãnh nhận các bí tích để nuôi dưỡng đời sống thiêng
liêng.
Có thể thấy rõ
vai trò của mạng xã hội trong việc giảm thiểu thiệt thòi cho các DDLĐVN trong
thời kỳ khủng hoảng. Bệnh tật đột ngột, hoặc chấn thương và tử vong do tai nạn
giao thông và lao động là điều phổ biến nơi các DDLĐVN. Khi thảm kịch xảy ra, họ
gần như không nhận được sự hỗ trợ từ chính quyền địa phương hay bất kỳ tổ chức
xã hội nào ở Thái Lan. Vì là người không có giấy tờ nên người lao động Việt Nam
sẽ không dám tìm đến người Thái để được giúp đỡ.
Do đó, trong thời
điểm khủng hoảng, mạng xã hội trở thành kênh ưu tiên để các DDLĐVN tiếp cận với
nhau nhằm tìm kiếm sự hỗ trợ và giúp đỡ. Những lời chia buồn, nỗ lực quyên góp
và gợi ý về cách giải quyết vấn đề đều được truyền đạt thông qua mạng xã hội. Những
quyên góp như vậy có thể nhận được từ 20.000 baht đến vài trăm nghìn baht, tùy
thuộc vào mức độ nghiêm trọng của sự việc. Khi các DDLĐVN tìm đến nhau để hỗ trợ,
họ thường sử dụng câu ngạn ngữ nổi tiếng của Việt Nam là “lá lành đùm lá rách”.
Những người khác thêm vào câu nói quen thuộc này, “Lá rách đùm lá tả tơi”, để
nói lên rằng mặc dù hoàn cảnh của các DDLĐVN không tốt nhưng họ luôn có thể
chia sẻ với những người thậm chí còn khốn khó hơn.
6. Sử dụng
mạng xã hội để giảm thiểu tình trạng bị gạt ra ngoài lề xã hội trong đại dịch
Covid-19
Thời gian từ giữa
tháng Ba đến nửa đầu tháng Tư năm 2020 chính là lúc hỗn loạn và căng thẳng nhất
đối với các DDLĐVN ở Thái Lan như đã nói ở trên. Căng thẳng gia tăng do nhiều
người không được tiếp cận thông tin chính thức về tình hình liên tục thay đổi -
cả đại dịch nói chung và các vấn đề ảnh hưởng trực tiếp đến họ khi là lao động
nhập cư ở nước ngoài.
Thông tin mà họ
nhận được qua mạng xã hội thường không rõ ràng hoặc mâu thuẫn. Ví dụ, trong khoảng
thời gian từ 20 đến 25-3- 2020, một nguồn thông tin nói rằng các trạm kiểm soát
nhập cư đã bị đóng cửa trong khi một nguồn khác tuyên bố rằng vẫn còn mở.
Về việc gia hạn
thị thực, trước khi thông báo đặc xá chính thức được công bố, cũng có nhiều
thông tin trái chiều. Một số nguồn tin cho rằng tất cả người nước ngoài phải đến
văn phòng nhập cư để gia hạn thời gian lưu trú tại Vương quốc trong khi những
người khác tuyên bố rằng không cần làm việc này. Mọi người có thể để thị thực hết
hạn cho đến khi các trạm kiểm soát biên giới mở cửa trở lại, sau đó có thể đi
gia hạn mà không bị phạt. Đây là một vấn đề gây căng thẳng và lo lắng cho các
DDLĐVN vì mặc dù họ muốn tiết kiệm thời gian và tiền bạc cũng như thực hiện việc
giãn cách xã hội, nhưng một quyết định sai lầm cũng có thể khiến họ bị bắt, bị
trục xuất và bị đưa vào danh sách đen.
Chính trong thời
gian này, sự hiện diện tích cực của tôi trên mạng xã hội đã giúp ích rất nhiều
cho các DDLĐVN. Là một người đã tham gia hỗ trợ tinh thần và xã hội cho các
DDLĐVN ở Thái Lan trong hơn 13 năm, tôi được biết đến nhiều trong cộng đồng.
Nhiều người biết đến tôi thông qua các hoạt động liên quan đến Giáo hội, nhưng
nhiều người khác, đặc biệt là những người ngoại đạo biết tôi nhờ vào mạng xã hội.
Trong thời kỳ cao
điểm của đại dịch Covid-19 ở Thái Lan, tôi đã hết sức tích cực hiện diện trên mạng
bằng cách đăng các bản cập nhật về đại dịch có liên quan nhiều nhất đến hiện trạng
của các DDLĐVN. Tôi lùng sục khắp các cổng thông tin bằng tiếng Thái và tiếng
Anh, theo dõi các cuộc họp báo hằng ngày từ Trung tâm Kiểm soát Dịch bệnh, giữ
liên lạc với Đại sứ quán Việt Nam tại Thái Lan và thường xuyên liên lạc với nhiều
người Việt Nam có thể có thông tin về một số vấn đề. Mục đích là có những tin tức
chính xác, cập nhật và có liên quan để truyền tải đến người Việt Nam, nhiều người
trong số họ đã tuyên bố rằng: họ sẽ không tin bất cứ điều gì được công bố trên
các trang mạng xã hội của người Việt cho đến khi họ nhìn thấy nó trên trang mạng
xã hội của tôi.
Đồng thời, hộp
thư đến trên Facebook của tôi tràn ngập các truy vấn liên quan đến những thứ
tôi đã đăng hoặc những vấn đề mà mọi người đọc hoặc nghe ở nơi khác và muốn nhờ
tôi “xác minh”. Các bài viết của tôi cũng được chia sẻ rộng rãi đến các trang
cá nhân và cộng đồng khác. Lúc ấy tôi đã trở thành như một kênh tin tức riêng
cho các DDLĐVN khi họ cố gắng tìm hiểu tình hình và đưa ra quyết định về những
vấn đề quan trọng đối với cuộc sống và sinh kế của họ.
Trong thời gian đại
dịch tiếp diễn, nhiều DDLĐVN đã rơi vào tình huống thảm khốc mà không được giúp
đỡ bao nhiêu. Một số người không còn tiền thuê nhà và tiền ăn vì không có việc
làm.
Một cặp vợ chồng
sống ở vùng Đông Bắc Thái Lan đã sinh con thiếu tháng phải đưa đến phòng săn
sóc đặc biệt (ICU) vì đứa trẻ sơ sinh không thể tự thở. Một nam thanh niên khác
làm việc ở miền nam Thái Lan bị ốm vì sốt xuất huyết và chết trong bệnh viện
trên đảo Samui. Một người thứ ba cũng chết tại một bệnh viện ở Bangkok sau một
vụ tai nạn hỏa hoạn xảy ra trong căn phòng trọ của anh ta.
Trong tất cả những
trường hợp này cũng như những trường hợp khác, người thân và bạn bè của họ luôn
liên hệ với tôi qua mạng xã hội để xin giúp đỡ. Trong mỗi trường hợp chi phí phải
trả đều rất cao, và những người ở trong những tình huống đó dường như không có
cách nào có thể tự trang trải. Vì vậy, họ tìm tới tôi, và tôi lại tìm đến mạng
xã hội để kêu gọi sự giúp đỡ như tôi đã làm vô số lần trong quá khứ. Mặc dù
đang ở giữa đại dịch mà phần lớn các DDLĐVN dường như chỉ đủ sống qua ngày bằng
tiền tiết kiệm hoặc bất cứ thứ gì họ có thể kiếm được từ những công việc lặt vặt,
nhiều người đã đáp lại lời kêu gọi bằng những khoản quyên góp nhỏ để giúp đỡ đồng
hương. Tóm lại, không có các kênh chính thức để được hỗ trợ, trong đại dịch
Covid-19, các DDLĐVN ở Thái Lan đã tương trợ lẫn nhau thông qua nhịp cầu của mạng
xã hội.
7. Các
lĩnh vực cần quan tâm
Mặc dù các DDLĐVN
trẻ tuổi ở Thái Lan đã học cách sử dụng mạng xã hội một cách tích cực, đặc biệt
dùng nó như nguồn hỗ trợ xã hội và tinh thần trong những hoàn cảnh khó khăn,
nhưng không thể phủ nhận rằng vẫn còn nhiều lĩnh vực cần phải quan tâm. Phần lớn
các vấn đề liên quan đến việc lạm dụng cũng như sử dụng mạng xã hội một cách
thiếu thận trọng trong cuộc sống cá nhân lẫn tập thể.
- Thiếu sự giám sát của người
lớn trong việc sử dụng mạng xã hội
Mạng xã hội là một
thế giới tràn ngập sự phấn khích và vô số cơ hội cho những mối quan hệ mới,
nhưng cũng đầy nguy hiểm. Những người trẻ, bất kể họ là sinh viên hay lao động
nhập cư, cần có sự giám sát và hướng dẫn của người lớn để điều chỉnh việc sử dụng
và tham gia vào các hoạt động mạng xã hội.
Khi những người
trẻ sống trong môi trường gia đình hoặc môi trường khác có sự hướng dẫn của người
lớn, những nguy cơ liên quan đến việc sử dụng mạng xã hội không được kiểm soát
có thể được giảm thiểu. Thật không may, trong khi nhiều DDLĐVN ở Thái Lan là
thanh niên, thậm chí cả thiếu niên, họ thường không được hưởng sự giám sát của
người lớn. Họ sống xa gia đình, làm việc ở một đất nước khác, thường sống với bạn
bè và người quen cùng lứa tuổi. Một số có thể sống với anh chị lớn tuổi hơn,
nhưng bản thân họ là những công nhân nhập cư cũng phải làm việc nhiều giờ và
không phải lúc nào cũng có thời gian hoặc đủ kiên nhẫn để theo dõi sát những gì
người trẻ đang làm. Do thiếu sự giám sát cần thiết, nhiều lao động trẻ nhập cư
cuối cùng dành quá nhiều thời gian trên mạng xã hội hoặc đăng các bài viết
không phù hợp, bao gồm cả các hoạt động phát trực tiếp những chuyện bị luật
pháp Thái Lan cấm, chẳng hạn như mổ chó hoang để nhậu nhẹt, tiệc tùng ồn ào với
bạn bè trong phòng trọ...
- Thiếu sự kiểm soát và điều
tiết
Như đã nói trên
đây, có rất nhiều nhóm Facebook phục vụ cộng đồng người Việt di cư sang Thái
Lan. Tuy nhiên, hầu hết các nhóm này không thuộc bất kỳ tổ chức chính thức nào,
mà do chính các DDLĐVN trẻ lập ra. Do đó, các quản trị viên trẻ của các trang
này trở thành người thiết lập các quy tắc cho trang FB và kiểm duyệt nội dung.
Thật không may,
do tính chất không chính thức của các trang FB và thiếu cơ chế rõ ràng để điều
chỉnh nội dung, một số trang trở thành một nơi hỗn hợp bao gồm các bài viết tin
tức cộng đồng, quảng cáo sản phẩm, tự giới thiệu tìm kiếm bạn bè, tin đồn và
các cuộc tấn công cá nhân. Trong một số trang, các câu hỏi nghiêm túc do một
thành viên đăng lại được trả lời bằng những bình luận thô lỗ và vô ích. Những lời
xúc phạm và tấn công cá nhân khá phổ biến trong nhiều trao đổi của các nhóm
này, khiến các trang nhiều khi trở nên như một “cái chợ hỗn loạn” hơn là một
“không gian cộng đồng kỹ thuật số”.
- Sử dụng mạng xã hội không
đúng cách
Ngày càng có nhiều
DDLĐVN trẻ ở Thái Lan lên các trang nhóm hoặc trang cá nhân Facebook để đăng những
bài tố cáo những người có thành tích lừa đảo. Những bài đăng này hầu như luôn
bao gồm nhiều hình ảnh của người bị cáo buộc là sai phạm, thường được lấy từ
trang Facebook cá nhân của họ. Đôi khi có cả ảnh photo hộ chiếu của họ nữa. Những
người bị đưa lên mạng xã hội này bị buộc tội về nhiều thứ, bao gồm ăn cắp tài sản,
không trả nợ, không trả tiền cho một dịch vụ nào đó, không thực hiện theo một số
điều đã thỏa thuận và thậm chí là cướp người yêu của người khác.
Dĩ nhiên những
bài đăng này luôn thu hút được nhiều sự quan tâm cũng như nhiều bình luận từ cư
dân mạng, phần lớn đứng về phía cá nhân thực hiện bài đăng và lên án cá nhân bị
tố cáo sai phạm. Mặc dù những bài đăng này rất phổ biến trên các trang cá nhân
và trang nhóm của các DDLĐVN ở Thái Lan, nhưng hầu như không thể xác minh tính
chính xác của những lời buộc tội này.
Cho dù một số bài
đăng cũng ghi lại những trao đổi giữa người tố cáo và người bị buộc tội để làm
bằng chứng, người ta khó có thể nắm được toàn bộ câu chuyện để có thể đưa ra một
kết luận hợp lý. Tuy nhiên, chắc chắn là những lời buộc tội này, nếu sai sự thật,
có thể vô cùng phương hại đến danh tiếng và tình cảm cho người bị buộc tội. Thật
không may, đối với các DDLĐVN trẻ ở Thái Lan, dường như có rất ít cơ chế được
thiết lập để điều chỉnh và xác minh tính chính xác của những bài đăng được chia
sẻ và bình luận rộng rãi này.
- Thiếu thẩm quyền để xác minh
thông tin
Từ những gì đã
trình bày trên đây, có thể thấy rằng thông tin chính xác, đặc biệt là về các vấn
đề liên quan đến cuộc sống và sinh kế của các DDLĐVN trẻ ở Thái Lan, là một nhu
cầu đặc biệt quan trọng trong cộng đồng này.
Trên thực tế, rất
nhiều thông tin được đăng tải trên mạng xã hội nói về những điều đang diễn ra
trong xã hội Thái Lan nói chung và về cộng đồng người Việt di cư nói riêng. Những
bài viết này có được là vì có một số lao động nhập cư Việt Nam có trình độ tiếng
Thái tương đối tốt, nắm rõ những diễn biến đang diễn ra trong nước.
Ví dụ, vào cuối
năm 2020, khi Thái Lan trải qua đợt đại dịch coronavirus lần thứ hai, Ủy ban Mục
vụ về Người di cư Việt Nam (Hội đồng Giám mục Thái Lan) đã quyết định ra mắt
trang Facebook “đường dây nóng và thông tin” bằng tiếng Việt để cập nhật các mối
liên lạc - cập nhật và thông tin về đại dịch cho người Việt Nam sống ở Thái
Lan. Trang này được quản lý bởi một bạn trẻ Việt Nam từng tốt nghiệp một trường
đại học của Thái Lan và hiện đang làm việc trong bộ phận nhân sự của Đại học
Assumption ở Bangkok. Các bài đăng trên trang luôn ghi rõ nguồn thông tin, ví dụ
các hãng thông tấn đáng tin cậy của Thái Lan, vì thế các thông tin có thể được
xác minh.
Tuy nhiên, đây
không phải là trường hợp của đại đa số các bài đăng được thực hiện trên các
trang mạng xã hội khác, nơi thông tin không phải lúc nào cũng đi kèm với các
nguồn có thể được kiểm chứng. Kết quả là, rất nhiều thông tin được đưa ra cho cộng
đồng mà không có bất kỳ cá nhân hoặc tổ chức có thẩm quyền nào thực hiện vai trò
xác định và điều chỉnh tin tức giả mạo và thông tin sai lệch. Trong khi một số
cá nhân đáng tin cậy trong cộng đồng như tôi có thể được tin cậy để có thông
tin chính xác, tôi không có thời gian để cập nhật tin tức liên tục trên trang mạng
xã hội của mình. Và tôi chắc chắn cũng không có thời gian và cũng không muốn
truy cập để kiểm tra các bài đăng trong các trang mạng xã hội khác.
8. Thảo
luận và Kết luận
Dựa trên kinh
nghiệm của các DDLĐVN trẻ ở Thái Lan cũng như vai trò và tác động của mạng xã hội
đối với cuộc sống của họ, có thể đưa ra một số điểm nổi bật như sau:
- Mạng xã hội có
thể đóng vai trò như một nền tảng, ở nơi đó, cộng đồng di cư ở nước ngoài có thể
tìm được những thông tin liên
quan đến hoàn cảnh
của họ, dựa vào các nguồn tin đáng tin cậy, cho dù không chính thức, để giúp họ
có những quyết định đúng đắn về các vấn đề quan trọng liên quan đến cuộc sống
và sinh kế. Mạng xã hội có thể có hiệu quả trong những vấn đề cấp bách vì thông
tin có thể được chuyển tiếp nhanh hơn nhiều, với phạm vi tiếp cận rộng rãi nơi
các nhóm đối tượng. Các phương tiện truyền thông thông thường thì chuyển tải rất
nhiều thông tin, nhưng các thông tin đó không phải lúc nào cũng hướng đến một
nhóm cụ thể. Trong khi đó, bản chất của mạng xã hội đã cho phép tạo ra các cộng
đồng riêng biệt, nơi có thể chia sẻ các thông tin phù hợp cũng như các vấn đề
liên quan trực tiếp đến từng cộng đồng nhỏ.
- Mạng xã hội có
thể đóng vai trò là kênh kêu gọi hỗ trợ về tinh thần và vật chất cho người lao
động nhập cư không có giấy tờ ở nước ngoài khi không có các kênh hỗ trợ chính
thức do hoàn cảnh khó khăn của họ. Kinh nghiệm của các DDLĐVN cho thấy: nhiều
người cảm thấy rằng họ không thể tìm kiếm sự hỗ trợ chính thức, ngay cả khi họ
không làm gì sai, chẳng hạn như khi họ là nạn nhân của tai nạn giao thông hoặc
đối xử bất công của người sử dụng lao động. Thông qua nền tảng trực tuyến, các
DDLĐVN có thể được thông báo về quyền lợi của họ trong các vấn đề và hoàn cảnh
cụ thể.
- Mạng xã hội có
thể giúp các cộng đồng đang chịu thiệt thòi giảm bớt được cảm giác bị gạt ra
ngoài lề xã hội. Cảm nhận được nối kết với nhau do các nền tảng này tạo ra đã
cho phép họ chia sẻ, thảo luận và tìm kiếm thông tin về các vấn đề liên quan trực
tiếp đến đời sống của họ. Trên mạng xã hội, các DDLĐVN có thể bày tỏ một cách cởi
mở sự thất vọng vì không thể tìm được việc làm, sự bức xúc khi bị bắt và bị tống
tiền, và thậm chí tìm kiếm lời khuyên về cách đối phó với cảnh sát và nhân viên
nhập cư trong những tình huống khó khăn. Do đó, mạng xã hội có thể tạo ra một
không gian riêng biệt để các DDLĐVN thảo luận và chia sẻ những vấn đề liên quan
cụ thể đến hoàn cảnh của mình, thậm chí cả những vấn đề bị coi là bất hợp pháp
theo luật quản lý công việc và di trú của quốc gia nơi họ cư trú.
- Mạng xã hội có
thể tạo sức mạnh cho cộng đồng bằng cách tạo điều kiện cho một số cá nhân có
tinh thần nhiệt huyết có phương tiện để chia sẻ thông tin hữu ích cho cộng đồng
cũng như khuyến khích các thành viên hành động vì lợi ích chung, đặc biệt là
trong biến cố khủng hoảng. Mặc dù hầu hết các DDLĐVN tập trung vào việc kiếm sống,
nhưng vẫn có một số cá nhân quan tâm đến lợi ích của cộng đồng và luôn nỗ lực
phục vụ cộng đồng theo khả năng của mình.
- Các nhà lãnh đạo
cộng đồng và tôn giáo, khi không thể trực tiếp hiện diện với cộng đồng ở nước
ngoài vì lý do xã hội, pháp lý, địa lý... vẫn có thể hiện diện với cộng đồng
cách trực tuyến. Sự hiện diện này đặc biệt quan trọng trong đại dịch Covid-19 vì
xã hội đang thực thi và cổ võ nhiều biện pháp để kiểm soát sự lây lan của vi
rút. Cha Giuse Nguyễn Mạnh Hà, một linh mục dòng Đa Minh đang phục vụ cộng đồng
Công giáo DDLĐVN tại Tổng giáo phận Bangkok, đã sử dụng mạng xã hội để phát các
thánh lễ trực tuyến trong thời kỳ đại dịch, vì các nhà thờ ở Thái Lan buộc phải
đóng cửa. Kể từ đó, Cha Hà cũng bắt đầu đăng tải các bài giảng hằng tuần lên
trang Facebook Liên Hiệp để mở rộng sự hiện diện của mình trên mạng. Đại dịch
đã cho thấy sự thiết yếu của mạng xã hội đối với công việc của các nhà lãnh đạo
xã hội và tôn giáo, đặc biệt khi họ chỉ có thể hiện diện với những người họ có
bổn phận chăm sóc thông qua phương tiện internet.
- Khi nghiên cứu
về các cộng đồng yếu thế như cộng đồng di dân, trong thời đại hiện nay, ta
không thể đánh giá thấp vai trò của mạng xã hội như là một nguồn cung cấp thông
tin nội bộ về kinh nghiệm, tâm tư, và chiến lược đối phó của họ. Mặc dù mạng xã
hội chứng tỏ có một vai trò quan trọng trong các sự việc hằng ngày, nhưng mức độ
quan trọng của mạng xã hội cao hơn nhiều trong thời điểm khủng hoảng - là lúc cần
thông tin và nhiều hình thức hỗ trợ khẩn cấp.
- Mặc dù mạng xã
hội đã được chứng minh là một công cụ mạnh mẽ để nâng cao cuộc sống của các
DDLĐVN trẻ, nhưng có rất nhiều mối nguy hiểm liên quan đến mạng xã hội đối với
cộng đồng trẻ này khi những người trẻ không được hướng dẫn đầy đủ để sử dụng và
tham gia mạng xã hội cách thận trọng và khôn ngoan, khi nó bị lạm dụng để tấn
công người khác, khi nó trở thành kênh truyền bá thông tin sai sự thật và không
chuẩn xác. Giống như mọi người trẻ ở bất cứ nơi đâu, việc sử dụng mạng xã hội
vì lợi ích và thăng tiến cá nhân cần phải có sự giám sát và hướng dẫn đầy đủ từ
những người có thẩm quyền. Việc thiếu sự hiện diện của những người lớn có vai trò
về thẩm quyền và hướng dẫn đạo đức giữa những người trẻ di cư Việt Nam ở Thái
Lan (và cả ở những nơi khác nữa) là một vấn đề quan trọng cần được các nhà lãnh
đạo tôn giáo và xã hội quan tâm giải quyết.
Tóm lại, mạng xã
hội đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hiện đại; tuy nhiên,
bản chất của cách thức sử dụng nó sẽ khác nhau tùy theo từng bối cảnh. Mặc dù mục
đích kết nối với người khác chính là ý tưởng cơ bản về mạng xã hội, nhưng các
cách thức cụ thể - mà phương tiện này phục vụ cho từng nhóm và từng cá nhân - sẽ
chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi hoàn cảnh xã hội, kinh tế, văn hóa và tôn giáo của
nơi mà mỗi nhóm hoặc cá nhân đang sống. Trong trường hợp của các DDLĐVN trẻ ở
Thái Lan, mạng xã hội, đặc biệt là Facebook và ứng dụng Messenger của nó có thể
được coi là một phương tiện để giảm thiểu thiệt thòi, không chỉ đơn thuần là một
nền tảng để giao tiếp xã hội hoặc để kết nối với gia đình và bạn bè. Việc nhận
ra tiềm năng của mạng xã hội - như một phương tiện làm giảm thiểu tình cảnh bị
đẩy ra ngoài lề xã hội - có thể mang lại lợi ích to lớn cho các thành viên của
cộng đồng, đặc biệt cho các nhà hoạt động cũng như các nhà lãnh đạo xã hội và
tôn giáo - là những người luôn quan tâm đến quyền lợi của những người yếu thế.
Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGMVN, Số 125 (Tháng 7 & 8 năm 2021)
WHĐ (15.01.2022)