WHĐ (07.07.2023) – Vào dịp lễ trọng kính Thánh Giuse ngày 19 tháng 3 năm 2018, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã ban hành Tông huấn “Hãy Vui Mừng Hoan Hỉ - Gaudete et Exsultate” về ơn gọi nên thánh trong thế giới ngày nay. Sau đây là toàn văn bản dịch Việt ngữ Tông huấn này được thực hiện bởi Đức cha Gioan Đỗ Văn Ngân và Ủy ban Giáo lý Đức tin trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam.
Tải về file PDF, file Word và file Anh-Việt tại đây!
TÔNG HUẤN
HÃY VUI MỪNG HOAN HỈ
(Gaudete et Exsultate)
CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG
PHANXICÔ
VỀ ƠN GỌI NÊN THÁNH TRONG THẾ GIỚI NGÀY NAY
Hãy vui mừng hoan hỉ
1. “ANH EM HÃY VUI MỪNG HOAN HỈ” (Mt 5,12), Chúa Giêsu nói như thế với những người bị bách hại hoặc
chịu sỉ nhục vì Người. Chúa đòi chúng ta mọi sự, nhưng cũng ban cho chúng ta sự
sống đích thật, tức hạnh phúc mà chúng ta được dựng nên để lãnh nhận. Người muốn
chúng ta nên thánh chứ không muốn chúng ta bằng lòng với một cuộc sống nhạt nhẽo
và tầm thường. Tiếng gọi nên thánh đã có ngay từ những trang đầu của Thánh Kinh
dưới nhiều cách thức khác nhau. Chúng ta thấy điều ấy được diễn tả trong lời Đức
Chúa phán cùng Abraham: “Hãy bước đi trước mặt Ta, và hãy sống hoàn hảo” (St 17,1).
2. Những điều trình bày sau đây không có ý làm một khảo luận
về sự thánh thiện, bao hàm những định nghĩa và những phân biệt giúp hiểu rõ chủ
đề quan trọng này, cũng không phải là một bàn luận về những phương thế khác
nhau để nên thánh. Mục đích khiêm tốn của tôi một lần nữa là nêu lên lời mời gọi
nên thánh theo một phương cách thực tiễn cho thời đại chúng ta, một thời đại vốn
chất chứa nhiều rủi ro, thách đố và cơ hội. Vì Chúa đã chọn mỗi người chúng ta
“để trước thánh nhan Ngài, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của
Ngài” (Ep 1,4).
CHƯƠNG I - ƠN GỌI NÊN THÁNH
Các thánh khuyến khích và đồng hành với chúng ta
3. Thư gửi tín hữu Do Thái trình bày một số chứng từ khuyến
khích chúng ta “kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho chúng ta” (12,1). Thư ấy
nhắc đến Abraham, Sara, Môsê, Ghiđêôn và những người khác (x. 11,1-12,3). Trước
hết, thư ấy mời gọi chúng ta nhận ra “một đám mây nhân chứng vĩ đại” (12,1)
thúc đẩy chúng ta không ngừng tiến về mục tiêu. Những chứng nhân này có thể bao
gồm những người mẹ, những người bà hoặc những người thân yêu khác của chúng ta
(x. 2 Tm 1,5). Đời sống của họ có thể
không luôn luôn hoàn hảo, nhưng giữa những lỗi lầm và thiếu sót họ vẫn tiến bước
và đã làm vui lòng Chúa.
4. Giờ đây trước nhan Chúa, các thánh vẫn giữ mối ràng buộc
yêu thương và hiệp thông với chúng ta. Sách Khải Huyền chứng thực điều đó khi
nói về sự chuyển cầu của các vị tử đạo: “Tôi thấy dưới bàn thờ, linh hồn của những
người bị giết vì đã rao giảng Lời Thiên Chúa và đã làm chứng. Họ lớn tiếng kêu:
‘Lạy Chúa chí thánh và chân thật, cho đến bao giờ Ngài còn trì hoãn, không xét
xử?’” (Kh 6,9-10). Mỗi người chúng ta
có thể nói: “Được vây quanh bởi các bạn hữu Chúa, dìu dắt và hướng dẫn... tôi
không phải mang vác điều mà một mình tôi không thể mang vác nổi. Tất cả các
thánh của Thiên Chúa bảo vệ, nâng đỡ và dẫn đưa tôi”[1].
5. Các tiến trình phong chân phước và hiển thánh nhìn nhận
những dấu hiệu của nhân đức anh hùng, sự hy sinh mạng sống trong việc tử đạo,
và cả những trường hợp trong đó đời sống là một cuộc hiến thân không ngừng cho
tha nhân, thậm chí cho đến chết. Điều này cho thấy một mẫu gương noi theo Đức
Kitô đáng được các tín hữu ngưỡng mộ.[2]
Chẳng hạn, chúng ta có thể nghĩ về Chân phước Maria Gabriella Sagheddu, người
đã dâng hiến cuộc đời mình cho sự hiệp nhất các Kitô hữu.
Các vị thánh “ở kề bên ta”
6. Chúng ta không chỉ nghĩ đến những vị đã được phong chân
phước hay hiển thánh. Chúa Thánh Thần ban dồi dào sự thánh thiện nơi dân thánh
trung tín của Thiên Chúa, vì “Thiên Chúa muốn thánh hóa và cứu độ con người
không như những cá nhân riêng rẽ không chút liên đới với nhau, nhưng Ngài muốn
làm cho họ thành một dân tộc để họ nhận biết Ngài trong chân lý và phụng sự
Ngài trong thánh thiện”[3]. Trong lịch sử cứu độ, Chúa
đã cứu một dân tộc. Chúng ta không bao giờ là chính mình cách trọn vẹn trừ phi
chúng ta thuộc về một dân tộc. Đó là lý do tại sao chẳng ai được cứu độ một
mình, như một cá nhân riêng rẽ. Đúng hơn, Thiên Chúa lôi kéo chúng ta đến với
Ngài trong chính mạng lưới tương quan liên vị phức hợp tồn tại trong cộng đồng
nhân loại. Thiên Chúa muốn đi vào đời sống và lịch sử của một dân tộc.
7. Tôi thích chiêm ngắm sự thánh thiện nơi sự kiên trì của
dân Thiên Chúa: nơi những người cha người mẹ nuôi dưỡng con cái với tình thương
bao la, nơi những người nam và nữ làm việc vất vả để lo cho gia đình, nơi những
bệnh nhân và các tu sĩ cao niên không bao giờ đánh mất nụ cười. Trong sự kiên
trung hằng ngày của họ, tôi nhìn thấy được sự thánh thiện của Hội Thánh đang
chiến đấu. Sự thánh thiện ấy rất thường được nhìn thấy nơi những người sống
ngay bên chúng ta, chính những người đang sống giữa chúng ta phản chiếu sự hiện
diện của Thiên Chúa. Chúng ta có thể gọi họ là những người thuộc “tầng lớp giữa
của con đường nên thánh”[4].
8. Chúng ta hãy để cho mình được thúc bách bởi những dấu chỉ
của sự thánh thiện mà Thiên Chúa tỏ cho thấy qua các thành viên khiêm hạ nhất
trong đoàn dân Chúa. “Họ cũng tham dự vào phận vụ ngôn sứ của Đức Kitô, bằng
cách thể hiện khắp nơi chứng tá sống động về Ngài, cách đặc biệt bằng đời sống
đức tin và đức ái”[5]. Như Thánh Têrêsa Bênêđicta
Thánh Giá đã nêu ra, chúng ta cần lưu tâm đến sự thật này, đó là một lịch sử thật,
đã được hình thành bởi rất nhiều người trong họ. Như thánh nữ đã viết: “Những
gương mặt ngôn sứ và thánh thiện vĩ đại nhất bước ra từ đêm đen tăm tối nhất.
Nhưng phần đông, dòng chảy đời sống thần bí vẫn còn ẩn khuất. Thực ra, có những
bước ngoặt quyết định nhất trong lịch sử thế giới, chắc chắn được định đoạt bởi
những tâm hồn mà chẳng sử sách nào đề cập đến. Và chúng ta sẽ chỉ khám phá ra
những tâm hồn này, những tâm hồn mà chúng ta thọ ơn trong những bước ngoặt quyết
định của đời sống riêng mình, khi tất cả những gì ẩn khuất được tỏ lộ”[6].
9. Sự thánh thiện là diện mạo hấp dẫn nhất của Hội Thánh. Nhưng ngay cả bên ngoài Hội Thánh Công giáo và trong những bối cảnh rất khác biệt, Chúa Thánh Thần vẫn khơi dậy “những dấu chỉ sự hiện diện của Ngài, để giúp đỡ những người đi theo Đức Kitô”[7]. Thánh Gioan Phaolô II nhắc nhở chúng ta rằng “việc làm chứng cho Đức Kitô đến mức đổ máu ra đã trở thành một gia sản chung của người Công giáo, Chính thống, Anh giáo và Tin lành”[8]. Trong cuộc tưởng niệm mang tính đại kết rất cảm động được tổ chức tại Colosseum vào Đại Năm Thánh 2000, ngài đã tuyên bố rằng: các vị tử đạo là “một di sản lẫy lừng hơn mọi nguyên nhân của sự chia rẽ”[9].
Chúa mời gọi
10. Tất cả những điều nói trên đều quan trọng. Nhưng với
Tông huấn này, trên hết tôi muốn nhấn mạnh đến lời mời gọi nên thánh mà Chúa ngỏ
với mỗi người chúng ta, lời mời gọi mà Ngài cũng ngỏ lời cách riêng tư với bạn:
“Hãy nên thánh, vì Ta là Đấng Thánh” (Lv
11,44; x. 1 Pr 1,16). Công đồng
Vaticanô II đã tuyên bố điều này cách rõ ràng: “Được trao ban nhiều phương tiện
cứu độ dồi dào và cao quý như thế, tất cả các tín hữu, dù trong hoàn cảnh hay bậc
sống nào, cũng đều được Chúa kêu gọi, để mỗi người mỗi cách, vươn tới sự thánh
thiện trọn hảo như chính Chúa Cha là Đấng trọn lành”[10].
11. Công đồng nói: “Mỗi người mỗi cách”. Chúng ta không nên
nản chí trước các mẫu gương thánh thiện dường như không thể đạt đến được. Một số
chứng tá có thể hữu ích và gợi hứng, nhưng không phải để chúng ta sao chép, vì
điều đó có thể đưa chúng ta lạc khỏi nẻo đường riêng mà Thiên Chúa có ý dành cho
mỗi người chúng ta. Điều quan trọng là mỗi tín hữu phân định nẻo đường riêng của
mình, thể hiện chính mình tốt nhất, tức những ân huệ riêng tư nhất mà Thiên
Chúa đã đặt để trong tâm hồn họ (x. 1 Cr
12,7) hơn là cố gắng cách vô vọng để bắt chước một điều gì đó không dành cho
mình. Tất cả chúng ta đều được mời gọi trở nên những chứng nhân, nhưng có nhiều
cách thức trong cuộc sống thực tế để làm chứng[11].
Thật vậy, khi Thánh Gioan Thánh Giá, nhà thần bí vĩ đại viết tập Khúc Linh Ca,
ngài đã muốn tránh đặt những quy tắc cứng nhắc và chặt chẽ cho mọi người. Ngài
giải thích rằng các vần thơ của ngài được viết ra để người ta có thể vận dụng
“mỗi người mỗi cách”[12], vì sự sống của Thiên Chúa
được truyền thông “cho người theo cách này kẻ theo cách khác”[13].
12. Trong những hình thức khác nhau ấy, tôi muốn nhấn mạnh rằng
“ơn thiên phú của người nữ” biểu tỏ trong những kiểu thức thánh thiện đầy nữ
tính, là phương cách thiết yếu phản ánh sự thánh thiện của Thiên Chúa trong thế
giới này. Thật vậy, vào những thời mà người nữ hay bị bỏ rơi hoặc coi thường nhất,
Chúa Thánh Thần đã làm nổi lên những thánh nữ mà sức hấp dẫn của các ngài đã
đem lại sức sống tâm linh mới mẻ và những cải cách quan trọng trong Giáo Hội.
Chúng ta có thể kể đến Thánh Hildegard thành Bingen, Thánh Bridget, Thánh
Catarina thành Siêna, Thánh Têrêsa thành Avila và Thánh Têrêsa thành Lisieux.
Nhưng tôi cũng nghĩ đến tất cả những người phụ nữ vô danh hoặc bị quên lãng, mà
mỗi người mỗi cách, đã nâng đỡ và làm biến đổi các gia đình cũng như cộng đồng
nhờ sức mạnh chứng tá của họ”.
13. Điều đó động viên và khích lệ chúng ta dâng hiến tất cả
và đón nhận kế hoạch độc đáo mà Thiên Chúa đã định liệu cho mỗi người chúng ta
từ muôn thuở: “Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi;
trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hiến ngươi” (Gr 1,5).
Cũng dành cho bạn nữa
14. Để nên thánh không cần phải trở thành giám mục, linh mục
hay tu sĩ. Chúng ta thường có khuynh hướng nghĩ rằng sự thánh thiện chỉ dành
cho những ai có khả năng rút khỏi những công việc thường ngày để dành nhiều thời
gian cho cầu nguyện. Không phải như thế. Tất cả chúng ta đều được mời gọi nên
thánh bằng đời sống yêu thương và làm chứng trong mọi việc mình làm, ở nơi mình
sống. Bạn được gọi để sống đời thánh hiến ư? Hãy nên thánh bằng việc vui sống
trọn lời cam kết của bạn. Bạn đã kết hôn ư? Hãy nên thánh bằng đời sống yêu
thương và chăm sóc cho chồng hoặc vợ mình, như Đức Kitô yêu thương và chăm sóc
Hội Thánh. Bạn đang làm việc kiếm sống ư? Hãy nên thánh bằng cách làm việc liêm
chính và hết khả năng để phục vụ anh chị em mình. Bạn là cha mẹ hay là ông
bà ư? Hãy nên thánh bằng việc kiên trì giáo dục con cháu cách thức bước theo
Chúa Giêsu. Bạn đang nắm giữ một địa vị quyền bính ư? Hãy nên thánh bằng cách
làm việc phục vụ cho công ích và từ bỏ tư lợi.[14]
15. Hãy để cho ân sủng Bí tích Thánh Tẩy trổ sinh hoa trái
trên con đường nên thánh của bạn. Hãy mở ra cho Thiên Chúa mọi sự; hãy hướng về
Ngài trong mọi hoàn cảnh. Đừng nản chí, vì sức mạnh của Chúa Thánh Thần có thể
giúp bạn làm điều này, và thực ra, sự thánh thiện xét cho cùng chính là hoa quả
của Chúa Thánh Thần trong đời sống của bạn (x. Gl 5, 22-23). Khi bạn cảm thấy bị cám dỗ đắm chìm trong yếu đuối,
hãy ngước mắt lên nhìn Đức Kitô chịu đóng đinh và nói: “Lạy Chúa, con là kẻ tội
lỗi đáng thương, nhưng Chúa có thể làm việc diệu kỳ cho con nên tốt hơn một
chút”. Trong Hội Thánh, vốn thánh thiện nhưng bao gồm những tội nhân, bạn sẽ
tìm thấy mọi điều mình cần để lớn lên trên con đường của sự thánh thiện. Chúa
đã ban tặng cho Giáo Hội Thánh Kinh, các Bí tích, những nơi thánh, những cộng
đoàn sống động, chứng từ của các thánh và một vẻ đẹp đa dạng phát xuất từ tình
yêu của Thiên Chúa, “tựa cô dâu lộng lẫy điểm trang” (Is 61,10).
16. Sự thánh thiện mà Chúa mời gọi bạn hướng tới sẽ lớn lên
qua những cử chỉ nhỏ bé. Đây là một ví dụ: một phụ nữ đi mua sắm, chị ấy gặp một
người hàng xóm và họ trò chuyện, một câu chuyện ngồi lê đôi mách bắt đầu. Nhưng
chị ấy tự nhủ: “Không, tôi sẽ không nói xấu ai cả”. Đây chính là một bước tiến
trong sự thánh thiện. Sau đó, về nhà, một đứa con của chị muốn chia sẻ với mẹ về
những hy vọng và ước mơ của nó, mặc dù mệt mỏi, chị vẫn ngồi xuống, ân cần và
kiên nhẫn lắng nghe. Đó là một hy sinh khác nữa biểu lộ sự thánh thiện. Sau đó,
chị cảm thấy chút lo âu, nhưng rồi nhớ đến tình thương của Đức Trinh Nữ Maria,
chị lấy tràng hạt ra và cầu nguyện với lòng tin. Lại một con đường khác để nên
thánh. Rồi sau đó, chị đi ra đường, gặp một người nghèo và chị dừng lại nói một
lời tử tế với người ấy. Lại thêm một bước nên thánh nữa!
17. Đôi khi, cuộc sống đặt ra những thách đố lớn. Qua đó,
Chúa mời gọi chúng ta một lần nữa hoán cải, để có thể làm cho ân sủng của Ngài
trở nên rõ ràng hơn trong cuộc sống của mình, “để chúng ta được thông phần vào
sự thánh thiện của Người” (Dt 12,10).
Có lúc khác, chúng ta chỉ cần tìm một cách thức làm cho hoàn hảo hơn những gì
mình đang làm: “Có những cảm hứng chỉ hướng tới việc hoàn thiện những điều bình
thường chúng ta làm trong cuộc sống bằng một cách thế phi thường”[15]. Khi Đức Hồng y Phanxicô
Xaviê Nguyễn Văn Thuận bị giam cầm, Ngài đã không lãng phí thời giờ chờ đợi
ngày được trả tự do. Thay vào đó, ngài đã chọn “sống giây phút hiện tại, và làm
cho những giây phút ấy tràn đầy tình thương”. Ngài quyết định: “Tôi sẽ tận dụng
những cơ hội có được mỗi ngày; tôi sẽ hoàn thành các việc thường ngày một cách
phi thường”[16].
18. Như thế, được ân sủng Thiên Chúa hướng dẫn, bằng nhiều cử
chỉ nhỏ bé, chúng ta xây dựng nên sự thánh thiện mà Thiên Chúa đã muốn cho
mình, không phải tự sức mình, nhưng, như “những người khéo quản lý ân huệ thiên
hình vạn trạng của Thiên Chúa” (1 Pr
4,10). Các giám mục Tân Tây Lan có lý khi dạy rằng: chúng ta có khả năng yêu
thương bằng tình yêu vô điều kiện của Chúa, bởi vì Chúa Phục Sinh đã chia sẻ sự
sống mạnh mẽ của Người cho sự sống mỏng giòn của chúng ta: “Tình yêu của Người
vô giới hạn và, một khi đã trao ban, thì không bao giờ Người lấy lại. Đó là
tình yêu không điều kiện và luôn trung tín. Để yêu như thế thật không dễ dàng
vì chúng ta thường quá yếu đuối. Tuy nhiên, chính việc cố gắng yêu thương như Đức
Kitô đã yêu thương chúng ta chứng tỏ rằng, Người đang chia sẻ sự sống phục sinh
của Người cho chúng ta. Bằng cách này, đời sống chúng ta biểu lộ quyền năng hoạt
động của Người – ngay giữa sự yếu đuối của con người”[17].
Sứ mạng của bạn trong Đức Kitô
19. Một Kitô hữu không thể nghĩ đến sứ mạng của mình nơi trần
thế mà không nhận ra sứ mạng ấy như một con đường nên thánh, vì “ý muốn của
Thiên Chúa là anh em nên thánh” (1 Tx
4,3). Mỗi vị thánh là một sứ mạng được Chúa Cha hoạch định để phản chiếu và thể
hiện cụ thể một khía cạnh nào đó của Tin Mừng, ở một thời điểm nào đó của lịch
sử.
20. Sứ mạng ấy có ý nghĩa trọn vẹn nhất của nó trong Đức
Kitô, và chỉ có thể hiểu được qua Người. Cốt lõi của sự thánh thiện, trong sự kết
hợp với Đức Kitô, là kinh nghiệm các mầu nhiệm cuộc đời của Người. Sự thánh thiện
này hệ tại ở sự kết hợp mình với cái chết và sự sống lại của Chúa bằng một cách
thức độc đáo và riêng tư, không ngừng chết đi và sống lại với Người. Nhưng nó
cũng có thể được tái hiện trong đời sống chúng ta các khía cạnh khác nhau về cuộc
đời trần thế của Đức Giêsu: đời sống ẩn dật, đời sống cộng đoàn, sự gần gũi với
những kẻ bị ruồng bỏ, sự nghèo khó và những cách thức khác, qua đó Người đã tỏ
bày tình yêu tự hiến của Người. Chiêm ngắm những mầu nhiệm này, như Thánh
Inhaxiô Loyola cho thấy, sẽ dẫn chúng ta đến chỗ hội nhập các mầu nhiệm ấy vào
trong những lựa chọn và thái độ của chúng ta.[18]
Bởi vì “mọi sự nơi cuộc đời của Đức Giêsu đều là dấu chỉ về mầu nhiệm bản thân
Người”[19], ”toàn thể cuộc sống của Đức
Kitô là mạc khải về Chúa Cha”[20], “toàn thể cuộc sống Đức
Kitô là mầu nhiệm cứu chuộc”[21], “toàn thể cuộc sống Đức
Kitô là mầu nhiệm “quy tụ muôn loài muôn vật”[22].
“Đức Kitô giúp ta sống trong Người tất cả những gì chính Người đã sống, và Người
đang sống những điều ấy trong chúng ta”[23].
21. Kế hoạch của Chúa Cha là Đức Kitô, và chính chúng ta
trong Đức Kitô. Xét cho cùng, chính Đức Kitô yêu thương trong chúng ta, vì “sự
thánh thiện không gì khác hơn là sống đức ái đến mức viên mãn”[24]. Như thế, “mức độ thánh thiện
của chúng ta được đo bằng tầm mức mà Đức Kitô lớn lên trong chúng ta, nghĩa là
theo mức độ chúng ta rập khuôn cả cuộc sống mình theo cuộc sống của Người, nhờ
sức mạnh của Chúa Thánh Thần”[25]. Mỗi vị thánh là một thông
điệp mà Chúa Thánh Thần kín múc từ kho tàng của Đức Giêsu Kitô ban cho dân
Ngài.
22. Để nhận biết lời Chúa muốn nói với chúng ta qua một
trong các vị thánh của Người, chúng ta không cần bận tâm đến các chi tiết, vì ở
đó chúng ta cũng có thể gặp những lỗi lầm và sa ngã. Không phải mọi điều một vị
thánh nói đều hoàn toàn trung thành với Tin Mừng; không phải mọi việc họ làm đều
chân thực hay hoàn hảo. Điều chúng ta cần chiêm ngắm là toàn thể đời sống của
các ngài, toàn thể hành trình tăng trưởng trong sự thánh thiện của các ngài, diện
mạo Đức Giêsu Kitô được phản chiếu phần nào khi ta hiểu thấu được trọn ý nghĩa
của các ngài xét như một con người.[26]
23. Đó là một lời nhắc nhớ quyết liệt đối với tất cả chúng
ta. Cả bạn nữa, bạn cũng cần phải nhìn toàn thể cuộc đời mình như một sứ mạng.
Hãy cố gắng thực hành như thế bằng cách lắng nghe Thiên Chúa trong cầu nguyện
và nhận biết các dấu chỉ mà Ngài ban cho bạn. Hãy luôn xin Chúa Thánh Thần soi
sáng cho biết Đức Giêsu mong đợi gì ở bạn, trong mọi lúc của cuộc sống bạn và
trong mọi quyết định bạn phải thực hiện, để phân định vị trí của điều ấy trong
sứ mạng bạn đã lãnh nhận. Hãy để Chúa Thánh Thần luyện đúc bạn nên mầu nhiệm
riêng biệt, có thể phản chiếu Đức Giêsu Kitô trong thế giới hôm nay.
24. Ước gì bạn có thể nhận ra ý nghĩa của lời ấy, nghĩa là sứ
điệp của Đức Giêsu mà Thiên Chúa muốn nói với thế giới qua cuộc đời bạn. Hãy để
mình được biến đổi. Hãy để Chúa Thánh Thần đổi mới con người bạn, nhờ đó điều tốt
đẹp này sẽ được thực hiện, và sứ mạng cao quý của bạn sẽ không gặp thất bại.
Thiên Chúa sẽ đưa sứ mạng này đến hoàn thành bất chấp những lỗi lầm và thiếu
sót của bạn, miễn là bạn không từ bỏ con đường yêu thương, nhưng vẫn luôn mở
lòng ra với ân sủng siêu nhiên của Ngài, là ân sủng có sức thanh lọc và chiếu
sáng.
Hoạt động thánh hóa
25. Cũng như bạn không thể hiểu Đức Kitô nếu đặt bối cảnh
bên ngoài vương quốc Người mang đến, cũng thế, sứ mạng riêng của bạn không thể
tách rời khỏi việc xây dựng vương quốc ấy: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên
Chúa và đức công chính của Ngài” (Mt
6,33). Việc bạn gắn bó chặt chẽ với Đức Kitô và ý muốn của Người đòi hỏi bạn phải
dấn thân cùng Người xây dựng Nước của tình yêu, công lý và hòa bình phổ quát ấy.
Chính Đức Kitô muốn thực hiện kinh nghiệm này với bạn, trong mọi nỗ lực và hy
sinh gắn liền với việc ấy và cả trong mọi niềm vui và sự phong phú mà nó đem lại.
Bạn không thể lớn lên trong sự thánh thiện mà không dấn thân, cả thân xác lẫn
linh hồn, cống hiến hết mình cho công cuộc này.
26. Quả là không lành mạnh thái độ thích yên lặng vì muốn
tránh gặp gỡ người khác, muốn bình an và yên tĩnh vì trốn tránh hoạt động, tìm
cầu nguyện mà không quan tâm đến phục vụ. Mọi sự đều có thể được chấp nhận và hội
nhập vào cuộc sống của chúng ta trong thế giới này, và trở nên một phần của nẻo
đường nên thánh. Chúng ta được mời gọi sống chiêm niệm ngay giữa lòng hoạt động
và nên thánh bằng cách thi hành sứ mạng riêng của mình một cách có trách nhiệm
và quảng đại.
27. Phải chăng Chúa Thánh Thần thúc đẩy chúng ta thi hành một
sứ mạng, và rồi lại yêu cầu ta từ bỏ sứ mạng ấy, hoặc ta không dấn thân tận
tình cho sứ mạng ấy, để giữ sự bình an nội tâm của mình? Nhưng có những lúc
chúng ta bị cám dỗ hạ thấp sự dấn thân trong mục vụ hoặc trong thế giới xuống
hàng thứ yếu, như thể đó là “những trò tiêu khiển” dọc nẻo đường nên thánh và bình
an nội tâm. Chúng ta có thể quên rằng “không phải đời sống có một sứ mạng,
nhưng đời sống là một sứ mạng”[27].
28. Thật rõ ràng, bất cứ điều gì được thực hiện trong bất
an, kiêu căng hoặc vì muốn gây ấn tượng cho người khác thì sẽ không dẫn đến sự
thánh thiện. Thách đố của chúng ta là thể hiện sự dấn thân của mình theo cách
thế sao cho những cố gắng của chúng ta mang ý nghĩa Tin Mừng và giúp chúng ta gắn
bó ngày càng mật thiết hơn với Đức Giêsu Kitô. Chẳng hạn, chúng ta thường nói về
linh đạo của giáo lý viên, linh đạo của linh mục giáo phận, linh đạo của người
lao động. Cũng vì lý do ấy, trong Tông huấn Evangelii Gaudium tôi đã kết luận bằng
cách nói về một linh đạo sứ mạng, trong Laudato Si’ tôi nói về linh đạo môi
sinh, và trong Amoris Laetitia tôi nói về linh đạo đời sống gia đình.
29. Điều đó không có nghĩa là xem nhẹ những khoảnh khắc yên
tĩnh, cô tịch và thinh lặng trước Thiên Chúa mà hoàn toàn ngược lại. Những đồ
dùng công nghệ luôn được cải tiến, sức cuốn hút của du lịch, những dãy hàng
tiêu dùng bất tận nhiều khi không còn chừa chỗ cho người ta nghe tiếng Chúa.
Chúng ta bị tràn ngập bởi những lời nói, những thú vui bên ngoài và những tiếng
ồn ào ngày càng gia tăng. Ngự trị ở đó không phải niềm vui, nhưng là sự bất mãn
của những con người mà cuộc sống của họ đã đánh mất ý nghĩa. Làm sao chúng ta lại
không thể nhận ra nhu cầu cần phải dừng lối sống cạnh tranh náo nhiệt này và
tìm lại không gian riêng tư cần thiết để có thể tâm sự chân tình với Thiên
Chúa? Làm được như thế đôi khi gặp nhiều gay go nhưng luôn luôn thu được ích lợi.
Có lúc nào đó, chúng ta sẽ phải đối diện với sự thật về chính con người mình và
để Chúa bước vào. Điều này chỉ có thể xảy ra khi “chúng ta ý thức mình đang sa
vào vực thẳm của một cám dỗ khủng khiếp, hoặc có cảm giác choáng váng vì đang đứng
bên bờ vực thẳm, bị một cám dỗ rất nguy kịch, hoặc cảm thấy mình hoàn toàn đơn
độc và bị bỏ rơi”[28]. Trong những hoàn cảnh như
thế, chúng ta tìm thấy những động lực lớn nhất thúc đẩy chúng ta sống đến cùng
các nhiệm vụ của mình.
30. Những trò tiêu khiển, vốn tràn ngập trong thế giới ngày
nay, còn khiến chúng ta có xu hướng tuyệt đối hóa thời gian rảnh rỗi của mình,
trong đó chúng ta có thể sử dụng vô độ các thiết bị giải trí hoặc cung ứng những
thú vui phù phiếm.[29] Hậu quả là chúng ta có thể
trở nên chán ngán sứ vụ của mình, dấn thân uể oải, tinh thần phục vụ quảng đại
và sẵn sàng của chúng ta bắt đầu suy giảm. Điều này làm biến chất kinh nghiệm
thiêng liêng của chúng ta. Liệu sự nhiệt thành thiêng liêng có song hành với sự
lười biếng uể oải trong việc loan báo Tin Mừng hay trong việc phục vụ tha nhân
không?
31. Chúng ta cần có một tinh thần thánh thiện có thể thấm nhập
cả sự cô tịch lẫn việc phục vụ của mình, thấm vào cuộc sống riêng tư lẫn hoạt động
Loan báo Tin Mừng của chúng ta, để mỗi giây phút có thể là một biểu hiện của
tình yêu tự hiến dưới ánh mắt Chúa. Bằng cách này, mỗi giây phút của đời ta có
thể là một bước tiến trên con đường nên thánh.
Sống động hơn, nhân bản hơn
32. Bạn đừng sợ nên thánh. Sự thánh thiện sẽ không tước đi
năng lực, sức sống hay niềm vui của bạn. Trái lại, bạn sẽ trở thành con người
mà Chúa Cha đã nhắm đến khi tạo dựng nên bạn, và bạn sẽ trung thành với bản ngã
sâu xa nhất của mình. Việc phụ thuộc vào Thiên Chúa sẽ giải thoát chúng ta khỏi
mọi hình thức nô lệ và giúp ta nhận ra phẩm giá cao quý của mình. Chúng ta thấy
điều này nơi Thánh Josephine Bakhita: “Bị bắt cóc và bị bán làm nô lệ lúc còn
bé khi mới lên bảy. Thánh nữ đã chịu đau khổ rất nhiều trong tay các chủ nhân độc
ác. Nhưng thánh nữ đã hiểu được sự thật thâm sâu này, là Thiên Chúa, chứ không
phải phàm nhân, mới là Chủ Nhân đích thật của mọi người, của mọi sự sống con
người. Kinh nghiệm này đã trở thành một nguồn khôn ngoan tuyệt vời cho người
con gái khiêm hạ này của Phi Châu”[30].
33. Theo mức độ mà mỗi Kitô hữu lớn lên trong sự thánh thiện,
họ sẽ mang lại phúc lộc nhiều hơn cho thế giới. Các giám mục miền Tây Phi đã dạy
chúng ta rằng “trong tinh thần Tân Phúc-Âm-hóa, chúng ta được mời gọi để cho
mình được Phúc-Âm-hóa và Phúc-Âm-hóa người khác qua việc cổ võ tất cả những người
đã lãnh nhận phép Rửa để anh chị em đảm nhận trách nhiệm của mình như là muối đất
và ánh sáng cho thế gian, ở bất cứ nơi nào anh chị em hiện diện”[31].
34. Bạn đừng sợ hướng tầm nhìn cao hơn, để cho mình được
Thiên Chúa yêu thương và giải thoát. Đừng sợ để Chúa Thánh Thần hướng dẫn bạn.
Sự thánh thiện không làm bạn kém nhân bản, vì đó là cuộc gặp gỡ giữa sự yếu đuối
của bạn và quyền năng của ân sủng Thiên Chúa. Vì theo lời của Léon Bloy, suy
cho cùng, “nỗi buồn thảm duy nhất của đời người là không nên thánh”[32].
CHƯƠNG II - HAI KẺ THÙ TINH VI CỦA SỰ THÁNH THIỆN
35. Ở đây, tôi muốn lưu ý hai hình thức thánh thiện sai lệch
có thể làm chúng ta lạc lối: thuyết Ngộ đạo (gnosticismo) và thuyết Pêlagiô
(pelagianesimo). Đây là hai lạc thuyết đã có từ những thế kỷ đầu của Kitô giáo,
nhưng vẫn tiếp tục có mặt cách đáng ngại trong thời đại chúng ta. Cả trong thời
đại chúng ta, nhiều Kitô hữu có lẽ không ý thức đã để mình bị lôi cuốn bởi những
ý tưởng lừa dối này. Chúng phản ảnh một thứ nội tại thuyết quy nhân
(immanentismo antropocentrico), được ngụy trang như một chân lý Công giáo.[33] Chúng ta cùng xem xét hai
hình thức bảo đảm mang tính giáo thuyết hay kỷ luật này, vốn làm nổi lên “một tầng
lớp ưu tú tự yêu và độc đoán (elitarismo narcisista e autoritario), theo đó,
thay vì loan báo Tin Mừng thì người ta lại phân tích và xếp loại những người
khác, và thay vì mở rộng cửa cho ân sủng người ta lại tốn hao sức lực cho việc
thẩm tra. Trong cả hai trường hợp, người ta không thật sự quan tâm đến Đức Kitô
Giêsu hay tha nhân”[34].
Thuyết Ngộ Đạo đương đại
36. Ngộ đạo thuyết giả định “một đức tin hoàn toàn chủ quan,
chỉ bận tâm đến một kinh nghiệm nào đó hoặc một tập hợp các lập luận và tri thức
được cho là có khả năng đem lại an ủi và soi sáng, nhưng rốt cuộc chỉ giam hãm
con người trong nội tại những lý lẽ hay tình cảm của mình mà thôi”[35].
Một trí năng không có Thiên Chúa và không có xác thể
37. Tạ ơn Chúa, xuyên suốt lịch sử của Hội Thánh, ta luôn thấy
rất rõ ràng là sự hoàn thiện của một con người được đo lường qua mức độ họ sống
đức ái, chứ không phải qua những thông tin hoặc tri thức họ có thể có được. “Những
người theo ngộ đạo thuyết” không hiểu điều này, bởi vì họ đánh giá tha nhân dựa
trên năng lực thấu hiểu chiều sâu của một số đạo lý nào đó. Họ quan niệm trí
năng tách biệt khỏi thể xác, và vì thế họ không thể thấu cảm được thân xác đau
khổ của Đức Kitô nơi tha nhân, họ như khép kín mình lại trong một từ điển bách
khoa về những khái niệm trừu tượng. Rốt cuộc, vì tách thể xác ra khỏi mầu nhiệm,
họ nghiêng chiều về “một Thiên Chúa mà không có Đức Kitô, một Đức Kitô không có
Hội Thánh, một Hội Thánh không có dân chúng”[36].
38. Hẳn đây là một quan điểm hời hợt hư ảo: ở bề mặt xem ra
có nhiều chuyển động, nhưng ở bề sâu tinh thần thì bất động và vô cảm. Tuy
nhiên, Ngộ đạo thuyết vẫn có một sức hấp dẫn lừa phỉnh đối với một số người, vì
hình thức tiếp cận của nó thì chặt chẽ và được cho là tinh tuyền, và tỏ ra có
thể đạt đến một sự hài hòa nào đó hoặc một trật tự nào đó bao trùm mọi sự.
39. Nhưng chúng ta phải thận trọng. Tôi không có ý ám chỉ
thuyết duy lý vốn thù nghịch với đức tin Kitô giáo. Quan điểm trên đây có thể tồn
tại trong Hội Thánh, cả nơi những giáo dân tại các giáo xứ lẫn nơi những người
giảng dạy triết học và thần học tại các trung tâm đào tạo. Những người theo khuynh
hướng ngộ đạo thuyết nghĩ rằng những giải thích của họ có thể giúp hiểu thấu trọn
vẹn toàn bộ đức tin và Tin Mừng. Họ tuyệt đối hóa các lý thuyết của họ và bắt
buộc người khác phải chấp nhận lý lẽ của họ. Việc dùng lý trí cách lành mạnh và
khiêm tốn nhằm để suy tư về giáo huấn thần học và luân lý của Tin Mừng là một
chuyện, còn giản lược giáo huấn của Đức Giêsu chỉ còn là một thứ lý lẽ lạnh
lùng và khắc nghiệt nhằm tìm cách thống trị mọi sự là một chuyện khác.[37]
Một học thuyết không mầu nhiệm
40. Ngộ đạo thuyết là một trong những ý thức hệ tệ hại nhất,
vì khi đề cao quá mức tri thức hoặc một kinh nghiệm nhất định, thuyết này xem
cái nhìn của mình về thực tại là hoàn hảo. Vì thế, có lẽ không ý thức về điều
đó, ý thức hệ này tự nuôi dưỡng chính mình và càng trở thành thiển cận hơn. Nó
có thể trở nên hết sức lầm lạc khi tự nguỵ trang thành một linh đạo xuất thể.
Vì Ngộ đạo thuyết, “do tự bản chất muốn làm chủ mầu nhiệm”[38],
dù là mầu nhiệm Thiên Chúa và ân sủng Ngài, hay mầu nhiệm đời sống của người
khác.
41. Khi một ai đó có câu trả lời cho mọi vấn đề, đó là dấu
hiệu họ không đi theo con đường đúng đắn. Họ có thể là tiên tri giả, sử dụng
tôn giáo cho những mục đích riêng, nhằm phục vụ cho những lý thuyết tâm lý và
trí thức của riêng mình. Thiên Chúa siêu việt vô cùng và Ngài luôn bất ngờ đối
với chúng ta, chúng ta không phải là người quyết định trong hoàn cảnh lịch sử
nào ta sẽ gặp gỡ Ngài. Bởi lẽ thời gian và nơi chốn chính xác của cuộc gặp gỡ
này không tùy thuộc chúng ta. Ai muốn mọi sự phải trở nên rõ ràng và chắc chắn,
người đó có tham vọng điều khiển sự siêu việt của Thiên Chúa.
42. Chúng ta cũng không thể tham vọng đòi xác định nơi nào
không có Thiên Chúa, bởi vì Thiên Chúa hiện diện cách mầu nhiệm trong đời sống
của mỗi người theo cách thức Ngài muốn, và chúng ta không thể chối bỏ điều này
bởi những xác quyết giả định của chúng ta. Ngay cả khi đời sống của một người
nào đó có vẻ hoàn toàn hư hỏng, ngay cả khi chúng ta nhìn thấy đời sống ấy bị hủy
hoại bởi những thói xấu hay nghiện ngập, Thiên Chúa vẫn hiện diện ở đó. Nếu
chúng ta để cho mình được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần hơn là bởi những lý lẽ
của mình, chúng ta có thể và phải cố tìm kiếm Chúa trong mỗi cuộc đời con người.
Đây là một phần của mầu nhiệm mà suy nghĩ của người theo ngộ đạo thuyết không
thể nào chấp nhận, vì mầu nhiệm ấy vượt xa tầm kiểm soát của suy lý này.
Những giới hạn của lý trí
43. Chúng ta không dễ dàng hiểu thấu sự thật đã lãnh nhận từ
Chúa, và chúng ta càng gặp nhiều khó khăn hơn khi muốn diễn đạt sự thật này. Vì
thế chúng ta không thể dám chắc rằng cách mình hiểu sự thật lại cho mình cái
quyền giám sát chặt chẽ trên đời sống của người khác. Tôi muốn lưu ý rằng trong
lòng Giáo Hội vẫn tồn tại cách hợp pháp những cách giải thích khác nhau về nhiều
khía cạnh của giáo lý và đời sống Kitô hữu, và trong sự đa dạng đó, chúng “giúp
giải thích rõ ràng hơn kho tàng phong phú của Lời Chúa”. Quả thực, “đối với những
người ước ao có một hệ thống đạo lý đồng nhất buộc mọi người tuân thủ và không
chừa chỗ nào cho những sắc thái dị biệt, thì điều đó xem ra không nên có và có
thể dẫn đến tình trạng hỗn độn”[39]. Quả vậy, một vài trào lưu
ngộ đạo đã xem thường tính đơn sơ thực tiễn của Tin Mừng và đã tìm cách thay thế
vị Thiên Chúa Ba Ngôi và nhập thể bằng Duy Nhất Tính tối thượng, trong đó sự đa
dạng phong phú của lịch sử biến mất.
44. Thực ra, đạo lý, hay nói đúng hơn, cách ta hiểu và diễn
đạt đạo lý, “không phải là một hệ thống đóng kín, thiếu khả năng năng động có
thể đặt ra những vấn đề, những nghi vấn, những câu hỏi... Những vấn đề của dân
chúng, những đau khổ, những tranh đấu, những ước mơ, những thử thách và những
lo âu của họ, tất cả đều có giá trị thông diễn (ermeneutico) mà chúng ta không
thể xem nhẹ nếu coi trọng nguyên lý nhập thể. Những câu hỏi của họ giúp chúng
ta tự chất vấn mình, và những chất vấn của họ chất vấn chúng ta”[40].
45. Một sự lầm lẫn nguy hiểm thường nảy sinh. Chúng ta có thể
nghĩ rằng vì mình biết một điều gì đó, hoặc có thể giải thích điều ấy bằng những
lý lẽ nào đó, thì chúng ta đã nên thánh thiện, hoàn hảo và tốt hơn “đám đông dốt
nát” kia. Thánh Gioan Phaolô II đã cảnh báo những người được học cao hiểu rộng
trong Hội Thánh về cơn cám dỗ “cách nào đó cảm thấy mình vượt trội hơn những
tín hữu khác”[41]. Thực ra, khi chúng ta nghĩ
mình hiểu biết điều gì, thì sự hiểu biết đó phải luôn là động lực giúp chúng ta
đáp lại tình yêu Thiên Chúa cách trọn vẹn hơn. Thật vậy, “người ta học để sống:
thần học và sự thánh thiện không thể tách rời nhau”[42].
46. Khi Thánh Phanxicô Assisi nhận thấy một số học trò của
ngài dấn thân vào việc giảng dạy, ngài muốn họ tránh xa cám dỗ của thuyết Ngộ đạo.
Ngài đã viết cho Thánh Antôn Pađôva: “Tôi vui lòng về việc anh dạy thần học cho
các anh em, miễn là anh đừng dập tắt tinh thần cầu nguyện và đạo đức trong khi
nghiên cứu ngành học này”[43]. Thánh Phanxicô đã nhận ra
cám dỗ biến kinh nghiệm Kitô giáo thành một hệ thống thao luyện trí thức, rốt
cuộc sẽ làm chúng ta xa rời sự tươi mát của Tin Mừng. Mặt khác, Thánh
Bônaventura đã lưu ý rằng sự khôn ngoan Kitô giáo đích thật chẳng bao giờ có thể
bị tách biệt khỏi lòng thương xót đối với người thân cận: “Sự khôn ngoan lớn nhất
có thể tùy thuộc ở việc phân phối cách hiệu quả những gì ta có, những gì đã được
trao ban chính là để hiến dâng. Cũng như lòng thương xót là bạn đồng hành của
khôn ngoan, lòng tham lam là kẻ thù của khôn ngoan”[44].
“Có những hoạt động, khi được kết hợp với chiêm niệm, chẳng những không gây cản
trở cho việc chiêm niệm, mà còn tạo thuận lợi hơn cho việc chiêm niệm, chẳng hạn
như những công việc của lòng thương xót và sùng mộ”[45].
Thuyết Pêlagiô của ngày nay
47. Ngộ đạo thuyết đã mở đường cho một lạc thuyết khác, nay
cũng đang tồn tại trong thời đại chúng ta. Theo dòng thời gian, nhiều người đã
bắt đầu nhận ra không phải kiến thức làm cho chúng ta nên tốt hơn hoặc biến ta
thành những vị thánh, nhưng là phẩm hạnh đời sống của bản thân. Tuy vậy, điều
này đã bị biến chất cách tinh vi, dẫn ta trở lại với những sai lầm cổ xưa của
ngộ đạo thuyết, và như thế những sai lầm ấy chỉ đơn thuần được biến dạng, mà
chưa được loại bỏ.
48. Năng lực mà những người ngộ đạo đã gán ghép cho trí tuệ,
giờ đây những người khác lại bắt đầu gán ghép cho ý chí con người, cho những cố
gắng cá nhân. Thế là xuất hiện những người theo thuyết Pêlagiô và bán-Pêlagiô.
Giờ đây không phải trí tuệ chiếm lấy vị trí của mầu nhiệm và ân sủng, nhưng là
ý chí con người. Họ đã quên rằng “mọi sự không phải do ý muốn hay cố gắng chạy
vạy của người ta, nhưng do Thiên Chúa đã tỏ lòng thương xót” (Rm 9,16) và “Thiên Chúa đã yêu thương
chúng ta trước” (x. 1 Ga 4,19).
Một ý chí thiếu khiêm nhường
49. Những người thuận theo tâm thức Pêlagiô và bán-Pêlagiô,
dù nồng nhiệt nói đến ân sủng của Thiên Chúa, “nhưng cuối cùng chỉ tin vào năng
lực của bản thân và coi mình hơn những người khác, bởi vì họ chu toàn một số
quy luật hoặc kiên định trung thành với một lối sống Công giáo nào đó”[46]. Khi một số trong họ nói với
người yếu đuối rằng mọi sự đều có thể đạt được nhờ ơn Chúa, thì trong thâm tâm
họ có xu hướng nghĩ mọi sự đều có thể đạt được nhờ ý chí con người, như thể ý
chí ấy là một thứ gì đó tinh tuyền, hoàn hảo, toàn năng, và ân sủng chỉ đến để
bổ sung thêm mà thôi. Họ không muốn nhìn nhận rằng “không phải ai cũng có thể
làm được mọi sự”[47], rằng trong cuộc đời này những
yếu đuối của con người không được chữa lành hoàn toàn và dứt khoát bởi ân sủng[48]. Trong mọi trường hợp, như
Thánh Augustinô đã dạy, Thiên Chúa yêu cầu bạn hãy làm điều bạn có thể và hãy cầu
xin điều bạn không thể[49], hoặc nói với Ngài cách
khiêm tốn: “Xin hãy ban điều Chúa truyền dạy và xin hãy truyền dạy điều Chúa muốn”[50].
50. Sau cùng, nếu không chân thành và đau đớn nhìn nhận những
giới hạn của bản thân trong cầu nguyện, thì điều đó sẽ không cho phép ân sủng
hoạt động hữu hiệu trong chúng ta, vì không còn chỗ cho ân sủng làm trổ sinh những
thiện hảo tiềm ẩn vốn gắn liền với một tiến trình trưởng thành chân thực[51]. Thật ra, vì xây dựng trên
tự nhiên, ân sủng không biến chúng ta thành siêu nhân ngay tức khắc. Lối suy
nghĩ này cho thấy người ta quá tin tưởng vào những khả năng của mình. Như thế, ẩn
bên dưới sự chính thống của mình, những thái độ của chúng ta có lẽ không tương
hợp với những gì mình khẳng định về sự cần thiết của ân sủng, và trong thực tế,
rốt cuộc chúng ta có thể chẳng tin tưởng vào ân sủng bao nhiêu. Quả thật, nếu
như không nhìn nhận thực tế cụ thể và giới hạn của mình, chúng ta sẽ không thể
nhận ra những bước tiến thực sự mà Thiên Chúa có thể đòi hỏi chúng ta ở mỗi thời
điểm, một khi chúng ta được ân sủng của Ngài lôi cuốn và tăng thêm sức mạnh. Ân
sủng hành động trong lịch sử; ân sủng thường nắm giữ và dần dần biến đổi chúng
ta[52]. Nếu chúng ta từ chối thực
tại lịch sử và tiệm tiến này, chúng ta thật ra cũng có thể từ chối và ngăn cản
ân sủng, cho dù chúng ta có tán dương ân sủng bằng lời lẽ của mình.
51. Khi Thiên Chúa ngỏ lời với ông Abraham, Ngài bảo: “Ta là
Thiên Chúa Toàn Năng. Ngươi hãy bước đi trước mặt Ta và hãy sống hoàn hảo” (St 17,1). Để nên hoàn hảo như Thiên Chúa
muốn, chúng ta cần phải hiện diện khiêm hạ trước thánh nhan vinh quang của
Ngài. Chúng ta cần phải tiến bước trong sự kết hợp với Ngài, đồng thời nhận ra
mình luôn được Ngài yêu thương. Chúng ta cần loại bỏ nỗi sợ hãi trước sự hiện
diện của Ngài, sự hiện diện vốn chỉ mang lại điều thiện hảo cho chúng ta. Thiên
Chúa là người Cha đã ban tặng sự sống cho chúng ta và rất mực yêu thương chúng
ta. Một khi chúng ta biết chấp nhận Ngài, và không còn cố sống cuộc đời mình mà
không cần đến Ngài, thì nỗi phiền muộn cô đơn sẽ tan biến (x. Tv 139,7). Nếu chúng ta không còn loại bỏ
Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời mình, và nếu chúng ta sống trong sự hiện diện của
Ngài, chúng ta có thể để cho Ngài dò xét con tim chúng ta, để Ngài biết liệu nó
có đi trên đường ngay nẻo chính hay không (x. Tv 139,23-24). Bằng cách này, chúng ta sẽ nhận ra ý Chúa, biết đâu
là điều đẹp lòng Ngài và đâu là điều hoàn hảo (x. Rm 12,1-2), và chúng ta sẽ để cho Ngài nặn đúc mình như một người
thợ gốm (x. Is 29,16). Chúng ta thường
nói rằng Thiên Chúa ở trong chúng ta, nhưng tốt hơn nên nói rằng chúng ta ở
trong Ngài, và Ngài giúp chúng ta sống trong ánh sáng và tình yêu của Ngài.
Ngài là đền thờ của chúng ta; chúng ta khấn xin được cư ngụ trong nhà Chúa mọi
ngày suốt cuộc đời (x. Tv 27,4). “Vì
một ngày tại khuôn viên thánh điện quý hơn cả ngàn ngày ở nơi đâu khác” (x. Tv 84,11). Ở trong Ngài chúng ta được
nên thánh.
Một giáo huấn của Giáo Hội thường bị lãng quên
52. Hội Thánh vẫn thường dạy rằng chúng ta được công chính
hóa không phải bởi các việc làm hay những nỗ lực của bản thân, nhưng nhờ ân sủng
của Thiên Chúa, Đấng luôn đi bước trước. Các giáo phụ, ngay cả trước Thánh
Augustinô, đã diễn đạt xác tín nền tảng này cách rõ ràng. Thánh Gioan Kim Khẩu
đã nói rằng Thiên Chúa tuôn đổ chính nguồn mạch các ân sủng của Ngài cho chúng
ta trước cả khi chúng ta bước vào cuộc chiến đấu[53].
Thánh Basiliô Cả đã lưu ý rằng người tín hữu chỉ được vinh quang trong Chúa mà
thôi, bởi “họ nhận biết rằng mình không có sự công chính đích thực và được công
chính hóa, nhưng chỉ nhờ lòng tin vào Chúa Kitô mà thôi”[54].
53. Công đồng Orange II, với thẩm quyền vững chắc đã truyền
dạy rằng không ai có thể đòi hỏi, xứng đáng, hay mua được ân sủng của Thiên Chúa,
và mọi sự cộng tác với ân sủng đều là ơn được ban trước của chính ân sủng ấy:
“Ngay cả ước muốn được thanh tẩy cũng là hiệu quả của Thánh Thần tuôn tràn và
hoạt động nơi chúng ta”[55]. Tiếp nối giáo lý này, Công
đồng Trentô, ngay khi nhấn mạnh đến tầm quan trọng của sự cộng tác của chúng ta
trong sự tăng trưởng thiêng liêng, cũng đã khẳng định lại: “Chúng ta được dạy rằng
chúng ta được công chính hóa cách nhưng không, bởi vì không có điều gì đi trước
sự công chính hóa, không phải đức tin cũng không phải việc làm xứng đáng với ơn
công chính hóa; vì ‘nếu nhờ ân sủng, thì không phải do việc làm nữa, chẳng vậy
ân sủng sẽ không còn là ân sủng nữa’ (Rm
11,6)”[56].
54. Sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo cũng nhắc chúng ta rằng ân sủng thì “vượt trên mọi tài năng của trí tuệ và sức mạnh của ý chí nhân linh”[57], và “trước mặt Thiên Chúa, theo đúng nghĩa, con người không có công trạng gì. Giữa Thiên Chúa và chúng ta có một sự bất bình đẳng vô cùng”[58]. Tình bạn của Ngài vô cùng siêu vượt trên chúng ta. Ta không thể mua được tình bạn ấy bằng những việc làm của mình; nó chỉ có thể là một ơn ban do sáng kiến yêu thương của Ngài mà thôi. Vì thế, chúng ta được mời gọi sống trong niềm tri ân hoan hỉ bởi ân ban mà mình hoàn toàn bất xứng này, vì “khi một người nhận được ân sủng, thì ân sủng đã nhận được ấy không bởi người ta xứng đáng”[59]. Các thánh không cậy dựa vào việc làm của chính mình: “Vào lúc hoàng hôn của cuộc đời, con sẽ ra trước nhan Chúa với đôi tay trống rỗng, vì, lạy Chúa, con không xin Chúa kể đến những việc làm của con. Mọi việc công chính của chúng con đều hoen ố trước mắt Ngài”[60].
55. Đây là một trong những xác tín lớn mà Hội Thánh đã nắm vững
và đã diễn tả rõ ràng trong Lời Chúa đến độ không còn có thể nghi ngờ gì nữa.
Cũng như điều răn trọng nhất về yêu thương, chân lý ấy phải ghi dấu ấn trên lối
sống của chúng ta, bởi lẽ chân lý ấy khởi nguồn từ trọng tâm của Tin Mừng và mời
gọi ta không những đón nhận bằng lý trí nhưng còn phải làm cho nó thành một nguồn
vui lan tỏa. Tuy nhiên, chúng ta không thể mừng vì ơn huệ nhưng không này, tức
là tình bạn với Thiên Chúa, trừ khi chúng ta nhận ra rằng cả đời sống trần thế
và các khả năng tự nhiên của chúng ta cũng là ơn huệ Thiên Chúa ban. Chúng ta
phải “hân hoan nhìn nhận rằng đời sống của chúng ta là một quà tặng và cũng nhận
ra rằng tự do của chúng ta là một ân sủng. Đây không phải là điều dễ dàng trong
thời đại hôm nay, giữa một thế giới vốn nghĩ rằng tự mình có thể sở hữu được điều
gì đó, như thể là thành quả của sáng kiến hay tự do của chính mình”[61].
56. Chỉ nhờ ơn Chúa được đón nhận cách tự do và khiêm tốn,
chúng ta mới có thể cộng tác vào sự biến đổi bản thân ngày càng tốt hơn bằng những
cố gắng của mình[62]. Trước hết, chúng ta phải
thuộc về Thiên Chúa. Chúng ta dâng hiến chính mình cho Ngài, Đấng luôn đi bước
trước, và dâng cho Ngài các khả năng, các cố gắng dấn thân, cuộc chiến chống lại
sự dữ và khả năng sáng tạo của chúng ta, để ơn huệ nhưng không của Ngài được lớn
lên và tăng trưởng trong chúng ta: “Vì thế, anh em thân mến, tôi nài xin anh
em, vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống
động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa.” (Rm
12,1). Chính vì thế, Giáo Hội đã luôn dạy rằng duy chỉ đức ái mới có thể làm
tăng trưởng đời sống ân sủng, vì “nếu tôi không có đức ái, thì tôi chẳng là gì”
(1 Cr 13,2).
Những người theo thuyết Tân Pêlagiô
57. Thế nhưng vẫn còn một số Kitô hữu cố đi theo con đường
khác: con đường công chính hóa bằng nỗ lực riêng của mình, nghĩa là tôn thờ ý
chí phàm nhân và các khả năng của con người. Hệ quả từ đó là họ tự mãn cho mình
là trung tâm và là thành phần ưu tú, nhưng không có tình yêu đích thật. Điều
này biểu hiện qua nhiều thái độ có vẻ rất khác nhau: bị ám ảnh bởi luật lệ, bận
tâm đến vẻ hào nhoáng của các lợi lộc xã hội và chính trị, chăm chút phô trương
đến phụng vụ, đạo lý và uy tín của Hội Thánh, kiêu hãnh về khả năng xử lý các vấn
đề thực tế, và quá lo lắng đến những chương trình tự quản và tự thể hiện mình.
Một số Kitô hữu tốn thời gian và sức lực cho những điều đó, thay vì để mình được
Thần Khí hướng dẫn trên con đường yêu thương, và hăng say truyền thông vẻ đẹp
và niềm vui của Tin Mừng, cũng như tìm kiếm những con người còn xa cách giữa
đám đông bao la đang khao khát Đức Kitô.[63]
58. Thường khi, vì đi ngược với sự thúc đẩy của Thần Khí, đời
sống của Giáo Hội trở thành một món mẫu của bảo tàng hay của riêng một thiểu số
ưu tuyển. Điều này xảy ra khi một số nhóm Kitô hữu đề cao thái quá một số quy tắc,
tập tục hay những lối hành xử riêng nào đó. Khi ấy, Tin Mừng có nguy cơ bị giản
lược và bị bóp nghẹt, bị tước mất tính đơn sơ, sức hấp dẫn và hương vị của nó.
Đây có thể là một hình thức tinh tế của khuynh hướng Pêlagiô, vì nó có vẻ như đặt
đời sống ân sủng lệ thuộc vào một số cơ cấu nhân loại. Hình thức này có thể tác
động đến các nhóm, phong trào và các cộng đoàn, và điều này giải thích tại sao
rất thường khi họ khởi đầu với một sức sống hết sức mạnh mẽ trong Thần Khí,
nhưng kết cục chỉ là khô cằn... hay hư hoại.
59. Nếu không lưu ý đến điều đó mà cứ tin rằng mọi sự đều
tùy thuộc vào nỗ lực của con người được định hướng bởi những quy tắc và những
cơ cấu Giáo Hội, chúng ta sẽ làm cho Tin Mừng trở nên phức tạp và biến mình
thành nô lệ cho một khung cơ chế vốn chừa rất ít chỗ cho ân sủng hoạt động.
Thánh Tôma Aquinô đã nhắc chúng ta rằng các giới luật được Giáo Hội thêm vào
Tin Mừng nên được áp dụng cách chừng mực, “để đời sống của người tín hữu không
hóa ra nặng nề”, vì như vậy tôn giáo của chúng ta sẽ biến thành một hình thức
nô lệ.[64]
Tóm lược Lề Luật
60. Để tránh điều đó, chúng ta nên thường xuyên ghi nhớ rằng
có một phẩm trật các nhân đức và chúng mời gọi ta tìm kiếm điều cốt yếu. Trên hết
là các nhân đức đối thần, nhận Thiên Chúa là đối tượng và động lực còn đức ái
là trọng tâm. Thánh Phaolô nói rằng điều thật sự đáng kể là “đức tin hành động
nhờ đức ái” (Gl 5,6). Chúng ta được mời
gọi phải cố hết sức để duy trì đức ái: “Ai yêu người thì đã chu toàn Lề Luật...
[vì] yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy” (Rm
13,8.10). “Vì tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là:
Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Gl 5,14).
61. Nói cách khác, giữa một rừng dày đặc các mệnh lệnh và
quy tắc, Chúa Giêsu soi tỏ một lối đường giúp nhìn thấy hai khuôn mặt, đó là
khuôn mặt của Chúa Cha và khuôn mặt của người anh em. Người không trao thêm cho
chúng ta hai công thức hay hai điều răn. Người trao cho chúng ta hai khuôn mặt,
hay đúng hơn, chỉ một mà thôi: đó là khuôn mặt của Thiên Chúa được phản chiếu
nơi nhiều khuôn mặt khác. Vì nơi mỗi anh chị em mình, đặc biệt là những người
bé mọn, yếu đuối, cô thế và những người túng thiếu, chúng ta gặp thấy chính
hình ảnh Thiên Chúa. Thật vậy, với những mảnh đời nhân loại mỏng giòn này, Chúa
sẽ làm nên tuyệt phẩm nghệ thuật chung cuộc của Ngài. Bởi vì “cái gì sẽ tồn tại,
cái gì có giá trị trong đời sống, của cải nào không mất đi? Chắc chắn là hai điều
này: Thiên Chúa và tha nhân. Hai của cải này sẽ không mất được!”[65]
62. Nguyện xin Thiên Chúa giải thoát Hội Thánh khỏi các hình
thức mới của thuyết Ngộ đạo và thuyết Pêlagiô đang làm rối rắm và kìm hãm Hội
Thánh trên đường nên thánh! Những sai lạc này mang những hình thức khác nhau,
tùy theo tính khí và tính cách của mỗi người. Vì vậy, tôi khuyên nhủ mỗi người
nên tự vấn và phân định trước mặt Thiên Chúa để xem những sai lạc ấy có thể tồn
tại trong đời sống mình như thế nào.
CHƯƠNG III - TRONG ÁNH SÁNG CỦA VỊ TÔN SƯ
63. Có thể có nhiều lý thuyết về điều gì làm nên sự thánh
thiện, với nhiều cách giải thích và phân biệt khác nhau. Suy tư như vậy có thể
hữu ích, nhưng không gì giúp soi sáng hơn là quay về với những lời của Chúa
Giêsu và nhìn xem cách Người giảng dạy chân lý. Đức Giêsu giải thích một cách rất
giản dị nên thánh có nghĩa là gì khi Người ban cho chúng ta các Mối Phúc (x. Mt 5,3-12; Lc 6,20-23). Các Mối Phúc tựa như thẻ căn cước của người Kitô hữu.
Vì vậy, nếu ai hỏi: “Ta phải làm gì để trở nên một Kitô hữu tốt?” thì câu trả lời
rất đơn giản. Chúng ta phải làm, mỗi người theo cách riêng của mình, điều Chúa
Giêsu nói với chúng ta trong Bài Giảng về các Mối Phúc[66].
Trong các Mối Phúc, chúng ta tìm thấy một chân dung của vị Tôn Sư, và chúng ta
được mời gọi phản chiếu chân dung ấy trong cuộc sống hằng ngày của mình.
64. Vậy, chữ “hạnh phúc” hay “có phúc” đồng nghĩa với “thánh
thiện”. Nó diễn tả điều này, là những ai trung thành với Thiên Chúa và Lời của
Ngài, khi tự hiến, thì đạt được hạnh phúc thật.
Lội ngược dòng
65. Mặc dù những lời của Chúa Giêsu có thể nghe thi vị,
nhưng chúng rõ ràng đi ngược những gì người ta thường làm trong xã hội. Cho dù
chúng ta thấy sứ điệp của Chúa Giêsu hấp dẫn, thế giới vẫn đẩy chúng ta hướng tới
một lối sống khác. Các Mối Phúc không hề dễ dãi hay hời hợt, mà hoàn toàn ngược
lại, chúng ta chỉ có thể thực hành các Mối Phúc nếu Chúa Thánh Thần đổ đầy sức
mạnh của Ngài trên chúng ta và giải thoát chúng ta khỏi sự yếu đuối, ích kỷ, tự
mãn và kiêu căng của mình.
66. Một lần nữa, chúng ta hãy lắng nghe Chúa Giêsu với tất cả
lòng yêu thương và kính trọng mà vị Tôn sư đáng nhận được. Chúng ta hãy để cho
những lời của Người khuấy động, thúc bách và đòi hỏi chúng ta phải thật sự thay
đổi cách sống của mình. Bằng không, sự thánh thiện vẫn chẳng khác gì một từ ngữ
trống rỗng. Giờ đây chúng ta trở về từng Mối Phúc trong Tin Mừng theo Thánh
Mátthêu (x. Mt 5,3-12)[67].
“Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó vì Nước Trời là của họ”
67. Tin Mừng mời gọi chúng ta nhận ra sự thật của lòng mình,
để thấy đâu là nơi ta tìm được bảo đảm của cuộc sống mình. Người giàu thường cảm
thấy bảo đảm nơi của cải và nghĩ rằng nếu của cải bị đe dọa, thì toàn bộ ý
nghĩa cuộc sống của họ trên đời này có thể sụp đổ. Chính Đức Giêsu nói với ta
điều này trong dụ ngôn người phú hộ khờ dại, Người nói về một người kia tự tin
nơi mình, nhưng ngu dại, vì đã không hề nghĩ rằng mình có thể chết ngay hôm ấy
(x. Lc 12, 16-21).
68. Của cải chẳng bảo đảm được gì cả. Thật vậy, một khi nghĩ
mình giàu có, chúng ta có thể trở nên quá tự mãn đến nỗi chẳng dành chỗ nào cho
Lời Chúa, cho tình yêu đối với anh chị em mình, hoặc để vui hưởng những điều
quan trọng nhất trong cuộc sống. Như thế, chúng ta bỏ lỡ những phúc lợi lớn nhất.
Vì thế, Đức Giêsu gọi những người có tinh thần nghèo khó là những người có
phúc, họ có một trái tim nghèo khó đáng thương mà Chúa có thể bước vào kèm theo
sự mới mẻ của Người.
69. Sự nghèo khó thiêng liêng này liên quan mật thiết đến những
gì Thánh Inhaxiô Loyola gọi là “sự bình tâm thánh thiện”, nhờ đó chúng ta đạt tới
sự tự do nội tâm tuyệt vời: “Do đó, cần phải giữ cho mình được bình tâm đối với
mọi thọ tạo (trong tất cả những gì mà ý chí tự do của chúng ta được phép chọn
mà không bị cấm cản) tới mức ta không ước muốn sức khoẻ cho mình hơn bệnh tật,
giàu sang hơn nghèo khổ, danh vọng hơn nhục nhã, sống lâu hơn chết yểu, và
tương tự như thế đối với mọi sự khác”[68].
70. Thánh Luca không nói về sự nghèo khó “trong tinh thần”
mà chỉ nói đến những người “nghèo khó” (x. Lc
6,20), và như thế, ngài cũng mời gọi chúng ta sống một cuộc đời khổ hạnh và giản
dị. Bằng cách này, ngài mời gọi chúng ta chia sẻ cuộc sống của những người
nghèo khổ nhất, cuộc sống mà các Tông đồ đã sống, và cuối cùng trở nên đồng
hình đồng dạng với Đức Giêsu, Đấng tuy giàu có, nhưng “đã làm cho mình nên
nghèo khó” (2 Cr 8,9). Khó nghèo
trong lòng: đó là sự thánh thiện.
“Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được đất hứa làm gia nghiệp”
71. Những lời này diễn tả thật mạnh mẽ trong một thế giới mà
ngay từ đầu, ở khắp nơi đã xuất hiện thù địch, tranh chấp và hận thù, ở nơi mà
chúng ta thường xuyên xếp loại người khác theo tư tưởng và tập tục của họ, thậm
chí trên cách nói năng hay ăn mặc của họ. Tóm lại, đó là nơi ngự trị của kiêu
hãnh và hư danh, nơi mà mỗi người nghĩ rằng mình có quyền đứng trên những người
khác. Tuy nhiên, Đức Giêsu đề nghị một lối sống khác, dù có vẻ như không thể được,
đó là con đường hiền lành. Đây là điều ta thấy Người sống với các môn đệ và là
điều mà chúng ta chiêm ngắm khi Người vào thành Giêrusalem: “Này, đức vua của
ngươi đang đến với ngươi, khiêm nhường ngồi trên lưng lừa” (Mt 21,5, x. Dcr 9,9).
72. Đức Kitô nói: “Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu
và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,29). Nếu chúng ta nóng nảy và cao
ngạo trước những người khác, kết cuộc chúng ta sẽ bị mệt mỏi và kiệt sức. Nhưng
nếu chúng ta nhìn những lỗi lầm và giới hạn của họ cách dịu dàng và hiền từ,
không ra vẻ kẻ cả, thì chúng ta có thể thực sự giúp ích họ và không phí năng lực
vào việc phàn nàn vô ích. Thánh Têrêxa thành Lisieux nói với chúng ta rằng “Đức
ái hoàn hảo hệ tại ở việc chịu đựng các sai lỗi của người khác, và không bị vấp
phạm vì các lầm lỗi của họ”[69].
73. Thánh Phaolô nói sự hiền lành là một trong những hoa quả
của Thánh Thần (x. Gl 5,23). Ngài đề
nghị rằng, nếu đôi khi một hành động sai trái nào đó của anh em làm phiền lòng
ta, thì ta hãy đến mà sửa sai họ, nhưng “với một tinh thần hiền lành”, bởi vì
“bạn cũng có thể bị cám dỗ” (Gl 6,1).
Ngay cả khi bảo vệ đức tin và các xác tín của mình, chúng ta cũng phải làm “một
cách hiền hòa” (x. 1 Pr 3,16). Ta
cũng phải hiền lành đối xử với các kẻ thù (2 Tm 2,25). Trong Hội Thánh, chúng ta thường sai lỗi vì không đáp ứng
đòi hỏi này của Lời Chúa.
74. Hiền lành là một cách diễn tả khác của sự nghèo khó nội
tâm nơi những người tin cậy vào một mình Thiên Chúa mà thôi. Quả thực, trong
Thánh Kinh cũng có một từ thường dùng để nói về người nghèo và người hiền lành,
đó là từ anawim. Có thể có người phản đối: “Nếu tôi hiền lành quá, người ta sẽ
nghĩ tôi là một đứa ngốc nghếch, một kẻ khờ khạo hay nhu nhược”. Đôi khi có thể
như vậy, nhưng cứ để mặc kẻ khác nghĩ như thế. Luôn hiền lành là điều tốt hơn,
và rồi những ước vọng sâu xa nhất của ta sẽ được thành tựu. Người hiền lành “sẽ
được đất hứa làm gia nghiệp”, vì họ sẽ thấy lời hứa của Thiên Chúa được hoàn
thành trong cuộc đời mình. Trong mọi hoàn cảnh, người hiền lành trông cậy vào
Chúa, và những ai trông cậy vào Người sẽ được đất hứa làm gia nghiệp và vui hưởng
chan hòa bình an (x. Tv 37, 9.11).
Còn Chúa thì tin tưởng nơi họ: “Kẻ được Ta đoái nhìn, đó là người nghèo khổ,
người có tâm hồn tan nát, người biết kính sợ Lời Ta” (Is 66,2).
Cư xử cách hiền lành và khiêm nhường, đó là sự thánh thiện.
“Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an”
75. Thế giới nói với chúng ta điều ngược lại: giải trí, thú
vui, tiêu khiển và thoát ly thực tế mới làm cho cuộc sống dễ chịu. Người thế
gian ngoảnh mặt trước những vấn đề ốm đau hay buồn phiền nơi gia đình hoặc
chung quanh mình. Thế giới không muốn khóc lóc; đúng hơn, họ không quan tâm đến
những tình cảnh đau thương, tìm cách phủ lấp hoặc che giấu các hoàn cảnh ấy.
Người ta tốn nhiều công sức để chạy trốn đau khổ, và tưởng rằng có thể che giấu
được thực tại, nhưng thực tế cuộc sống không bao giờ vắng bóng thập giá.
76. Một người biết nhìn các sự vật đúng như sự thật của
chúng, biết cảm nhận những đau khổ và muộn phiền, thì mới có thể chạm đến chiều
sâu của đời sống và tìm được hạnh phúc chân thực[70].
Người ấy được Chúa Giêsu an ủi chứ không phải thế gian. Người như thế không sợ
chia sẻ đau khổ của người khác và không trốn tránh những hoàn cảnh đau thương.
Như thế, họ khám phá ý nghĩa cuộc sống bằng cách giúp đỡ những người đau khổ, cảm
thông nỗi thống khổ của người ta và mang lại sự xoa dịu. Người ấy cảm nhận tha
nhân là thịt xương của chính mình, và không sợ đến gần, thậm chí chạm vào các vết
thương của họ. Họ cảm thương người khác đến nỗi mọi khoảng cách đều không còn.
Như thế, người ấy có thể đón lời khích lệ của Thánh Phaolô: “Hãy khóc với người
khóc” (Rm 12,15).
Biết khóc với người khác: đó là sự thánh thiện.
“Phúc thay ai khát khao sự công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa
cho thỏa lòng”
77. “Đói và khát” là những kinh nghiệm mãnh liệt vì chúng
can dự đến những nhu cầu cơ bản và bản năng sống còn của chúng ta. Có những người
khao khát công lý và tìm kiếm công lý cũng mãnh liệt như thế. Đức Giêsu nói rằng
họ sẽ được thỏa lòng, vì sớm hay muộn, công lý sẽ đến. Chúng ta có thể hợp tác
để làm cho điều ấy có thể xảy ra, mặc dù không phải chúng ta luôn luôn thấy được
các nỗ lực của mình sinh hoa kết quả.
78. Đức Giêsu đưa ra một nền công lý khác với thứ công lý của
thế gian, vốn thường bị hoen ố bởi những lợi lộc nhỏ nhen và bị thao túng bằng
nhiều cách. Thực tế cho thấy người ta dễ sa lầy vào tham nhũng, vướng mắc trong
thứ chính trị thường nhật “có đi có lại” (quid pro quo), trong đó mọi sự trở
thành mua bán đổi chác. Biết bao người phải chịu sự bất công, đành bất lực đứng
nhìn đang khi những người khác chia nhau những lợi lộc của cuộc sống này. Một số
bỏ cuộc chiến đấu cho công lý đích thực và lựa chọn bắt tay với kẻ thắng thế.
Điều này không liên quan gì đến sự đói khát công lý mà Đức Giêsu ca tụng.
79. Công lý đó khởi sự thành hiện thực trong đời sống của mỗi
người khi người ta chính trực trong các quyết định của mình; và rồi nó lại được
diễn tả nơi việc họ tìm kiếm công lý cho người nghèo và người cô thế. Quả thực
từ ngữ “công lý” có thể đồng nghĩa với sự trung thành với thánh ý Chúa trong
toàn thể cuộc sống chúng ta, nhưng nếu ta gán cho từ ngữ này một ý nghĩa quá rộng,
là ta quên rằng nó đã được tỏ lộ cách riêng theo nghĩa công lý cho những người
yếu thế nhất: “Tìm kiếm lẽ công bằng, sửa phạt người áp bức, xử công minh cho
cô nhi, biện hộ cho quả phụ” (Is
1,17).
Đói khát sự công chính: đó là sự thánh thiện.
“Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót
thương”
80. Lòng thương xót có hai mặt. Nó liên quan đến việc chia sẻ,
giúp đỡ và phục vụ người khác, nhưng nó cũng bao hàm sự tha thứ và thông cảm.
Thánh Mátthêu tóm lược nó trong một khuôn vàng thước ngọc: “Vậy tất cả những gì
anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta”
(7,12). Sách Giáo lý nhắc nhở chúng ta rằng luật này phải được áp dụng “trong mọi
trường hợp”[71], đặc biệt là khi chúng ta
“đối diện với những hoàn cảnh làm cho các phán đoán luân lý ít chắc chắn hơn và
làm cho quyết định nên khó khăn”[72].
81. Chia sẻ và tha thứ là chiếu tỏa trong cuộc sống chúng ta
một chút phản chiếu sự hoàn hảo của Thiên Chúa, Đấng trao hiến và tha thứ vô lượng.
Vì lẽ này, trong Tin Mừng Luca, chúng ta không nghe thấy nói “anh em hãy nên
hoàn thiện” (Mt 5,48), nhưng là, “anh
em hãy biết thương xót như Cha anh em là Đấng hay thương xót. Anh em đừng xét
đoán, thì sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị
Thiên Chúa lên án. Hãy tha thứ thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. Hãy cho, thì sẽ
được Thiên Chúa cho lại” (6,36-38). Và rồi, Thánh Luca thêm một điều mà ta
không được bỏ qua: “Anh em đong bằng đấu nào thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh
em bằng đấu ấy” (6,38). Thước đo mà chúng ta dùng để cảm thông và tha thứ cho
người khác sẽ được Thiên Chúa dùng để tha thứ cho chúng ta. Thước đo chúng ta
dùng để trao ban sẽ đo lường phần thưởng chúng ta nhận được trên trời. Chúng ta
đừng bao giờ quên điều này.
82. Đức Giêsu không nói “Phúc thay những kẻ tìm cách báo
thù”, nhưng Người gọi là “có phúc” đối với những người biết tha thứ và tha thứ
“đến bảy mươi lần bảy” (Mt 18,22).
Chúng ta cần nghĩ về chính mình như một đạo quân gồm những người được tha thứ.
Tất cả chúng ta đã được Thiên Chúa xót thương nhìn đến. Nếu chúng ta chân thành
đến với Chúa và chăm chú lắng nghe, có thể có lúc chúng ta nghe Người quở
trách: “Ngươi không phải thương xót đồng bạn, như Ta đã thương xót ngươi sao?”
(Mt 18,33).
Biết nhìn và hành động với lòng thương xót: đó là sự thánh
thiện.
“Phúc thay ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên
Chúa”
83. Mối Phúc này nói về những người có tâm hồn đơn sơ, thanh
khiết và không hoen ố, vì một trái tim biết yêu thương không để bất cứ thứ gì
đi vào đời mình chực làm nguy hại, suy yếu hoặc gây nguy hiểm cho tình yêu ấy.
Trong Thánh Kinh, trái tim là nơi chất chứa những ý hướng thực sự của chúng ta,
những điều chúng ta thực sự tìm kiếm và khao khát, khác với hết thảy những vẻ bề
ngoài. “Người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng”
(1 Sm 16,7). Thiên Chúa muốn nói với
con tim chúng ta (x. Hs 2,16), nơi đó
Ngài muốn ghi tạc Lề Luật của Ngài (x. Gr
31,33). Nói tóm lại, Ngài muốn ban cho chúng ta một quả tim mới (x. Ed 26,26).
84. “Hãy gìn giữ tim con cho thật kỹ” (Cn 4,23). Những thứ giả trá nhơ bẩn thật không có chút giá trị gì
trước mặt Chúa, Ngài “tránh thói lọc lừa, rời xa những lý luận ngu dốt” (Kn 1,5). Chúa Cha, “Đấng thấu suốt mọi
bí ẩn” (Mt 6,6), nhận biết những gì ô
uế, nghĩa là những gì không chân thành, chỉ phô trương hay bề ngoài. Cũng như
Chúa Con, Ngài biết “có gì trong lòng con người” (x. Ga 2,25).
85. Đúng là không thể có yêu thương mà không có những việc
làm của yêu thương, nhưng Mối Phúc này nhắc nhở chúng ta rằng Chúa mong đợi một
sự dấn thân cho anh chị em mình phát xuất từ con tim, vì “giả như tôi có đem hết
gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà
không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1 Cr 13,3). Trong Tin Mừng Mátthêu, chúng ta thấy cái xuất phát từ
trong lòng người ta là cái làm cho họ ra ô uế (x. 15,18), vì từ lòng dạ phát xuất
những ý định giết người, trộm cắp, làm chứng gian, và những việc xấu xa khác
(x. 15,19). Từ những ý hướng trong lòng người khơi nguồn cho những khao khát và
những quyết định thâm sâu dẫn tới các hành động của chúng ta.
86. Một con tim yêu mến Thiên Chúa và tha nhân (x. Mt 22,36-40) cách chân thật chứ không chỉ
bằng lời nói suông, là một con tim trong sạch, và nó có thể nhìn thấy Thiên
Chúa. Trong bài ca Đức Mến, Thánh Phaolô nói rằng “bây giờ chúng ta thấy lờ mờ
như trong một tấm gương” (1 Cr
13,12), nhưng khi tình yêu thực sự ngự trị, chúng ta sẽ có thể nhìn thấy “mặt
giáp mặt”. Đức Giêsu hứa rằng những ai có lòng trong sạch “sẽ nhìn thấy Thiên
Chúa”.
Giữ cho trái tim khỏi mọi sự làm nhơ uế tình yêu: đó là sự
thánh thiện.
“Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên
Chúa”
87. Mối Phúc này khiến chúng ta nghĩ đến tình trạng bao
nhiêu cuộc chiến tranh không dứt trong thế giới. Về phần mình, chúng ta thường
là một nguyên nhân của xung đột hay ít ra là của sự hiểu lầm. Chẳng hạn như tôi
nghe được một điều gì về một ai đó, và tôi đi kể lại cho người khác. Thậm chí
tôi còn thêm thắt một chút và loan truyền nó đi. Và nếu nó càng tác hại, thì dường
như tôi càng mãn nguyện. Thế giới của những kẻ ngồi lê đôi mách, chỉ chuyên chỉ
trích và phá đổ, không xây dựng hòa bình, đúng hơn, những kẻ như vậy là kẻ thù
của hòa bình và họ không hề “có phúc”[73].
88. Những người kiến tạo hòa bình là mạch nguồn của bình an,
họ xây dựng hòa bình và tình thân hữu trong xã hội. Đối với những người dấn
thân gieo vãi hòa bình khắp nơi, Đức Giêsu đưa ra lời hứa tuyệt vời này: “Họ sẽ
được gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5,9).
Người bảo các môn đệ rằng, khi vào bất cứ nhà nào, hãy nói: “Bình an cho nhà
này!” (Lc 10,5). Lời Chúa khuyến
khích mỗi tín hữu hãy ăn ở thuận hòa với mọi người khác (x. 2 Tm 2,22), “vì người xây dựng hoà bình
thu hoạch được hoa trái đã gieo trong hòa bình, là cuộc đời công chính” (Gc 3,18). Và nếu như có những lúc trong
cộng đoàn chúng ta tự hỏi mình phải làm gì, thì “chúng ta hãy theo đuổi những
gì đem lại bình an” (Rm 14,19), vì sự
hiệp nhất thì tốt hơn xung đột[74].
89. Quả là không dễ dàng “kiến tạo” sự bình an này của Tin Mừng,
một sự bình an vốn không loại trừ ai, nhưng đón nhận ngay cả những người hơi kỳ
cục, khó tính và sách nhiễu, hay yêu sách, lập dị, bị bầm dập bởi cuộc đời hoặc
đơn giản là người thờ ơ. Đó là một công việc khó khăn, đòi hỏi trí và tâm phải
thật rộng mở vì đây không phải là việc tạo ra “một thoả thuận trên giấy tờ hay
một sự dàn hòa tạm thời cho một thiểu số được hài lòng”[75],
cũng không phải là một dự phóng “của một ít người cho một ít người”[76]. Đây cũng không phải là cố
phớt lờ hoặc giấu đi sự mâu thuẫn, nhưng “chấp nhận đối diện với xung đột, giải
quyết và biến xung đột thành một mắt xích liên kết trong một tiến trình mới”[77]. Chúng ta phải là những nghệ
nhân của hòa bình, vì xây dựng hoà bình là một nghệ thuật đòi hỏi sự bình tâm,
sáng tạo, nhạy cảm và khéo léo.
Gieo rắc bình an quanh ta: đó là sự thánh thiện.
“Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của
họ”
90. Chính Đức Giêsu lưu ý chúng ta rằng con đường này thì đi
ngược dòng, đến độ khiến chúng ta trở nên những người chất vấn xã hội bằng cách
sống của mình, và như thế, thành những kẻ gây phiền toái. Đức Giêsu nhắc nhở
chúng ta về bao nhiêu người đã và đang bị bách hại chỉ vì họ đấu tranh cho công
lý, bởi vì họ đã sống dấn thân cho Thiên Chúa và tha nhân.
Nếu chúng ta không muốn chìm ngập trong một cuộc sống tăm tối
tầm thường, thì đừng tìm kiếm một cuộc sống dễ dãi, vì “ai muốn cứu mạng sống
mình thì sẽ mất” (Mt 16,25).
91. Để sống Phúc âm, chúng ta không thể mong đợi mọi sự sẽ dễ
dàng, vì những tham vọng quyền lực và lợi lộc thế gian thường chắn lối chúng
ta. Thánh Gioan Phaolô II đã nói rằng “một xã hội bị vong thân nếu trong các
hình thức tổ chức xã hội, sản xuất và tiêu thụ làm cho việc trao hiến chính
mình cũng như việc thiết lập tình liên đới này giữa con người với nhau trở nên
khó khăn hơn”[78]. Trong một xã hội như thế,
một xã hội mà trong đó chính trị, truyền thông đại chúng, các cơ chế kinh tế,
văn hóa và ngay cả tôn giáo cản trở sự phát triển nhân văn và xã hội đích thực,
thì việc sống các Mối Phúc quả không dễ chút nào; thậm chí sống như thế còn bị
người ta nhìn là tiêu cực, bị hoài nghi, và chế giễu.
92. Thập giá, nhất là những mệt mỏi và đau khổ mà chúng ta
trải nghiệm khi sống luật yêu thương và theo đuổi con đường công lý, chính là
nguồn tăng trưởng và thánh hóa. Chúng ta hãy nhớ rằng khi Tân Ước nói chúng ta
sẽ phải chịu đau khổ vì Tin Mừng, chính là nói đến những cuộc bách hại (x. Cv 5,41; Pl 1,29; Cl 1,24; 2 Tm 1,12; 1 Pr 2,20; 4,14-16; Kh
2,10).
93. Nhưng ở đây chúng ta nói về những cuộc bách hại không
tránh được, chứ không phải loại bách hại mà chính chúng ta có thể gây ra cho
mình khi chúng ta đối xử với người khác một cách tồi tệ. Một vị thánh không phải
là người kỳ dị, xa cách, người ta không thể chịu nổi vì sự kiêu căng, tính cách
tiêu cực và sân hận của họ. Các Tông đồ của Đức Kitô không giống như thế. Sách
Tông đồ Công vụ hay nhắc đi nhắc lại rằng các ngài được “toàn dân thương mến”
(2,47; x. 4,21.33; 5,13), cả khi một số nhà cầm quyền sách nhiễu và bách hại
các ngài (x. 4,1-3; 5,17-18).
94. Bách hại không phải là chuyện quá khứ, vì ngày nay chúng
ta cũng trải nghiệm điều ấy, hoặc qua việc đổ máu như trường hợp nhiều vị tử đạo
đương thời, hoặc bằng những phương cách tinh tế hơn như bị vu khống và lừa dối.
Đức Giêsu gọi chúng ta là có phúc khi người ta “vu khống cho các con đủ điều xấu
xa vì Thầy” (Mt 5,11). Vào những lúc
khác, bách hại có thể xảy ra dưới hình thức những chế nhạo, tìm cách báng bổ đức
tin của chúng ta và biến chúng ta thành như trò cười.
Chấp nhận con đường Phúc âm hằng ngày, dù có thể gặp khó
khăn: đó là sự thánh thiện.
Một luật sống lớn
95. Trong chương 25 của Tin Mừng Mátthêu (cc. 31-46), Đức
Giêsu dừng lại ở Mối Phúc mà Người gọi những kẻ có lòng thương xót là có phúc.
Nếu chúng ta tìm kiếm sự thánh thiện làm đẹp lòng Thiên Chúa, chúng ta sẽ thấy ở
đoạn văn này một quy luật sống, theo đó chúng ta sẽ được xét xử. “Vì xưa Ta
đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các
ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi
đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han” (25,35-36).
Để trung thành với vị Tôn sư
96. Sự thánh thiện, vì thế, không có nghĩa là ngây ngất
trong một trạng thái huyền nhiệm xuất thần. Như Thánh Gioan Phaolô II đã nói:
“Nếu chúng ta thật sự bắt đầu lại từ việc chiêm ngắm Đức Kitô, thì chúng ta phải
biết nhìn thấy Người cách đặc biệt nơi khuôn mặt của những kẻ mà chính Người muốn
đồng hóa với họ”[79]. Đoạn văn Mátthêu 25,35-36
“không chỉ là một lời mời gọi sống đức ái: đó là một trang Kitô học tỏa chiếu một
tia sáng trên mầu nhiệm của Đức Kitô”[80].
Trong lời kêu gọi nhận ra Người nơi những người nghèo và đau khổ này, chúng ta
thấy tỏ lộ chính Thánh Tâm của Đức Kitô, những tình cảm và chọn lựa sâu thẳm nhất
của Người mà mọi vị thánh đều tìm cách noi theo.
97. Trước những đòi hỏi cương quyết này của Đức Giêsu, bổn
phận của tôi là xin các Kitô hữu thừa nhận và đón nhận chúng trong tinh thần cởi
mở chân thành, sine glossa, nghĩa là, không bình luận, không suy nghĩ và không
kỳ kèo thoái thác, điều có thể làm giảm nhẹ sức mạnh của chúng. Chúa đã nói rất
rõ rằng ta không thể hiểu hay sống sự thánh thiện tách khỏi những đòi hỏi này,
vì lòng thương xót là “con tim đang đập của Tin Mừng”[81].
98. Khi tôi gặp một người ngủ ngoài trời trong một đêm giá lạnh
giữa thời tiết xấu, tôi có thể nhìn sinh thể trong cuộn vải ấy như một phiền
nhiễu bất chợt, một thứ lười nhác ăn hại, một vật cản trên đường mình đi, một
mũi tiêm chích khó chịu vào lương tâm tôi, một vấn đề mà các chính trị gia phải
giải quyết, hoặc thậm chí có thể đó là một thứ rác rưởi làm nhơ bẩn nơi công cộng.
Hoặc tôi có thể đáp lại với đức tin và đức ái, và nhìn thấy người ấy là một con
người với một phẩm giá giống như của tôi, một thụ tạo được Chúa Cha yêu thương
vô cùng, một hình ảnh của Thiên Chúa, một anh chị em được Đức Kitô cứu chuộc.
Làm Kitô hữu là như thế đó! Hoặc ta có thể hiểu sự thánh thiện mà không có sự
nhìn nhận sinh động về phẩm giá của mỗi con người được không?[82]
99. Đối với các Kitô hữu, điều này kéo theo một sự bứt rứt
lành mạnh và thường xuyên. Mặc dù giúp đỡ chỉ một người mà thôi đã có thể biện
chính cho tất cả những nỗ lực của chúng ta, việc ấy cũng chưa đủ. Các giám mục
Canađa đã diễn tả điều này rõ ràng khi các ngài cho thấy Thánh Kinh dạy về năm
Toàn xá, chẳng hạn, rằng ý nghĩa không chỉ đơn thuần là làm một vài việc lành,
mà còn là tìm cách thay đổi xã hội: “Để các thế hệ sau này cũng được giải
thoát, rõ ràng mục tiêu phải là khôi phục các hệ thống xã hội và kinh tế công bằng
để sao cho không còn có thể có sự loại trừ nữa”[83].
Những ý thức hệ đánh vào trọng tâm của Tin Mừng
100. Tôi rất tiếc đôi khi những ý thức hệ dẫn chúng ta đến
hai sai lầm nguy hại. Một đàng, sự sai lầm mà các Kitô hữu tách biệt những đòi hỏi
của Tin Mừng ra khỏi mối quan hệ cá vị của họ với Chúa, khỏi sự kết hợp nội tâm
của họ với Ngài, ra khỏi sự mở lòng trước ân sủng của Ngài. Như thế, Kitô giáo
trở thành một loại tổ chức phi chính phủ (ONG), thiếu mất linh đạo ngời sáng được
hiển lộ rõ ràng trong đời sống của các thánh như Phanxicô Assisi, Vinh Sơn
Phaolô, Têrêsa thành Calcutta và nhiều vị thánh khác. Đối với những vị đại
thánh này, sự cầu nguyện, tình yêu Thiên Chúa và việc đọc Tin Mừng không hề làm
họ giảm bớt dấn thân say mê và hiệu quả cho tha nhân, mà hoàn toàn ngược lại.
101. Ngược lại, còn có sai lầm ý thức hệ nguy hại khác ta thấy
nơi những kẻ hoài nghi sự dấn thân xã hội của người khác, coi đó như là cái gì
hời hợt, thế gian, thế tục, duy vật, cộng sản hay dân túy. Hoặc họ tương đối
hóa sự dấn thân đó như thể có những vấn đề khác quan trọng hơn, hoặc như thể điều
duy nhất đáng kể là một nền đạo đức hay một nguyên tắc nào đó mà họ bảo vệ. Chẳng
hạn, việc bảo vệ các thai nhi vô tội cần phải được rõ ràng, dứt khoát và quyết
liệt, vì đây là phẩm giá của sự sống con người vốn luôn thánh thiêng và phải được
yêu thương bất kể ở giai đoạn phát triển nào. Tuy nhiên, cũng thánh thiêng
không kém, đó là sự sống của những người nghèo, những con người đã được sinh
ra, những kẻ cùng khổ, những người bị bỏ rơi và bị loại trừ, những kẻ yếu đuối
bị buôn bán, những người đau yếu bị làm mồi cho người khác xử cái chết êm dịu
được giấu giếm, những người già cả bị bỏ rơi, những hình thức nô lệ mới và mọi
hình thức loại trừ.[84] Chúng ta không thể ủng hộ một
lý tưởng về sự thánh thiện mà lại thờ ơ trước những bất công của thế giới này,
trong đó một số người thì chè chén say sưa, tiêu xài hoang phí và chỉ biết mua
sắm, hưởng thụ những món hàng mới nhất, trong khi đó những người khác chỉ đứng
nhìn từ xa, và sống trọn cuộc đời mình trong cùng khổ.
102. Chúng ta thường nghe nói đứng trước chủ nghĩa tương đối
và những sai lầm của thế giới hiện nay, tình trạng di dân chẳng hạn, là một vấn
đề ít quan trọng hơn. Một số người Công giáo coi đó là vấn đề thứ yếu so với những
vấn đề đạo đức sinh học “nghiêm trọng”. Một chính khách đang bận tâm đến phiếu
bầu cho mình mà nói như thế thì còn có thể hiểu được, nhưng một Kitô hữu thì
không, vì đối với họ, thái độ phù hợp duy nhất là đặt mình vào hoàn cảnh của
các anh chị em phải liều mạng sống mình để tìm kiếm một tương lai cho con cái họ.
Chúng ta không thể nhận ra rằng đây chính là điều mà Đức Giêsu đòi hỏi, khi Người
bảo rằng mỗi khi ta đón tiếp khách lạ là ta đón tiếp Người đó sao? (x. Mt 25,35). Thánh Biển Đức đã sẵn sàng làm
như thế, và mặc dù điều đó có thể gây “phức tạp” cho cuộc sống các đan sĩ của
ngài, ngài vẫn ra lệnh rằng tất cả các khách gõ cửa tu viện phải được đón tiếp
“như Đức Kitô”[85], với thái độ tôn kính[86], họ phải cư xử với người
nghèo và khách hành hương bằng “tất cả sự ân cần và quan tâm”[87].
103. Trong Cựu Ước ta cũng thấy có điều tương tự: “Người ngoại
kiều, ngươi không được ngược đãi và áp bức, vì chính các ngươi đã là ngoại kiều
ở đất Ai cập” (Xh 22,21). “Khi có ngoại
kiều cư ngụ với các ngươi trong xứ các ngươi, các ngươi đừng bức hiếp nó. Các
ngươi phải đối xử với người ngoại kiều cư ngụ với các ngươi như với một người bản
xứ, một người trong các ngươi; các ngươi phải yêu nó như chính mình, vì các
ngươi đã từng là ngoại kiều tại đất Ai cập” (Lv 19,33-34). Như thế, đây không phải là điều sáng chế của một Giáo
hoàng nào đó hoặc bởi một cơn cuồng nhiệt nhất thời. Cũng trong thế giới hôm
nay, chúng ta được mời gọi đi theo con đường khai sáng thiêng liêng được tiên
tri Isaia đề ra khi ngài tự hỏi điều gì đẹp lòng Thiên Chúa. “Chẳng phải là
chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy
ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt
nhục? Bấy giờ ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông” (58,7-8).
Sự thờ phượng Thiên Chúa yêu thích nhất
104. Chúng ta có thể nghĩ rằng mình tôn vinh Thiên Chúa chỉ
bằng việc thờ phượng và cầu nguyện, hoặc đơn giản bằng cách tuân giữ một số quy
tắc đạo đức nào đó. Quả đúng là quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa mới là điều
tối thượng, nhưng chúng ta đừng quên rằng tiêu chuẩn để phán xét cuộc đời chúng
ta trước hết là những gì mình đã làm cho tha nhân. Cầu nguyện là điều quý báu
vì cầu nguyện nuôi dưỡng sự hiến thân yêu thương hằng ngày. Việc thờ phượng của
chúng ta đẹp lòng Thiên Chúa khi chúng ta hiến mình sống quảng đại, và để cho
ơn ban ta nhận được trong cầu nguyện được thể hiện trong khi chúng ta hiến thân
cho anh em mình.
105. Cũng vì thế, cách tốt nhất để nhận biết việc cầu nguyện
của chúng ta có chân thực hay không, đó là xét xem cuộc sống của mình đã được
biến đổi tới mức nào trong ánh sáng của lòng thương xót. Vì “lòng thương xót
không chỉ là hành động của Chúa Cha; nhưng trở thành tiêu chuẩn để hiểu ai là
con cái đích thực của Ngài”.[88] Lòng thương xót “là chính nền
tảng của đời sống Giáo Hội”[89]. Tôi muốn nhấn mạnh một lần
nữa rằng, mặc dù lòng thương xót không loại trừ công lý và sự thật, “trước hết
chúng ta phải nói rằng lòng thương xót là sự viên mãn của công lý và biểu lộ rạng
rỡ nhất sự thật của Thiên Chúa”[90]. Đó là “chìa khóa dẫn vào
Thiên Đàng”[91].
106. Ở đây, tôi không thể không nhắc đến câu hỏi Thánh Tôma
Aquinô đã đặt ra khi ngài hỏi những hành động nào của chúng ta là cao quý nhất,
những việc làm bên ngoài nào biểu lộ rõ nhất tình yêu của chúng ta đối với
Thiên Chúa. Thánh Tôma không lưỡng lự trả lời rằng đó là những việc làm của
lòng thương xót đối với người lân cận của chúng ta[92],
hơn cả những việc thờ phượng của chúng ta: “Chúng ta thờ phượng Thiên Chúa bằng
những hy sinh và của lễ bên ngoài, không phải đem lại lợi ích gì cho Ngài, mà
cho chính chúng ta và những người lân cận của chúng ta. Quả thật, Ngài không cần
những hi lễ của chúng ta, nhưng ngài muốn chúng ta dâng những hy sinh đó cho
Ngài, để khơi dậy lòng sùng mộ của chúng ta và sinh ích cho tha nhân. Vì thế,
do bởi lòng thương xót mà chúng ta trợ giúp những nhu cầu cấp thiết của người
khác, là một hy lễ được Ngài yêu thích hơn vì hướng trực tiếp đến thiện ích của
tha nhân”[93].
107. Những người thực sự muốn làm vinh danh Thiên Chúa bằng
đời sống của mình, những người thực sự ao ước được nên thánh để biến cuộc đời
mình tôn vinh Đấng Thánh, là những người được mời gọi cố gắng dâng hiến bền bỉ
trong việc thực thi các công việc của lòng thương xót. Thánh Têrêsa Calcutta rất
hiểu điều này: “Vâng, tôi mang nhiều yếu đuối và khốn cùng của phận người. […]
Nhưng Thiên Chúa đã đoái thương sử dụng chúng ta, bạn và tôi, để trở nên tình
yêu và lòng trắc ẩn của Ngài trong thế giới; bất chấp ta tội lỗi, đớn hèn và
nhiều lỗi lầm. Người nhờ chúng ta để yêu thế giới và để cho thấy Người yêu thế
giới biết bao. Nếu chúng ta quá quan tâm đến mình, chúng ta sẽ không còn thời
giờ cho người khác”[94].
108. Chủ nghĩa khoái lạc và tiêu thụ có thể cho thấy sự suy
sụp của chúng ta, vì một khi cứ mải mê tìm lạc thú, rốt cuộc chúng ta sẽ quá bận
tâm đến bản thân mình, đến các quyền lợi của mình, và chúng ta sẽ cảm thấy bức
bối vì thiếu thời giờ để hưởng thụ. Chúng ta sẽ khó mà bận lòng và dành sức lực
để giúp đỡ những người nghèo khổ trừ phi chúng ta có một đời sống giản dị thế
nào đó, trừ phi chúng ta đấu tranh chống lại cơn sốt các yêu cầu mà xã hội tiêu
thụ đè nặng trên chúng ta, biến chúng ta trở nên nghèo nàn và không thỏa mãn,
muốn có và muốn thử mọi sự ngay lập tức. Tương tự như thế, khi chúng ta để mình
bị cuốn vào những thông tin hời hợt, các phương tiện truyền thông tức thời và
thực tại ảo, chúng ta có thể lãng phí thời giờ quý báu và trở nên dửng dưng trước
những xác thể đau khổ của anh em mình. Giữa cơn lốc xoáy hiện nay, Tin Mừng lại
vang lên và trao ban cho chúng ta một đời sống khác, một đời sống lành mạnh và
hạnh phúc hơn.
109. Chứng từ mạnh mẽ của các thánh được tỏ lộ nơi việc các
ngài sống các Mối Phúc và quy luật sống của cuộc phán xét chung thẩm. Chúa
Giêsu nói ít lời đơn sơ, nhưng thực tế và hiệu lực đối với mọi người, vì Kitô
giáo, trên hết là điều để thực hành. Và nếu nó cũng là một đối tượng nghiên cứu
và suy tư, thì điều đó chỉ có giá trị khi nó giúp ta sống Phúc Âm trong cuộc sống
hằng ngày. Tôi đề nghị thường xuyên đọc lại các bản văn Thánh Kinh quan trọng
này, thường xuyên nhắc đến và cầu nguyện với các bản văn đó, cố gắng thực hiện
chúng trong đời sống. Chúng sẽ giúp ích cho chúng ta, chúng sẽ làm cho chúng ta
thực sự được hạnh phúc.
CHƯƠNG IV - VÀI ĐẶC TÍNH CỦA SỰ THÁNH THIỆN TRONG THẾ GIỚI HÔM
NAY
110. Trong khung cảnh to lớn của sự thánh thiện được trình
bày nơi các Mối Phúc và đoạn Tin Mừng theo thánh Mátthêu 25,31-46, tôi muốn tập
hợp lại một vài đặc tính hay thái độ thiêng liêng, mà theo thiển ý của tôi, rất
cần thiết nếu ta muốn hiểu lối sống mà Chúa mời gọi chúng ta. Tôi sẽ không dừng
lại để giải thích các phương thế thánh hóa mà chúng ta đã biết như các phương
pháp cầu nguyện, các Bí tích Thánh Thể và Hòa Giải, những hy sinh cá nhân, các
hình thức sùng kính khác nhau, việc linh hướng và nhiều cách thế khác. Ở đây
tôi chỉ nói về một vài khía cạnh của lời mời gọi nên thánh mà tôi hy vọng được
nhìn nhận có ý nghĩa đặc biệt.
111. Các đặc tính mà tôi muốn nhấn mạnh không phải là tất cả
những tính chất của một khuôn mẫu thánh thiện, nhưng chúng là năm cách diễn tả
tuyệt vời về tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân mà tôi cho là rất quan trọng
trước những nguy hiểm và giới hạn của nền văn hóa ngày nay. Trong nền văn hóa
này chúng ta thấy biểu lộ nhiều lo âu, bồn chồn và hung bạo gây phân tán và suy
nhược; tiêu cực và buồn thảm; sự lười lĩnh do chủ nghĩa hưởng thụ và ích kỷ; chủ
nghĩa cá nhân; và tất cả những hình thức linh đạo thay thế không liên quan gì đến
Thiên Chúa, đang tràn ngập thị trường tôn giáo hiện nay.
Kiên trì, nhẫn nại và hiền lành
112. Điều đầu tiên trong những tính chất lớn lao này là việc
xây dựng nền móng vững chắc nơi Thiên Chúa, Đấng yêu thương và nâng đỡ chúng
ta. Nhờ sức mạnh nội tâm này mà chúng ta có thể kiên trì chịu đựng giữa những
nghịch cảnh, thăng trầm của cuộc sống, và cả những thù hận, phản bội, hay lỗi
phạm nơi người khác. “Nếu Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được
chúng ta” (Rm 8,31). Đây là nguồn
bình an ta thấy nơi thái độ sống của các thánh. Trong một thế giới hối hả, dễ đổi
thay và hung hăng, nhờ sức mạnh nội tâm vững chắc như thế chúng ta có thể làm
chứng cho sự thánh thiện nhờ kiên nhẫn và bền tâm làm việc thiện. Đó là sự
trung tín bởi tình yêu, vì ai đặt tin tưởng nơi Chúa (pístis) thì có thể trung
thành với anh em (pistós), người ấy không bỏ rơi anh em mình lúc hoạn nạn,
không để họ đắm chìm trong lo âu phiền muộn, và vẫn đồng hành với anh em dù điều
đó không mang lại được một thỏa mãn tức thời.
113. Thánh Phaolô kêu gọi các tín hữu Rôma đừng lấy ác báo
ác (x. Rm 12,17), đừng tự mình báo
oán (x. c. 19), và đừng để sự ác thắng được mình, nhưng hãy “lấy sự thiện mà thắng
sự ác” (x. c. 21). Thái độ này không phải là dấu hiệu của sự yếu hèn nhưng là sức
mạnh đích thực, vì chính Thiên Chúa “chậm giận nhưng sức mạnh của Người thật
phi thường” (Nk 1,3). Lời Chúa cảnh tỉnh
chúng ta “đừng bao giờ chua cay gắt gỏng, nóng nảy giận hờn, hay la lối thóa mạ,
và hãy loại trừ mọi hành vi gian ác” (Ep
4,31).
114. Chúng ta cần chiến đấu và tỉnh táo trước các khuynh hướng
hung hăng và vị kỷ của mình, không để chúng bắt rễ. “Anh em nổi nóng ư? Đừng phạm
tội: chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn” (Ep 4,26). Khi ở trong những tình cảnh cảm thấy quá sức chịu đựng,
chúng ta luôn có thể bám lấy cái neo cầu nguyện, và ta sẽ được đưa trở lại
trong vòng tay Thiên Chúa, gần suối nguồn bình an. “Anh em đừng lo lắng gì cả,
nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà
giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình an của
Thiên Chúa là bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ gìn lòng trí anh em” (Pl 4,6-7).
115. Kitô hữu cũng có thể bị cuốn hút vào các mạng lưới ngôn
ngữ bạo lực qua mạng internet và các diễn đàn khác nhau của truyền thông kỹ thuật
số. Ngay cả trong truyền thông Công giáo, người ta cũng có thể vượt quá giới hạn,
đâu đó vẫn chứa chấp những lời lẽ phỉ báng và vu khống, và có vẻ như mọi chuẩn
mực đạo đức và sự tôn trọng thanh danh người khác bị bỏ quên. Như vậy là có một
sự phân cực nguy hiểm, bởi lẽ trên những trang mạng này xuất hiện những điều vốn
không thể được chấp nhận trong cuộc sống công khai, và để tìm cách bù trừ cho
những bất mãn riêng tư mà người ta trút thù hận lên kẻ khác. Điều đáng ngạc
nhiên là đôi khi vì lo giữ những điều răn khác, người ta lại bỏ qua hoàn toàn
điều răn thứ tám: “chớ làm chứng dối”, và họ làm mất thanh danh người khác cách
không thương tiếc. Ở đây, ta thấy miệng lưỡi không kiểm soát là “thế giới của sự
ác” và nó “đốt cháy toàn thể đời sống chúng ta, châm ngòi bằng chính ngọn lửa hỏa
ngục” (x. Gc 3,6).
116. Sức mạnh nội tâm, vốn là công trình của ân sủng, sẽ giữ
chúng ta không để bị cuốn đi bởi bạo lực đang tràn lan trong đời sống xã hội hiện
nay, vì ân sủng dập tắt thói kiêu căng và làm con tim trở nên dịu hiền. Các
thánh không phí sức phàn nàn về lỗi lầm của kẻ khác, họ có thể kềm giữ miệng lưỡi
trước lỗi phạm của anh em, và tránh được ngôn ngữ bạo lực làm hạ giá và ngược
đãi kẻ khác, vì các ngài coi mình không đáng phải cư xử thô bạo với kẻ khác,
nhưng xem người khác hơn mình (x. Pl
2,3).
117. Thật không tốt khi chúng ta đứng trên cao mà nhìn xuống
xét đoán anh em mình như những quan tòa hà khắc, coi họ thấp kém hơn mình và
luôn tìm cách dạy bảo họ. Đây là một hình thức tinh vi của bạo lực[95]. Thánh Gioan Thánh Giá đề
ra một con đường khác: “Bạn hãy luôn muốn được mọi người dạy bảo mình, hơn là
ham dạy bảo dù là người hèn kém nhất”[96].
Và ngài còn khuyên thêm để tránh xa ma quỷ: “Hãy vui mừng trước sự tốt đẹp của
người khác như thể của bạn, và mong muốn chân thành người khác được ưu tiên hơn
bạn trong mọi sự. Như thế, bạn sẽ thắng được sự ác bằng sự thiện, xua đuổi được
ma quỷ, và bạn sẽ có được niềm vui trong tâm hồn. Hãy cố gắng thực hành điều
này đặc biệt với những người bạn cảm thấy khó thương nhất. Hãy biết rằng nếu bạn
không rèn luyện theo cách này, bạn sẽ không đạt được đức ái thực sự hay đạt được
bất cứ sự tiến bộ nào về nhân đức này”[97].
118. Sự khiêm nhường chỉ có thể bén rễ trong tâm hồn ngang
qua những sự hạ mình. Không có sự tự hạ sẽ không có khiêm nhường và thánh thiện.
Nếu bạn không thể chịu đựng sỉ nhục và chịu hạ mình một chút nào đó, thì bạn
không khiêm nhường và không ở trên nẻo đường thánh thiện. Sự thánh thiện mà
Thiên Chúa ban cho Hội Thánh đến từ sự tự hạ của Chúa Con. Ngài là con đường. Sự
tự hạ làm cho bạn nên giống Chúa Giêsu, đó là phần thiết yếu của việc bắt chước
Chúa Kitô: “Đức Kitô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một gương mẫu cho anh em
dõi bước theo Người” (1 Pr 2,21). Về
phần mình, Người cho thấy sự khiêm hạ của Chúa Cha, Đấng tự hạ để đồng hành
cùng dân Ngài, chịu đựng những sự bất trung và phàn nàn kêu ca của họ (x. Xh 34,6-9; Kn 11,23-12,2; Lc 6,36).
Vì lý do này mà các Tông đồ, sau khi chịu sỉ nhục, “lòng hân hoan bởi được coi
là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu” (Cv 5,41).
119. Ở đây tôi không chỉ nói về những hoàn cảnh tàn bạo của
việc tử đạo, nhưng còn về những sự hạ mình hằng ngày của những người âm thầm chịu
đựng để cứu vãn gia đình mình, hoặc những con người không thích khoe khoang
mình, thích khen ngợi người khác hơn là ca tụng mình, thích chọn những việc thấp
hèn, và ngay cả đôi khi sẵn lòng chịu sự bất công để dâng hy sinh lên Chúa. “Nếu
làm việc lành và phải khổ mà anh em vẫn kiên tâm chịu đựng, thì đó là ơn Chúa
ban” (1 Pr 2,20). Điều này không có
nghĩa là ta bước đi với đôi mắt cứ nhìn xuống, không hề mở miệng và tránh né mọi
người. Đôi khi, chính vì tự do đối với tính ích kỷ, mà người ta dám bày tỏ sự bất
đồng một cách nhẹ nhàng, đòi hỏi công lý hay bảo vệ người yếu trước kẻ mạnh,
ngay cả khi việc này có thể làm hại thanh danh của họ.
120. Tôi không nói việc hạ mình như thế là một điều thích
thú, vì nếu thế có thể là bệnh khổ dâm (masochismo), nhưng đây là cách bắt chước
Chúa Giêsu và lớn lên trong sự kết hợp với Người. Đó là điều mà con người không
hiểu được theo lẽ tự nhiên, và thế gian cười nhạo kiểu quan niệm như thế. Nhưng
đây là một ân sủng chúng ta cần cầu xin “Lạy Chúa, khi con bị sỉ nhục, xin giúp
con cảm thấy rằng con đang bước theo dấu chân của Chúa”.
121. Để sống được điều đó ta cần có một con tim tràn đầy
bình an của Đức Kitô, tự do không bị khống chế bởi tính hung hăng ngạo mạn.
Chính sự bình an này, vốn là hoa trái của ân sủng, giúp ta duy trì niềm tín
thác nội tâm và chịu đựng kiên trì trong việc thiện, “dù đi qua thung lũng âm
u” (Tv 23,4) hay “dù cả một đạo quân
vây đánh” (Tv 27,3). Đứng vững trong
Chúa là Đá Tảng, chúng ta có thể hát lên: “Thư thái bình an vừa nằm con đã ngủ,
vì chỉ có mình Ngài, lạy Chúa, ban cho con được sống yên hàn” (Tv 4,8). Tóm lại, Đức Kitô “là sự bình
an của chúng ta” (Ep 2,14) và Người
đã đến “dẫn ta bước vào đường nẻo bình an” (Lc
1,79). Người đã nói với Thánh Faustina Kowalska rằng “nhân loại sẽ không có
bình an cho tới khi biết quay về tín thác vào lòng thương xót của Ta”[98]. Vì thế, chúng ta đừng để
mình rơi vào cám dỗ tìm sự an toàn nơi thành công, nơi những thú vui phù phiếm,
nơi của cải, nơi quyền lực trên kẻ khác và địa vị xã hội: “Thầy ban cho anh em
bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian” (Ga 14,27).
Niềm vui và tinh thần hài hước
122. Những gì chúng ta đã nói cho tới nay về sự thánh thiện
của các thánh không hàm chứa sự rụt rè, buồn thảm, chua chát, u sầu, hay mang bộ
mặt thê lương. Các thánh luôn vui vẻ và đầy tinh thần hài hước. Dù rất thực tế,
các thánh vẫn chiếu tỏa một tinh thần tích cực và đầy hy vọng. Làm Kitô hữu có
nghĩa là “đầy hoan lạc trong Thánh Thần” (Rm
14,17), vì “hoa quả thiết yếu của đức ái là niềm vui. Vì ai yêu thì vui mừng được
kết hợp với người mình yêu […], đức ái mang lại niềm vui”[99].
Chúng ta đã lãnh nhận món quà tuyệt vời là Lời Chúa, và đã ôm ấp Lời ấy “ngay
giữa bao nỗi gian truân với niềm vui do Thánh Thần ban” (1 Tx 1,6). Nếu chúng ta để Chúa lôi kéo chúng ta ra khỏi vỏ ốc và biến
đổi mình, chúng ta có thể làm như Thánh Phaolô kêu gọi chúng ta: “Hãy vui lên
trong Thiên Chúa, tôi nhắc lại, hãy vui lên!” (Pl 4,4).
123. Các tiên tri đã loan báo thời đại của Chúa Giêsu, thời
mà chúng ta đang sống đây, như một mạc khải của niềm vui. “Hãy reo hò mừng rỡ!”
(Is 12,6). “Hỡi kẻ loan tin mừng cho
Sion, hãy trèo lên núi cao. Hỡi kẻ loan tin mừng cho Giêrusalem, hãy cất tiếng
lên thật mạnh mẽ! (Is 40,9). “Trời
hãy hò reo, đất hãy nhảy múa, núi non hãy bật tiếng hò reo, vì Thiên Chúa ủi an
dân Ngài. Ngài đã chọn và chạnh lòng thương những kẻ nghèo khổ của Ngài” (Is 49,13). “Nào thiếu nữ Sion, hãy vui mừng
hoan hỉ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của
ngươi đang đến với ngươi: Ngài là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng” (Dcr 9,9). Chúng ta cũng không được quên
lời khích lệ của Nêhêmia: “Anh em đừng buồn bã, vì niềm vui của Thiên Chúa là
thành trì bảo vệ anh em” (8,10).
124. Khi nhận ra sự mới mẻ mà Đức Giêsu mang đến, Đức Maria
đã cất tiếng reo vui: “Thần trí tôi hớn hở vui mừng (Lc 1,47) và chính Đức Giêsu “đã hớn hở vui mừng trong Chúa Thánh Thần”
(Lc 10,21). Khi Người đi qua, “toàn
thể dân chúng vui mừng” (Lc 13,17).
Sau khi Chúa phục sinh, bất cứ nơi nào các Tông đồ đặt chân đến, người ta đều
“rất vui mừng” (Cv 8,8). Chúa Giêsu bảo
đảm với chúng ta “Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm
vui. […] Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng; và niềm vui của anh
em, không ai lấy mất được” (Ga
16,20.22). “Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em để anh em được hưởng niềm vui của
Thầy, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn” (Ga 15,11).
125. Những lúc khó khăn có thể xảy đến khi thánh giá xuất hiện,
nhưng không gì có thể hủy diệt được niềm vui siêu nhiên, một niềm vui vốn có thể
“thích ứng và thay đổi, nhưng luôn tồn tại ít nữa như là một tia sáng phát sinh
từ niềm xác tín riêng rằng, sau tất cả, ta được thương yêu vô cùng”[100]. Niềm vui này là một bảo đảm
sâu xa, một niềm cậy trông tràn đầy an bình, đem đến cho ta niềm vui thỏa
thiêng liêng mà thế gian không thể hiểu được.
126. Niềm vui Kitô giáo thường đi kèm với một cảm thức hài
hước mà ta có thể thấy rõ, chẳng hạn nơi Thánh Tôma More, Thánh Vinh sơn
Phaolô, Thánh Philiphê Nêri. Sự hài hước bệnh hoạn không phải là dấu chỉ của sự
thánh thiện. “Hãy đẩy lui sầu não khỏi tâm hồn” (Gv 11,10). Chúng ta lãnh nhận rất nhiều từ Thiên Chúa “để có thể hưởng
dùng” (1 Tm 6,17), cho nên đôi khi buồn
phiền có thể là dấu hiệu của sự vô ơn. Chúng ta có thể quá bận tâm đến chính
mình đến nỗi không thể nhận ra những quà tặng của Thiên Chúa.[101]
127. Với tình yêu hiền phụ Thiên Chúa mời gọi chúng ta: “Con
ơi, hãy làm cho đời con được tốt đẹp… Đừng từ chối không hưởng một ngày vui” (Hc 14,11.14). Ngài muốn chúng ta có thái
độ tích cực, biết ơn và không quá phức tạp: “Ngày gặp may mắn, hãy cứ vui hưởng…
Con người do Thiên Chúa làm nên, vốn đơn sơ ngay thẳng, nhưng chính họ lại đi
tìm đủ chuyện rắc rối quanh co” (Gv
7,14.29). Dù gặp bất cứ hoàn cảnh nào, ta hãy giữ một tinh thần uyển chuyển và
bắt chước Thánh Phaolô: “Tôi đã học biết bằng lòng với những gì mình có” (Pl 4,11). Đó là điều Thánh Phanxicô
Assisi đã sống, ngài có thể cảm thấy tràn đầy lòng biết ơn trước một mẩu bánh
mì khô, hay vui mừng hát ca tôn vinh Thiên Chúa chỉ vì một làn gió nhẹ làm mát
khuôn mặt ngài.
128. Điều tôi đang nói đây không phải là niềm vui theo kinh
nghiệm của một số nền văn hóa ngày nay chạy theo chủ nghĩa tiêu thụ và chủ
nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa tiêu thụ thật ra chỉ làm cho con tim ta ra nặng nề. Nó
có thể mang lại những vui thú mau qua lúc này lúc khác, nhưng không phải là niềm
vui. Ở đây tôi đang nói về một niềm hoan hỉ được sống trong mối hiệp thông, biết
chia sẻ và được chia sẻ, vì “cho thì có phúc hơn là nhận (Cv 20,35) và “ai vui vẻ dâng hiến thì được Thiên Chúa yêu thương”
(2 Cr 9,7). Tình yêu huynh đệ làm gia
tăng niềm vui nơi chúng ta, vì nó có thể làm cho chúng ta vui mừng về điều tốt
lành của người khác: “Hãy vui với người vui” (Rm 12,15). “Chúng tôi vui mừng
khi chúng tôi yếu mà anh em lại mạnh” (2 Cr
13,9). Ngược lại, nếu chúng ta “bận tâm trên hết đến nhu cầu của mình, thì
chúng ta đã tự kết án mình sống không niềm vui”[102].
Bạo dạn và say mê
129. Thánh thiện đồng thời cũng là parresía, nghĩa là sự bạo
dạn, là một thôi thúc loan báo Tin Mừng và để lại dấu ấn trong thế giới. Để
giúp chúng ta làm điều này, chính Chúa Giêsu đến gặp gỡ và nói với chúng ta một
lần nữa, một cách trầm tĩnh nhưng mạnh mẽ: “Đừng sợ” (Mc 6,50). “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Những lời này thúc giục chúng
ta lên đường và phục vụ một cách hết sức bạo dạn, như Chúa Thánh Thần đã khơi
lên nơi các Tông đồ, thúc đẩy họ loan báo Chúa Giêsu Kitô. Sự bạo dạn, nhiệt
tâm, tự do lên tiếng, niềm hăng say tông đồ, tất cả những điều này được bao hàm
trong từ parresía. Thánh Kinh cũng dùng từ này để mô tả sự tự do của một đời sống
mở ra với Thiên Chúa và với tha nhân (x. Cv
4,29; 9,28; 28,31; 2 Cr 3,12; Ep 3,12; Dt 3,6; 10,19).
130. Chân phước Phaolô VI, khi bàn về những trở ngại đối với
việc loan báo Tin Mừng, đã nói về việc thiếu hăng say (parresía) và đây là trở
ngại “nghiêm trọng hơn bất cứ điều nào khác vì xuất phát từ bên trong”[103]. Đã bao lần chúng ta bị
cám dỗ muốn thoải mái giữ thuyền trên bờ! Nhưng Chúa mời gọi chúng ta ra chỗ nước
sâu mà thả lưới (x. Lc 5,4). Người mời
gọi chúng ta dâng hiến đời mình để phục vụ Người. Bám vào Người, chúng ta được
can đảm đem mọi đặc sủng ra phục vụ người khác. Chúng ta có thể cảm thấy được
tình yêu Chúa thúc bách (x. 2 Cr
5,14) và nói như Thánh Phaolô: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”
(1 Cr 9,16).
131. Chúng ta hãy nhìn vào Chúa Giêsu. Lòng trắc ẩn sâu xa của
Người không tập chú vào mình, không làm mình tê liệt, nhút nhát, hay ngượng
ngùng như thường xảy ra với chúng ta, nhưng hoàn toàn ngược lại. Lòng trắc ẩn ấy
thúc đẩy Người mạnh bạo đi ra loan báo và sai người khác đi thực thi sứ vụ chữa
lành và giải thoát. Chúng ta hãy nhìn nhận mình yếu hèn, nhưng hãy để cho Chúa
Giêsu nắm lấy và sai chúng ta đi thực thi sứ vụ. Chúng ta yếu hèn, nhưng chúng
ta nắm giữ một kho tàng làm cho mình lớn mạnh hơn và làm cho những ai đón nhận
kho tàng ấy cũng trở nên tốt hơn và hạnh phúc hơn. Sự bạo dạn và lòng quả cảm
tông đồ là phần thiết yếu của sứ mạng.
132. Parresía là dấu ấn của Chúa Thánh Thần, là điều chứng
thực cho lời chúng ta loan báo. Đó là bảo chứng hân hoan đưa ta tới vinh quang
trong Tin Mừng mà ta loan báo. Đó là niềm tin tưởng không lay chuyển đặt nơi vị
Chứng Nhân trung tín, là Đấng bảo đảm cho chúng ta rằng không gì có thể “tách
chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa” (Rm
8,39).
133. Chúng ta cần sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, kẻo chúng
ta bị tê liệt vì sợ hãi và thận trọng thái quá, kẻo chúng ta chỉ quen sống
trong phạm vi an toàn. Chúng ta hãy nhớ rằng những không gian đóng kín rồi sẽ trở
nên ẩm mốc và dễ gây bệnh. Khi các Tông đồ bị cám dỗ để cho mình bị tê liệt bởi
nỗi sợ hãi và nguy hiểm, các ngài đã họp nhau cầu nguyện để xin ơn parresía:
“Giờ đây, lạy Chúa, xin để ý đến những lời ngăm đe của họ, và cho các tôi tớ
Ngài đây được nói lời Ngài với tất cả sự mạnh dạn” (Cv 4,29). Và câu trả lời là, họ cầu nguyện xong, thì nơi họ họp
nhau rung chuyển; ai nấy đều được tràn đầy Thánh Thần và bắt đầu mạnh dạn nói lời
Thiên Chúa” (Cv 4,31).
134. Giống như tiên tri Giôna, chúng ta luôn bị một cám dỗ
tiềm tàng là trốn tránh và đi tìm một nơi an trú. Nơi trú ẩn an toàn ấy có nhiều
tên: chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa duy linh, việc thu mình trong một thế giới nhỏ
hẹp, nghiện ngập, sống theo lề thói cứng cỏi, định kiến từ chối những cách tân,
chủ nghĩa giáo điều, óc hoài cổ, bi quan, ẩn mình đàng sau luật lệ và quy tắc.
Có khi chúng ta cưỡng lại việc rời bỏ một cách thức làm việc quen thuộc và tiện
lợi. Tuy nhiên, các thách đố xuất hiện có thể giống như cơn bão, con cá voi ấy,
con sâu làm héo cây thầu dầu ấy, hay cơn gió và cái nắng chói chang ấy đã thiêu
đốt cái đầu trần của Giôna. Và cũng như trường hợp của Giôna, những thách đố
này có thể mang chúng ta trở về với Thiên Chúa trìu mến, Đấng mời gọi chúng ta
lên đường trong một hành trình liên tục và luôn mới mẻ.
135. Thiên Chúa luôn luôn mới mẻ. Ngài không ngừng thúc đẩy
chúng ta bắt đầu lại và vượt quá những gì quen thuộc để đi đến những vùng ngoại
vi và đi đến tận cùng chân trời. Ngài đưa chúng ta tới những nơi nhân loại bị
thương tích nhiều nhất, nơi mà con người, ẩn dưới cái vẻ bên ngoài ổn thỏa, vẫn
tiếp tục tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi về ý nghĩa cuộc sống. Thiên Chúa
không sợ hãi! Ngài không biết sợ! Ngài luôn đi xa hơn mọi kế hoạch của chúng ta
và không sợ những vùng ngoại vi. Chính Ngài đã trở nên một vùng ngoại biên (x. Pl 2,6-8; Ga 1,14). Vì thế, nếu chúng ta dám đi tới những vùng ngoại biên,
chúng ta sẽ gặp Ngài ở đó. Ngài đã có đó rồi. Chúa Giêsu đã đi trước chúng ta,
Người luôn có đó, trong trái tim người anh em chúng ta, trong thân xác bị
thương tích của họ, trong cuộc sống gian truân của họ và trong linh hồn tăm tối
của họ. Người đã có đó.
136. Quả thực chúng ta cần mở trái tim cho Chúa Giêsu, vì
Người đứng ngoài gõ cửa và gọi (x. Kh
3,20). Nhưng đôi khi tôi tự hỏi liệu cũng có thể Chúa Giêsu đã ở trong đó rồi
và Người gõ cửa lòng ta để xin chúng ta mở cho Người ra ngoài, thoát khỏi tình
trạng vị kỷ hôi thối của chúng ta hay chăng. Trong Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa
Giêsu “rảo qua các thành phố và làng mạc, rao giảng và loan báo Tin Mừng Nước
Thiên Chúa” (Lc 8,1). Cả sau khi phục
sinh, khi các môn đệ ra đi mọi hướng, “Chúa cùng hoạt động với họ” (x. Mc 16,20). Đó là hệ quả của một sự gặp gỡ
đích thực.
137. Thói quen có sức rất hấp dẫn và nó nói với chúng ta rằng:
cố gắng thay đổi không có ý nghĩa gì cả, trước hoàn cảnh như thế chúng ta chẳng
làm được gì, và sự vật xưa nay vẫn thế, nhưng chúng ta vẫn sống đấy thôi. Do
thói quen mà chúng ta không còn đứng lên đương đầu với sự dữ nữa và ta cho phép
“mọi sự cứ như vậy”, hay như một số người đã quyết định chúng phải như vậy.
Nhưng chúng ta hãy để cho Chúa đến đánh thức, lay tỉnh chúng ta khỏi giấc ngủ
mê, giải thoát ta khỏi sự ì ạch của mình! Chúng ta hãy xét lại cách thế chúng
ta quen làm việc, chúng ta hãy mở mắt và mở tai, và nhất là mở con tim để lòng
mình được khuấy động bởi những gì đang diễn ra xung quanh ta cũng như bởi Lời hằng
sống và quyền năng của Chúa Phục sinh.
138. Chúng ta được thôi thúc để hành động theo gương của biết
bao linh mục, tu sĩ, và giáo dân, những người dấn thân cho việc loan báo Tin Mừng
và phục vụ con người với lòng trung thành lớn lao, nhiều khi còn liều mạng sống,
và chắc chắn họ phải hy sinh một cuộc sống tiện nghi dễ chịu. Chứng tá của họ
nhắc chúng ta rằng Hội Thánh cần, không phải những quan chức bàn giấy cho bằng
là, những thừa sai đầy nhiệt huyết, hết lòng chia sẻ đời sống thực. Các Thánh
làm ta kinh ngạc và băn khoăn vì cuộc sống của các ngài thúc bách chúng ta từ bỏ
cuộc sống tầm thường, tẻ nhạt và mê ngủ.
139. Ta hãy xin ơn Chúa để đừng do dự khi được Thánh Thần
đòi hỏi ta dấn bước. Chúng ta hãy xin ơn được can đảm như các Tông đồ để chia sẻ
Tin Mừng với người khác và không biến đời Kitô hữu của mình thành một viện bảo
tàng những ký ức. Trong mọi hoàn cảnh, hãy để Chúa Thánh Thần giúp chúng ta
chiêm ngắm lịch sử trong viễn tượng Chúa Giêsu Phục sinh. Nhờ đó, Hội Thánh sẽ
không đứng im bất động, nhưng có thể đi tới, đón nhận những điều ngạc nhiên của
Chúa.
Trong cộng đoàn
140. Khi sống cô lập xa cách người khác, thật khó để chúng
ta chiến đấu chống lại nhục dục, chống lại các cạm bẫy, các cám dỗ của ma quỷ,
và sự ích kỷ của thế gian. Bị tấn công dồn dập bởi quá nhiều lực lôi kéo, nếu
chúng ta quá cô độc, ta sẽ dễ mất cảm thức về thực tại và sự trong sáng nội
tâm, và dễ đầu hàng.
141. Nên thánh là một hành trình trong cộng đoàn, sống cùng
với những người khác. Chúng ta thấy điều này nơi một vài cộng đoàn thánh thiện.
Đôi khi Giáo Hội đã tuyên thánh trọn cả cộng đoàn đã sống Tin Mừng một cách anh
hùng hay đã dâng hiến cho Thiên Chúa sự sống của tất cả các thành viên. Chẳng hạn,
chúng ta có thể nghĩ tới bảy vị sáng lập thánh thiện của Dòng Tôi Tớ Đức Maria,
bảy Chân phước nữ tu thuộc đan viện đầu tiên của Dòng Thăm Viếng ở Madrid,
Thánh Phaolô Miki và các bạn tử đạo ở Nhật Bản, Thánh Andrew Taegon và các bạn
tử đạo ở Triều Tiên, hay Thánh Rocco González và Alonso Rodríguez và các bạn tử
đạo ở Nam Mỹ. Chúng ta cũng nhớ đến các chứng tá gần đây của các đan sĩ
Trappist ở Tibhirine (Algeria), những người đã được chuẩn bị trong tư cách một
cộng đoàn tử đạo. Cũng thế, có nhiều cặp vợ chồng thánh thiện, trong đó mỗi người
trở thành một phương tiện mà Đức Kitô dùng để thánh hóa người kia. Sống hay làm
việc cùng với những người khác chắc chắn là một con đường tăng trưởng thiêng
liêng. Thánh Gioan Thánh Giá đã nói với một trong các môn đệ của ngài: “Con sống
với những người khác là để được họ uốn nắn và thử thách về đàng nhân đức”[104].
142. Cộng đoàn được mời gọi kiến tạo “một không gian đối thần
trong đó ta có thể sống kinh nghiệm sự hiện diện huyền nhiệm của Chúa Phục
sinh”[105]. Việc chia sẻ Lời Chúa và
cử hành Thánh Thể với nhau thúc đẩy tình huynh đệ và làm cho chúng ta dần dần
trở thành một cộng đoàn thánh thiện và truyền giáo. Điều đó cũng làm nảy sinh
những kinh nghiệm thần bí đích thực chia sẻ chung với nhau, như trường hợp của thánh
Biển Đức và thánh Scholastica, hay như kinh nghiệm thiêng liêng tuyệt vời được
chia sẻ bởi thánh Augustinô và Mẹ ngài là thánh Mônica. “Khi gần tới ngày mẹ
con xa lìa cõi đời này, ngày mà Chúa biết rõ, còn chúng con thì không, đã xảy
ra một chuyện mà con tin là do Chúa sắp đặt theo đường lối nhiệm mầu của Chúa:
lúc đó chỉ có mẹ và con, đứng tựa cửa sổ nhìn ra thửa vườn […]. Chúng con nao nức
mở rộng tâm hồn hớp lấy những dòng suối từ suối nguồn của Chúa, cội nguồn sự sống
xuất phát từ nơi Chúa […]. Và khi chúng con nói và khát khao về lẽ khôn ngoan ấy,
chúng con đã chạm được một phần nào đó với toàn lực của tâm trí mình […] sự sống
vĩnh cửu có thể giống một khoảnh khắc huệ trí như thế mà hiện giờ chúng con vẫn
khát khao”[106].
143. Tuy nhiên, những kinh nghiệm như thế không thường xảy
ra, và cũng không phải là điều quan trọng nhất. Đời sống cộng đoàn, dù là trong
gia đình, giáo xứ, cộng đoàn tu trì hay bất cứ cộng đoàn nào khác, được hình
thành bởi bao điều nhỏ nhặt thường ngày. Đó thực sự là trường hợp của cộng đoàn
thánh, được hợp thành bởi Chúa Giêsu, Đức Maria và Thánh Giuse, ở đó phản ánh một
cách mẫu mực vẻ đẹp của sự hiệp thông Ba Ngôi Thiên Chúa. Đó cũng là đời sống
mà Chúa Giêsu chia sẻ với các môn đệ của Ngài và với dân chúng.
144. Chúng ta đừng quên rằng Chúa Giêsu đã mời gọi các môn đệ
chú ý đến những chi tiết:
Chi tiết nhỏ về chuyện hết rượu tại một tiệc cưới;
Chi tiết
nhỏ về chuyện một con chiên lạc mất;
Chi tiết nhỏ về việc người goá phụ dâng cúng hai đồng xu nhỏ;
Chi tiết nhỏ về việc mang dầu dự trữ cho đèn, phòng trường hợp
chàng rể đến chậm;
Chi tiết nhỏ về việc hỏi xem các môn đệ có bao nhiêu ổ bánh;
Chi tiết nhỏ về việc nhóm bếp lửa và nướng cá khi Người chờ
đợi các môn đệ lúc tinh sương.
145. Một cộng đoàn biết trân trọng những chi tiết nhỏ của
tình yêu[107], nơi đó các thành viên
chăm sóc lẫn nhau và tạo ra một môi trường mở và đầy tinh thần Phúc âm, là nơi
Chúa Phục Sinh hiện diện, thánh hóa cộng đoàn theo kế hoạch của Chúa Cha. Có
đôi khi, nhờ món quà tình yêu của Chúa giữa những chi tiết nho nhỏ này, chúng
ta được Thiên Chúa ban cho những kinh nghiệm an ủi. “Một buổi tối mùa đông tôi
đang làm việc bổn phận nhỏ bé của tôi như thường lệ [...], thình lình, tôi nghe
thấy từ xa tiếng đàn du dương. Rồi tôi thấy thoáng hiện một phòng khách sáng
trưng, trang hoàng rực rỡ, đầy các quý cô với trang phục quý phái đang trò chuyện
và trao cho nhau những lời khen ngợi đủ kiểu và những lời tán tụng thế gian. Rồi
tôi quay lại nhìn người chị em đau ốm nghèo nàn mà tôi đang giúp đỡ. Ở đây,
thay cho điệu nhạc du dương, thỉnh thoảng tôi chỉ nghe thấy những tiếng than thở
của chị ấy [...]. Tôi không thể diễn tả được điều đã xảy ra trong tâm hồn tôi,
điều tôi biết là Chúa đã soi sáng tâm hồn tôi bằng những tia sáng chân lý vượt
quá vẻ huy hoàng mà u ám của những lễ hội trần thế, đến nỗi tôi không thể tin
đó là hạnh phúc của mình”[108].
146. Trái ngược với chủ nghĩa cá nhân hưởng thụ vốn có
khuynh hướng cô lập chúng ta trong việc tìm kiếm hưởng thụ phúc lợi cho mình
tách biệt khỏi người khác, con đường nên thánh của chúng ta chỉ có thể làm cho
mình mỗi lúc một gắn bó chặt chẽ hơn với ước muốn của Chúa Giêsu: “Xin cho tất
cả được nên một, như Cha ở trong Con, và Con ở trong Cha” (Ga 17,21).
Trong cầu nguyện liên lỉ
147. Cuối cùng, dù có vẻ hiển nhiên, chúng ta nên nhớ rằng sự
thánh thiện hệ tại ở việc thường xuyên mở lòng ra với Đấng siêu việt, điều đó
được diễn tả trong việc cầu nguyện và thờ phượng. Một vị thánh là người có tinh
thần cầu nguyện và khát khao thông giao với Thiên Chúa. Thánh nhân là người
không chịu được sự ngột ngạt của thế giới nội tại khép kín chật hẹp này, và giữa
những nỗ lực dâng hiến, ngài khao khát Chúa, ngài ra khỏi chính mình trong việc
ca tụng và mở rộng biên giới của bản thân qua việc chiêm ngắm Chúa. Tôi không
tin vào sự thánh thiện mà không có cầu nguyện, dù đó là việc cầu nguyện không
nhất thiết phải dài hoặc gắn với những cảm xúc mãnh liệt.
148. Thánh Gioan Thánh Giá khuyên chúng ta “cố gắng thường
xuyên sống trong sự hiện diện với Thiên Chúa, dù là hiện diện thực, hay tưởng
tượng, hoặc kết hiệp, theo mức độ mà công việc của bạn cho phép”[109]. Sau cùng, niềm khao khát
Thiên Chúa của chúng ta chắc chắn phải được biểu lộ cách nào đó trong cuộc sống
hằng ngày: “Hãy chuyên cần cầu nguyện, không bỏ lơi cả khi đang bận bịu với những
việc bên ngoài. Dù bạn ăn uống, chuyện trò với người khác hoặc với người đời,
hoặc làm bất cứ việc gì, hãy luôn luôn ước ao Thiên Chúa và gắn bó tâm hồn với
Ngài”[110].
149. Tuy nhiên, để được như vậy, cũng cần có những khoảng thời
gian chỉ dành riêng cho Thiên Chúa, một mình với Chúa thôi. Đối với Thánh
Têrêsa Avila, cầu nguyện “là một tương giao thân tình bằng hữu, và chuyện trò
thường xuyên một mình với Đấng mà chúng ta biết Ngài yêu thương chúng ta”[111]. Tôi muốn nhấn mạnh rằng
điều này đúng không chỉ cho một số ít người được đặc ân, mà còn cho tất cả
chúng ta, vì “tất cả chúng ta đều cần sự thinh lặng này, sự thinh lặng tràn đầy
sự hiện diện của Đấng ta tôn thờ”[112].
Lời cầu nguyện đầy tin tưởng là sự đáp trả của một con tim mở ra để gặp gỡ
Thiên Chúa diện đối diện, trong đó mọi tiếng nói đều lặng thinh để có thể nghe
được tiếng êm ái của Chúa giữa thinh không.
150. Trong sự thinh lặng ấy, dưới ánh sáng của Chúa Thánh Thần,
chúng ta có thể phân định những nẻo đường nên thánh mà Chúa mời gọi mình. Nếu
không, bất cứ quyết định nào của chúng ta cũng chỉ là các vật trang sức bề
ngoài, thay vì đề cao Tin Mừng trong đời sống chúng ta, chúng lại che lấp hoặc
nhấn chìm Tin Mừng. Đối với mỗi môn đệ, điều chính yếu là phải ở với Thầy để lắng
nghe Lời Người và luôn học với Người. Nếu chúng ta không lắng nghe, tất cả những
lời lẽ của chúng ta sẽ chẳng là gì ngoài những lời ba hoa vô ích.
151. Chúng ta cần nhớ rằng “việc chiêm ngắm dung nhan Chúa
Giêsu, Đấng đã chết và sống lại, sẽ phục hồi nhân tính của chúng ta, ngay cả
khi nhân tính ấy bị tan tác bởi những vất vả của cuộc đời hoặc bị ghi dấu bởi tội
lỗi. Chúng ta không được làm suy giảm quyền năng của dung nhan Đức Kitô”[113]. Vì thế, tôi xin hỏi các bạn:
Có những giây phút nào bạn thinh lặng đặt mình trước sự hiện diện của Chúa, những
lúc bạn thư thái ở với Người, và để Người nhìn ngắm bạn hay không? Bạn có để ngọn
lửa của Người cháy lên trong lòng mình không? Nếu không để Người sưởi ấm bạn bằng
tình yêu và sự dịu dàng của Người, bạn sẽ không có lửa, và như thế làm sao bạn
có thể đốt nóng trái tim người khác bằng chứng tá và lời nói của bạn? Và nếu
trước dung nhan của Đức Kitô bạn vẫn cảm thấy không thể được chữa lành và biến
đổi, thì hãy bước vào Trái Tim của Chúa, bước vào những vết thương của Người,
vì đó là chỗ của Lòng Chúa Xót Thương.[114]
152. Nhưng tôi xin đừng bao giờ coi sự thinh lặng cầu nguyện
là một hình thức trốn tránh và chối bỏ thế giới xung quanh mình. Có một vị
khách hành hương người Nga, là người đã không ngừng cầu nguyện, nói rằng việc cầu
nguyện không tách mình ra khỏi những thực tại bên ngoài: “Nếu tôi tình cờ gặp
ai đó, bất kể là người nào, ai cũng đều tử tế với tôi như thể họ là người thân
trong gia đình. […] Tôi không chỉ cảm thấy vui trong tâm hồn, mà cả thế giới
bên ngoài đối với tôi dường như cũng tươi đẹp và đáng yêu”[115].
153. Lịch sử cũng không biến mất. Cầu nguyện, chính vì được
nuôi dưỡng bằng hồng ân của Thiên Chúa đổ tràn vào đời sống chúng ta, nên nó
luôn được ghi dấu bằng sự hồi tưởng. Hồi tưởng về các công trình của Thiên Chúa
là cơ sở của kinh nghiệm giao ước giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Nếu Thiên Chúa
đã muốn đi vào lịch sử, thì việc cầu nguyện được đan dệt bởi các ký ức. Chúng
ta nhớ không những về Lời mạc khải, mà còn về cuộc sống của chúng ta, cuộc sống
của những người khác, và tất cả những gì Chúa đã làm trong Hội Thánh của Người.
Đó là việc nhớ lại với lòng biết ơn mà thánh Inhaxiô Loyola đã đề cập đến trong
bài “Chiêm niệm để được Tình yêu”[116],
khi ngài xin chúng ta ý thức về tất cả những phúc lành mà chúng ta đã lãnh nhận
từ Chúa. Hãy nghĩ về lịch sử đời mình khi bạn cầu nguyện, ở đó bạn sẽ gặp thấy
rất nhiều lòng thương xót. Đồng thời điều này cũng giúp bạn ý thức hơn việc
Chúa luôn nghĩ đến bạn và Ngài không bao giờ quên bạn. Vì vậy, thật là ý nghĩa
khi xin Ngài soi sáng những chi tiết nhỏ nhất của đời mình, vì Ngài thấy rõ mọi
sự.
154. Cầu nguyện khẩn cầu là một diễn tả của một tâm hồn tín
thác vào Thiên Chúa và biết rằng tự mình không thể làm gì được. Trong đời sống
của Dân trung tín của Thiên Chúa chúng ta thấy có nhiều lời khẩn cầu phát xuất
từ lòng yêu mến tràn đầy niềm tin và lòng cậy trông sâu xa. Chúng ta đừng coi
thường lời cầu nguyện xin ơn, vốn là lời cầu rất thường làm ta an tâm và giúp
ta tiếp tục chiến đấu kiên trì trong hy vọng. Lời cầu nguyện chuyển cầu có giá
trị đặc biệt, vì đó là một hành động tín thác vào Thiên Chúa, đồng thời diễn tả
tình yêu đối với tha nhân. Có những người, bởi một thiên kiến duy linh nào đó,
nghĩ rằng cầu nguyện phải là việc chiêm niệm Thiên Chúa thuần túy, không để bị
phân tâm, như thể nghĩ đến tên tuổi và khuôn mặt của anh em cũng là một rầy rà
cần phải tránh. Trái lại, thực ra lời cầu nguyện của chúng ta sẽ càng làm vui
lòng Chúa và làm ta nên thánh hơn nếu, qua lời cầu nguyện chuyển cầu đó, ta cố
gắng thực hành điều răn hai mặt mà Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta. Chuyển cầu
diễn tả mối quan tâm huynh đệ của chúng ta đối với anh em, vì trong đó, chúng
ta có thể ôm lấy cuộc sống, những lo âu bấn loạn của họ và các giấc mơ cao quý
nhất của họ. Đối với những người chuyên chăm chuyển cầu cách quảng đại cho người
khác, chúng ta có thể áp dụng lời Thánh Kinh sau: “Đây là người yêu mến anh em
mình và cầu nguyện nhiều cho dân chúng” (2 Mcb
15,14).
155. Nếu thật sự chúng ta nhìn nhận Thiên Chúa hiện hữu, thì
chúng ta không thể không thờ phượng Ngài, có khi với lòng đầy thán phục trong lặng
lẽ, hoặc có khi ca tụng Ngài bằng những lời hoan ca. Như thế, chúng ta diễn tả
kinh nghiệm của Chân phước Charles de Foucauld, khi ngài nói: “Ngay khi tôi tin
có Thiên Chúa, tôi hiểu rằng tôi không thể làm gì khác hơn là sống cho Ngài”[117]. Trong đời sống của Dân
Chúa lữ hành, có nhiều cử chỉ thờ phượng đơn sơ thuần khiết, chẳng hạn như khi
“ánh mắt của người khách hành hương hướng nhìn về một hình ảnh biểu lộ tình
thương mến và sự gần gũi của Thiên Chúa. Yêu thương thì biết dừng lại, chiêm ngắm
mầu nhiệm ấy, và thưởng thức mầu nhiệm ấy trong thinh lặng”[118].
156. Việc đọc Lời Chúa trong tâm tình cầu nguyện, lời “ngọt
ngào hơn mật ong” (Tv 119,103), nhưng
lại là một “thanh gươm hai lưỡi” (Dt
4,12), giúp chúng ta dừng lại và lắng nghe tiếng của Tôn sư, để Lời Chúa trở
nên ngọn đèn soi cho chúng ta bước và là ánh sáng chỉ đường chúng ta đi (x. Tv 119,105). Như các Giám mục Ấn Độ đã
nhắc nhở, “Việc tôn kính Lời Chúa không đơn thuần là một trong những việc sùng
kính vốn tốt đẹp có thể tuỳ chọn. Việc tôn kính Lời Chúa là trọng tâm và là
chính căn tính của đời sống Kitô hữu. Lời Chúa có quyền năng biến đổi đời sống”[119].
157. Việc gặp gỡ Chúa Giêsu trong Thánh Kinh dẫn chúng ta đến
với Bí tích Thánh Thể, nơi mà Lời viết ra đạt được hiệu quả cao nhất, vì ở đó
có sự hiện diện thực của Đấng là Lời Hằng Sống. Trong Thánh Thể, Đấng Tuyệt Đối
duy nhất chân thật nhận được sự thờ phượng tuyệt hảo nhất mà thế giới có thể
dâng lên Ngài, vì chính Đức Kitô được hiến dâng. Khi chúng ta đón nhận Chúa
Kitô qua việc Rước Lễ, chúng ta làm mới lại giao ước với Ngài và để cho Ngài thực
hiện việc biến đổi đời sống chúng ta trọn vẹn hơn nữa.
CHƯƠNG V - CUỘC CHIẾN ĐẤU THIÊNG LIÊNG, TỈNH THỨC VÀ PHÂN ĐỊNH
158. Đời sống Kitô hữu là cuộc chiến đấu liên lỉ. Chúng ta cần
sức mạnh và sự can đảm để chống lại những cám dỗ của ma quỷ và để loan báo Tin
Mừng. Cuộc chiến này rất đẹp, vì nó cho phép chúng ta ăn mừng mỗi khi Chúa chiến
thắng trong cuộc đời chúng ta.
Chiến đấu và tỉnh thức
159. Đây không chỉ nói đến cuộc chiến đấu chống lại thế gian
và não trạng thế tục hay đánh lừa mình và làm cho chúng ta nên u mê đần độn và
tầm thường, thiếu nhiệt tâm dấn thân và niềm vui. Đây cũng không chỉ là cuộc
chiến đấu chống lại những yếu đuối và những xu hướng xấu của con người (như lười
biếng, dâm dục, tham lam, ghen tị hoặc bất cứ điều gì khác). Nhưng còn là cuộc
chiến liên lỉ chống lại ma quỷ, ông hoàng của sự dữ. Chính Chúa Giêsu vui mừng
trước những chiến thắng của chúng ta. Người vui mừng khi các môn đệ thành công
trong việc rao giảng Tin Mừng và khuất phục được ma quỷ, Người đã reo vui: “Thầy
đã thấy Satan như một tia chớp từ trời sa xuống” (Lc 10,18).
Còn hơn một huyền thoại
160. Chúng ta sẽ không nhìn nhận ma quỷ hiện hữu nếu chỉ
khăng khăng nhìn cuộc sống theo các tiêu chuẩn thường nghiệm, mà không nhìn
trong một viễn ảnh siêu nhiên. Xác tín quyền lực thâm độc này hiện diện ngay giữa
chúng ta sẽ giúp chúng ta hiểu được tại sao có lúc sự ác có sức mạnh hủy diệt mạnh
mẽ đến như vậy. Quả thực, các tác giả Thánh Kinh có nhận thức hạn chế trong khi
diễn tả về một số thực tại, và vào thời của Chúa Giêsu chứng động kinh chẳng hạn,
có thể dễ dàng bị nhầm lẫn với bị quỷ ám. Tuy nhiên, điều này không nên dẫn
chúng ta đến chỗ đơn giản hóa quá mức để có thể kết luận rằng tất cả các trường
hợp kể ra trong Tin Mừng đều là chứng bệnh tâm lý, và vì thế ma quỷ không hiện
hữu hoặc không hoạt động. Ma quỷ hiện diện ngay trong những trang đầu của Thánh
Kinh và kết thúc với chiến thắng của Thiên Chúa trên ma quỷ[120].
Thật vậy, Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta Kinh Lạy Cha, Người muốn chúng ta kết
thúc lời cầu nguyện bằng việc xin Chúa Cha “giải thoát chúng ta khỏi thần dữ”.
Hai chữ cuối cùng trong kinh ấy không nói đến một sự dữ như một khái niệm trừu
tượng, dịch cho chính xác hơn phải nói là “thần dữ”. Nó có ý ám chỉ một hữu thể
có ngã vị, kẻ quấy rối ta. Chúa Giêsu dạy chúng ta hằng ngày cầu nguyện xin được
giải thoát khỏi thần dữ, để quyền lực của nó không thống trị chúng ta.
161. Do đó, chúng ta không nên nghĩ về ma quỷ như một thứ
huyền thoại, một hình tượng, một biểu trưng, một hình ảnh hoặc một ý tưởng[121]. Sai lầm này sẽ dẫn chúng
ta tới chỗ mất cảnh giác, bất cẩn và rốt cuộc càng dễ bị thương tổn hơn. Ma quỷ
không cần ám chúng ta. Nó đầu độc chúng ta bằng nọc độc thù hận, u sầu, ghen tị
và đồi bại. Khi chúng ta xem thường mất cảnh giác, ma quỷ chụp thời cơ để hủy
hoại cuộc sống, gia đình và cộng đoàn chúng ta. Chúng “như sư tử gầm thét, rảo
quanh tìm mồi cắn xé” (1 Pr 5,8).
Cảnh giác và tin tưởng
162. Lời Chúa mời gọi chúng ta thật rõ ràng: hãy “đứng vững
trước những mưu chước của ma quỷ” (Ep
6,11) và “dập tắt mọi tên lửa của ác thần” (Ep
6,16). Đây không là kiểu nói thi vị, bởi vì ngay cả con đường nên thánh của
chúng ta cũng là một cuộc chiến đấu liên lỉ. Những ai không muốn nhìn nhận điều
này sẽ làm mồi cho sự thất bại và tầm thường. Để chiến đấu trong cuộc chiến
thiêng liêng này, chúng ta có thể dựa vào những vũ khí mạnh mẽ Chúa ban cho
mình, đó là: đức tin diễn tả qua cầu nguyện, suy niệm Lời Chúa, cử hành Thánh Lễ,
chầu Thánh Thể, lãnh Bí tích Hòa Giải, làm việc bác ái, sống cộng đoàn, dấn
thân truyền giáo. Nếu chúng ta thiếu cẩn trọng, những lời hứa dối trá của ma quỷ
sẽ dễ dàng lừa phỉnh chúng ta, vì thánh Linh mục Brochero nói: “Có điều gì là tốt
lành khi Lucifer hứa cho bạn tự do và tưới xuống trên bạn tất cả những lợi lộc
của nó, nếu như đó là những lợi lộc giả trá và độc hại?”[122]
163. Trong cuộc hành trình này, sự phát triển những điều thiện
hảo, trưởng thành đời sống tâm linh và lớn lên trong tình yêu sẽ là đối trọng tốt
nhất chống lại sự dữ. Không ai đứng vững được nếu chọn sống trong tình trạng
trung lập, nếu hài lòng với những gì ít ỏi, nếu từ bỏ ước mơ hiến dâng mình cho
Chúa cách quảng đại hơn. Còn tệ hơn nữa, nếu họ rơi vào khuynh hướng chủ bại, bởi
vì “nếu ai bắt đầu mà không có một chút tin tưởng, thì đã thua nửa trận chiến rồi
và tự chôn vùi những tài năng của mình. […] Chiến thắng của Kitô giáo luôn là một
thập giá, nhưng thập giá ấy đồng thời là ngọn cờ chiến thắng, được ta mang vác
với một tình yêu dịu hiền, bất khuất chống lại những tấn công của ma quỷ”[123].
Sự hư hỏng thiêng liêng
164. Con đường nên thánh là nguồn bình an và niềm vui được
Chúa Thánh Thần ban tặng cho chúng ta. Đồng thời, nó đòi hỏi chúng ta phải giữ
“ngọn đèn cháy sáng” (Lc 12,35) và tỉnh
thức: “Điều xấu dưới mọi hình thức thì lánh cho xa” (1 Tx 5,22). “Hãy tỉnh thức” (x. Mt
24,42; Mc 13,35). “Chúng ta đừng mê
ngủ” (1 Tx 5,6). Những ai nghĩ rằng
mình không phạm tội nghiêm trọng chống lại luật Thiên Chúa có thể rơi vào tình
trạng u mê hoặc ngủ mê. Vì họ thấy không có gì nghiêm trọng để ăn năn, họ không
nhận ra đời sống thiêng liêng của họ đang dần trở nên nguội lạnh, và cuối cùng
là họ yếu nhược và hư hỏng.
165. Sự hư hỏng thiêng liêng thì tồi tệ hơn sự sa ngã của một
tội nhân, vì đó là một thứ mù lòa trong đó người ta cảm thấy yên ổn và thỏa
mãn, khi đó mọi sự được chấp nhận: dối trá, vu khống, tự cao, và những hình thức
tinh vi khác của quy ngã, vì “chính Satan cũng đội lốt thiên thần sáng láng” (2
Cr 11,14). Salômôn đã kết thúc những
ngày đời của ông như thế, trái lại Đavít, người đã phạm trọng tội, đã biết thắng
vượt tình trạng khốn cùng của mình. Chúa Giêsu cảnh báo chúng ta về cám dỗ lừa
dối này vốn dễ dẫn chúng ta đến tình trạng hư hỏng: Người nói về một người được
giải thoát khỏi tên quỷ, anh nghĩ rằng cuộc sống hiện nay của mình đã ổn, kết
cuộc bị khống chế bởi bảy thần dữ khác (x. Lc
11,24-26). Một bản văn Thánh Kinh khác dùng một hình ảnh mạnh bạo: “Chó mửa ra,
chó liền ăn lại” (2 Pr 2,22; x. Cn 26,11).
Sự phân định
166. Làm thế nào chúng ta biết được một điều gì đó đến từ
Thánh Thần hay đến từ tinh thần của thế gian hoặc tinh thần của ma quỷ? Cách
duy nhất là phân định. Việc này không chỉ đòi hỏi một khả năng lý trí tốt và một
lương tâm ngay lành, mà còn là một ơn ban mà chúng ta phải cầu xin. Nếu ta cầu
xin với lòng tin tưởng thì Chúa Thánh Thần sẽ ban cho ta ơn này, đồng thời phải
tìm cách phát triển nó qua cầu nguyện, suy tư, đọc sách và bàn hỏi với tham vấn
uy tín, chắc chắn chúng ta sẽ lớn lên trong khả năng thiêng liêng này.
Một nhu cầu khẩn thiết
167. Ngày nay, ơn phân định lại càng trở nên đặc biệt cần
thiết. Thật vậy, cuộc sống hiện nay mở ra biết bao khả năng cho ta hành động và
tiêu khiển, và thế giới trình bày tất cả những điều đó như cái gì hợp lệ và tốt
đẹp. Tất cả chúng ta, đặc biệt là giới trẻ, bị ảnh hưởng bởi một nền văn hóa hối
hả. Chúng ta có thể cùng một lúc lướt qua hai hay ba màn hình và tương tác đồng
thời với hai hay ba cảnh tượng ảo. Không có sự khôn ngoan của phân định, chúng
ta dễ biến mình thành những con rối phó mặc cho các trào lưu chóng qua.
168. Điều này càng quan trọng hơn khi một cái gì mới mẻ xuất
hiện trong đời sống chúng ta, bấy giờ chúng ta phải phân định xem liệu đó có phải
là rượu mới do Thiên Chúa đem đến hay chỉ là một ảo ảnh lừa dối bởi tinh thần
thế gian hoặc tinh thần của ma quỷ. Có những hoàn cảnh khác lại xảy ra điều ngược
lại, khi những sức mạnh của sự dữ xui khiến ta đừng thay đổi, cứ giữ mọi sự y
như thế, chọn thái độ bất động, khư khư chống lại mọi thay đổi. Như thế là ta
đã ngăn chặn hoạt động của Thánh Thần. Chúng ta tự do, bằng sự tự do của Chúa Kitô,
nhưng Người kêu gọi chúng ta xem xét những gì ở bên trong chúng ta – những ham
muốn, lo lắng, sợ hãi và khát vọng – và những gì diễn ra xung quanh chúng ta –
“những dấu chỉ của thời đại” – để nhận ra những con đường dẫn đến tự do hoàn
toàn. “Hãy cân nhắc mọi sự; điều gì tốt thì giữ” (1 Tx 5,21).
Luôn ở trong ánh sáng của Chúa
169. Phân định không chỉ cần thiết trong những thời điểm đặc
biệt, khi chúng ta cần giải quyết những vấn đề hệ trọng và đưa ra những quyết định
gay go, nó còn là một phương thế của cuộc chiến thiêng liêng giúp chúng ta đi
theo Chúa cách trung thành hơn. Sự phân định luôn là điều hữu ích, nhằm giúp ta
nhận ra chương trình của Chúa và ân sủng của Ngài, đồng thời giúp ta không để vụt
mất những gợi ý Ngài soi sáng và không xem thường lời Ngài mời gọi ta lớn lên.
Sự phân định rất thường được thực hiện trong những việc nhỏ và có vẻ không quan
trọng, vì tính cách vĩ đại được tỏ lộ trong những thực tại đơn giản hằng ngày[124]. Nó không hạn chế những gì
là cao quý, những gì tốt hơn và đẹp hơn, nhưng đồng thời quan tâm đến những
chuyện nhỏ, đến những dấn thân và trách nhiệm hiện tại. Vì thế tôi kêu gọi tất
cả các Kitô hữu đừng bỏ qua việc “xét mình” chân thành hằng ngày, trong đối thoại
với Chúa, Đấng yêu thương ta. Đồng thời, việc phân định cũng giúp ta nhận ra những
phương thế cụ thể mà Chúa an bài trong kế hoạch yêu thương mầu nhiệm của Ngài,
để chúng ta không chỉ dừng lại ở những ý hướng tốt lành mà thôi.
Một ơn ban siêu nhiên
170. Chắc chắn việc phân định thiêng liêng không loại trừ những
đóng góp của các tri thức nhân văn, hiện sinh, tâm lý, xã hội hoặc luân lý
nhưng nó siêu vượt trên các khoa học ấy. Những quy chuẩn khôn ngoan của Giáo Hội
cũng không đủ. Chúng ta luôn nhớ rằng phân định là một ân sủng. Cho dẫu nó bao
gồm lý trí và sự khôn ngoan, nó vẫn vượt quá những điều ấy, vì nó cố tìm gặp mầu
nhiệm kế hoạch duy nhất và độc đáo mà Thiên Chúa dành cho mỗi người chúng ta,
và được thực hiện giữa rất nhiều hoàn cảnh và giới hạn khác nhau. Nó không chỉ
liên quan đến những thiện ích trần thế, đến sự mãn nguyện khi hoàn thành một điều
gì đó hữu ích, hoặc ngay cả khát khao lương tâm được bình an. Nó liên hệ đến ý
nghĩa cuộc sống của tôi trước mặt Chúa là Cha, Đấng biết và yêu thương tôi, đến
mục đích thật sự của đời tôi mà không ai biết rõ hơn là chính Chúa. Cuối cùng,
việc phân định dẫn đến suối nguồn của sự sống bất diệt, nghĩa là “nhận biết
Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Đức
Kitô Giêsu” (Ga 17,3). Việc phân định
không đòi hỏi những khả năng đặc biệt, cũng không chỉ dành cho những người
thông minh học cao hiểu rộng. Chúa Cha sẵn sàng mạc khải chính Ngài cho những kẻ
bé mọn (x. Mt 11,25).
171. Dù cho Chúa nói với chúng ta bằng nhiều cách, tại nơi
làm việc, qua những người khác và vào bất cứ lúc nào, nhưng chúng ta không thể
bỏ qua cầu nguyện thinh lặng lâu giờ vốn có thể giúp chúng ta nhận rõ hơn tiếng
nói của Chúa, để hiểu ý nghĩa thực sự của những linh hứng mà chúng ta tin rằng
mình đã tiếp nhận, để xoa dịu những lo âu và để tái tạo toàn thể cuộc sống của
mình cách mới mẻ trong ánh sáng của Chúa. Như thế, chúng ta có thể cho phép
khai sinh một thực tại mới phát xuất từ cuộc sống được Thánh Thần khai sáng.
Lạy Chúa, xin hãy phán
172. Tuy nhiên, ngay cả trong lúc cầu nguyện chúng ta có thể
tránh né, không để cho mình đối diện với sự tự do của Thánh Thần, Đấng hành động
như Ngài muốn. Cần nhớ rằng việc phân định trong cầu nguyện phải được khởi đi từ
một sự sẵn sàng lắng nghe: lắng nghe Chúa, nghe người khác, và nghe chính thực
tại, vốn luôn chất vấn chúng ta với những cách mới mẻ. Chỉ những ai sẵn sàng lắng
nghe mới có tự do để chối từ quan điểm phiến diện và không đầy đủ của mình, những
thói quen riêng và cách nhìn sự vật của mình. Như thế, chúng ta thực sự mở ra để
đón nhận một tiếng gọi có thể phá vỡ sự an toàn của mình, nhưng dẫn ta đến một
cuộc sống tốt đẹp hơn, bởi lẽ cũng không đủ khi mọi sự đều ổn thỏa và bình an.
Thiên Chúa có thể đang trao ban cho chúng ta một cái gì đó hơn thế, mà nếu thiếu
chú tâm, chúng ta không nhận ra được.
173. Thái độ lắng nghe này, một cách tự nhiên, hàm ý một sự
vâng phục đối với Tin Mừng như tiêu chuẩn tối hậu, và vâng phục cả với Huấn quyền,
vốn có nhiệm vụ gìn giữ tiêu chuẩn tối hậu ấy, khi chúng ta tìm gặp trong kho
tàng của Hội Thánh bất cứ điều gì hiệu quả nhất cho công trình cứu độ “hôm
nay”. Đó không phải là việc áp dụng các quy tắc hoặc lặp lại điều đã làm trong
quá khứ, bởi vì không có một giải pháp chung cho mọi hoàn cảnh và điều hiệu quả
trong bối cảnh này không đương nhiên hiệu quả trong bối cảnh khác. Sự phân định
các thần khí giải thoát chúng ta khỏi sự cứng nhắc, là điều không có chỗ trước
cái “hôm nay” thường hằng của Chúa Phục sinh. Chỉ có Thánh Thần mới có thể
xuyên thấu vào những nơi mờ tối ẩn khuất của hoàn cảnh thực tế, và nắm bắt mọi
sắc thái của nó, để sự mới mẻ của Tin Mừng có thể hiển lộ trong một ánh sáng
khác.
Luận lý của tặng phẩm và của thập giá
174. Một điều kiện thiết yếu để tiến bộ trong phân định là học
biết sự kiên nhẫn của Thiên Chúa và sự an bài của Ngài, vốn không bao giờ là của
chúng ta. Thiên Chúa không đổ lửa xuống thiêu đốt những kẻ bất trung (x. Lc 9,54), hoặc cho phép người nhiệt
thành nhổ cỏ lùng mọc giữa lúa (x. Mt
13,29). Ngoài ra, cũng cần có sự quảng đại, vì “cho thì có phúc hơn là nhận”
(x. Cv 20,35). Phân định không nhằm
khám phá những gì chúng ta có thể thu nhận được thêm trong cuộc sống này, nhưng
để nhận ra làm sao chúng ta có thể hoàn thành tốt hơn sứ mạng đã trao cho ta
khi ta lãnh Bí tích Rửa tội. Điều này hàm nghĩa ta phải sẵn sàng hy sinh đến mức
trao hiến tất cả. Thật vậy, hạnh phúc là một nghịch lý, và nó hiến ban cho ta
những kinh nghiệm tuyệt vời nhất khi ta chấp nhận luận lý nhiệm mầu này vốn
không thuộc về thế gian. Như Thánh Bônaventura quả quyết khi nói về thập giá:
“Đây là luận lý của chúng tôi”[125]. Một khi chúng ta đi vào
trong năng động này, chúng ta sẽ không cho phép lương tâm mình bị tê liệt và
chúng ta sẽ mở lòng ra cách quảng đại để phân định.
175. Khi chúng ta xem xét,
trước mặt Chúa, hành trình cuộc đời mình, không lãnh vực nào được miễn trừ.
Trong tất cả mọi khía cạnh của đời sống, chúng ta đều có thể tiếp tục lớn lên
và dâng hiến cho Chúa một cái gì đó hơn nữa, ngay cả trong những lãnh vực ta thấy
khó khăn nhất. Nhưng chúng ta cần cầu xin Chúa Thánh Thần giải thoát mình và
xua đuổi nỗi sợ hãi vốn ngăn cản Chúa Thánh Thần thâm nhập vào một số lãnh vực
nào đó của đời sống chúng ta. Thiên Chúa đòi chúng ta mọi sự, nhưng cũng ban
cho chúng ta mọi sự. Ngài không muốn đi vào đời sống chúng ta để làm cho nó què
quặt hoặc suy yếu đi, nhưng để đem đến sự viên mãn. Như thế, chúng ta thấy rằng
phân định không phải là một sự tự phân tích bản thân hay một hình thức nội quan
quy ngã, nhưng là một sự ra khỏi chính mình hướng về mầu nhiệm Thiên Chúa, Đấng
giúp chúng ta sống sứ mạng Ngài mời gọi, vì lợi ích của anh em mình.
* * *
176. Tôi ước muốn những suy tư này được Mẹ Maria làm cho
hoàn tất, bởi vì Mẹ đã sống các Mối Phúc của Chúa Giêsu hơn bất cứ ai khác. Mẹ
là người phụ nữ hoan hỉ trong sự hiện diện của Thiên Chúa, là người ghi nhớ mọi
sự trong lòng và chấp nhận để cho lưỡi gươm đâm thâu lòng mình. Mẹ Maria là vị
thánh giữa các thánh, có phúc hơn mọi người khác, Mẹ chỉ bảo cho chúng ta nẻo
đường thánh thiện và luôn đồng hành với chúng ta. Mẹ không bỏ rơi chúng ta
trong tình trạng sa ngã và có những lúc Mẹ dang tay ôm lấy chúng ta mà không
phán xét. Trò chuyện với Mẹ chúng ta được an ủi, được giải thoát và được thánh
hóa. Mẹ không cần chúng ta nhiều lời, Mẹ không cần chúng ta cố gắng quá nhiều để
giải thích cho Mẹ những gì đang xảy ra trong cuộc sống mình. Chúng ta chỉ cần
thầm thì lặp đi lặp lại: “Kính mừng Maria…”.
177. Tôi hy vọng những trang này sẽ nên hữu ích, giúp toàn
thể Hội Thánh dấn thân thúc đẩy khát vọng nên thánh. Chúng ta hãy xin Chúa
Thánh Thần đổ tràn trên chúng ta một khát khao mãnh liệt nên thánh, để vinh danh
Chúa hơn, và chúng ta hãy khuyến khích nhau trong nỗ lực này. Nhờ đó, chúng ta
sẽ chia sẻ một hạnh phúc mà thế gian không thể tước khỏi chúng ta được.
Ban hành tại Rôma, Đền
Thánh Phêrô, ngày 19 tháng 3, lễ trọng kính Thánh Giuse, năm 2018, năm thứ 6 triều
Giáo hoàng của tôi.
Phanxicô
[1] Bênêđictô XVI, Bài giảng lễ khai mạc trọng thể sứ vụ Phêrô (ngày
24.04.2005): AAS 97 (2005), 708.
[2] Điều này luôn giả định có tiếng tốt về sự thánh thiện và thực hành các
nhân đức Kitô giáo, ít là ở mức độ thông thường: x. Tự sắc Maiorem Hac
Dilectionem (ngày 11.07.2017), Art. 2c: L’Osservatore Romano, 12.07.2017, tr.
8.
[3] Công đồng Vaticanô II, Hiến chế Tín lý về Hội Thánh: Lumen Gentium, 9.
[4] X. Joseph Malegue, Pierres noires. Les classes moyennes du salut,
Paris 1958.
[5] Lumen Gentium, 12.
[6] Verborgenes Leben und Epiphanie: GW XI, 145.
[7] Gioan Phaolô II, Thông điệp Novo Millennio Ineunte (ngày 06.01.2001),
56: AAS 93 (2001), 307.
[8] Thông điệp Tertio Millennio Adveniente (ngày 10.11.1994), 37: AAS 87
(1995), 29.
[9] Bài giảng trong Cuộc Tưởng Niệm Đại Kết về những chứng nhân đức tin
trong thế kỷ thứ hai mươi (ngày 07.05.2000), 5: AAS 92 (2000), 680-681.
[10] Lumen Gentium, 11.
[11] X. Hans Urs von Balthasar, “Theology and Holiness”, trong Communio
14/4 (1987), 345.
[12] Khúc Linh Ca, Red. B, Prologue, 2.
[13] X. Ibid., 14-15, 2.
[14] X. Bài Giáo Lý, Tiếp kiến chung, ngày 19.11.2014: Insegnamenti II/2
(2014), 555.
[15] Phanxicô Salêsiô, Khảo luận về Tình yêu của Thiên Chúa, VIII, 11.
[16] Nguyễn Văn Thuận, Năm chiếc bánh và hai con cá (Pauline Books and
Media, 2003), 9, 13.
[17] Hội đồng Giám mục Công giáo Tân Tây Lan, Healing Love, ngày
01.01.1988.
[18] Linh thao, 102-312.
[19] GLHTCG, 515.
[20] Ibid., 516.
[21] Ibid., 517.
[22] Ibid., 517.
[23] Ibid., 521.
[24] Bênêđictô XVI, Huấn giáo, Tiếp kiến chung, ngày 13.04.2011: Insegnamenti
VII (2011), 451.
[25] Ibid., 450.
[26] X. Hans Urs von Balthasar, “Theology and Holiness”, trong Communio
14/4 (1987), 341-350.
[27] Xavier Zubiri, Naturaleza, historia, Dios, Madrid, 1993, 427.
[28] Carlo M. Martini, Le confessioni di Pietro, Cinisello Balsamo, 2017,
69.
[29] Chúng ta cần phân biệt giữa loại giải trí hời hợt với một nền văn hóa
tiêu khiển lành mạnh vốn giúp ta mở ra với người khác và với chính thực tại
trong một tinh thần cởi mở và chiêm niệm.
[30] Gioan Phaolô II, Bài giảng trong Thánh lễ phong thánh (ngày
01.10.2000), 5: AAS 92 (2000), 852.
[31] Hội đồng Giám Mục Vùng Tây Phi,
Pastoral Message at the End of
the second Plenary Assembly, ngày 29.02.2016, 2.
[32] La femme pauvre, Paris, II, 27.
[33] X. Bộ Giáo lý Đức tin, Thư Placuit Deo về một số khía cạnh của ơn cứu
độ Kitô giáo (22.02.2018), 4, trong L’Osservatore Romano, 02.03.2018, tr. 4-5:
“Cả chủ nghĩa cá nhân tân-Pêlagiô lẫn thái độ khinh thị thân xác tân-Ngộ-đạo đều
làm méo mó việc tuyên xưng niềm tin vào Đức Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất và phổ
quát”. Văn kiện này cung cấp những nền tảng giáo thuyết để hiểu về ơn cứu độ
Kitô giáo khi đối chiếu với các khuynh hướng tân-Ngộ-đạo và tân-Pêlagiô hiện thời.
[34] Evangelii Gaudium (24.11.2013), 94: AAS 105 (2013), 1060.
[35] Ibid.: AAS 105 (2013), 1059.
[36] Bài giảng trong Thánh lễ tại nhà nguyện thánh Matta, 11.11.2016:
L’Osservatore Romano, 12.11.2016, tr. 8.
[37] Như Thánh Bônaventura dạy, “chúng ta phải gác lại mọi hoạt động của
trí óc và phải chuyển hóa và quy hướng mọi tình cảm của chúng ta đến đỉnh điểm
là một mình Thiên Chúa mà thôi. […] Vì tự nhiên không thể đạt được điều gì cả
và nỗ lực của tri thức cũng chỉ thu lượm rất ít, nên cần xem nhẹ việc tra cứu
và trân trọng sự xức dầu thiêng liêng, xem nhẹ lời nói và thật trân trọng niềm
vui nội tâm, xem nhẹ diễn từ cũng như sách vở và trân trọng mọi ân huệ của
Thiên Chúa, nghĩa là trân trọng Chúa Thánh Thần, xem nhẹ hoặc không màng đến
loài thụ tạo nhưng tuyệt đối kính trọng Đấng Tạo Hóa, Chúa Cha, Chúa Con và
Chúa Thánh Thần”: Bônaventura, Itinerarium Mentis in Deum, VII, 4-5.
[38] X. Thư gửi Đại Chưởng ấn Đại học Giáo Hoàng Công Giáo Argentina nhân dịp
Kỷ niệm một trăm năm thành lập Phân khoa thần học (03.03.2015): L’Osservatore
Romano, 9-10 tháng 3 năm 2015, tr. 6.
[39] Evangelii Gaudium (24.11.2013), 40: AAS 105 (2013), 1037.
[40] Sứ điệp video gửi các Tham dự viên Hội nghị Thần học Quốc tế tổ chức tại
Đại học Giáo hoàng Công giáo Argentina (1-3.09.2015): AAS 107 (2015), 980.
[41] Vita Consecrata (25.03.1996), 38: AAS 88 (1996), 412.
[42] Thư gửi Đại Chưởng ấn Đại học Giáo hoàng Công giáo Argentina nhân dịp
kỷ niệm một trăm năm thành lập Phân khoa Thần học (03.03.2015): L’Osservatore
Romano, 9-10.03.2015, tr. 6.
[43] Thư gửi Sư huynh Antôn, 2: FF 251.
[44] De septem donis, 9, 15.
[45] In IV Sent. 37, 1, 3, ad 6.
[46] Evangelii Gaudium (24.11.2013), 94: AAS 105 (2013), 1059.
[47] X. Bônaventura, De sex alis Seraphim, 3, 8: “Non omnes omnia possunt”.
Câu này phải được hiểu theo nội dung của GLHTCG, 1735.
[48] X. Tôma Aquinô, Summa Theologiae, II-II, q. 109, a. 9, ad 1: “Nhưng ở
đây ân sủng cách nào đó không hoàn hảo, theo nghĩa ân sủng không chữa lành con
người cách hoàn toàn, như chúng ta đã nói”.
[49] X. De natura et gratia, 43, 50: PL 44, 271.
[50] Confessiones, X, 29, 40: PL 32, 796
[51] X. Evangelii Gaudium (24.11.2013), 44: AAS 105 (2013), 1038.
[52] Theo cách hiểu của đức tin Kitô giáo, ân sủng đến trước, đi cùng chúng
ta và dõi theo mọi hành động của chúng ta (x. Công đồng Đại kết Trentô, Khóa
VI, Sắc lệnh về sự công chính hóa, ch. 5: DH 1525).
[53] X. In Ep. ad Romanos, 9, 11: PG 60, 470.
[54] Homilia de Humilitate: PG 31, 530.
[55] Sắc lệnh Công đồng Orange II, Điều 4: DH 374.
[56] Công đồng Trentô, Khóa VI, Sắc lệnh về sự công chính hóa, chương 8:
DH.
[57] Số 1998.
[58] Ibid., số 2007.
[59] Tôma Aquinô, Summa Theologiae, I-II, q. 114, a. 5.
[60] Têrêsa Hài Đồng Giêsu, “Việc dâng hiến cho tình yêu thương xót” (Kinh
nguyện, 6).
[61] Lucio Gera, Sobre el misterio del pobre, trong P. Grelot - L. Gera -
A. Dumas, El Pobre, Buenos Aires, 1962, 103.
[62] Nói tóm lại, đây là đạo lý Công giáo về “công phúc” theo sau ơn công
chính hóa: đó là sự cộng tác của người được công chính hóa vào việc tăng trưởng
trong đời sống ân sủng (x. GLHTCG, số 2010). Nhưng sự cộng tác này không hề làm
cho sự công chính hóa hay tình bằng hữu với Thiên Chúa trở thành đối tượng của
công phúc con người.
[63] X. Evangelii Gaudium, 95: AAS 105 (2013), 1060.
[64] Summa Theologiae I-II, q. 107, a. 4.
[65] Phanxicô, Bài giảng lễ Năm Thánh cho những người bị loại trừ trong xã
hội (13.11.2016): L’Osservatore Romano, 14-15 tháng 11, 2016, tr. 8.
[66] X. Bài giảng trong Thánh lễ tại nhà nguyện thánh Matta, ngày
09-6-2014: L’Osservatore Romano, ngày 10.06.2014, t. 8.
[67] Thứ tự của Mối Phúc thứ hai và thứ ba thay đổi tùy theo truyền thống
văn bản.
[68] Linh Thao, 23d.
[69] Manuscript C, 12r.
[70] Từ thời các giáo phụ, Hội Thánh đã quý trọng ơn biết khóc lóc, như ta
thấy trong kinh “Ad petendam compunctionem cordis”. Kinh ấy như thế này: “Lạy
Thiên Chúa Toàn Năng và hay thương xót, Chúa đã ban nước hằng sống vọt ra từ tảng
đá cho dân Chúa đang khát. Xin hãy làm trái tim chai đá của chúng con tuôn chảy
ra nước mắt của lòng thống hối, để chúng con biết đau buồn vì tội lỗi mình, và
nhờ lượng từ bi Chúa, chúng con được tha thứ” (x. Missale Romanum, ed. typ.
1962, t. [110]).
[71] GLHTCG, 1789; x. 1970.
[72] Ibid., 1787.
[73] Gièm pha và vu khống như là một hành động khủng bố: một quả bom được
tung ra, nó có sức tàn phá, còn kẻ khủng bố bình thản và hài lòng bỏ đi. Điều
này hoàn toàn khác với sự cao quý của người đi đến nói trực tiếp với người
khác, trong chân thành và bình yên, bởi thật sự quan tâm đến thiện ích của người
ấy.
[74] Đôi khi, có thể cần phải nói về những khó khăn của một anh chị em nào
đó. Trong những trường hợp như thế, điều có thể xảy ra là, người ta truyền lại
một suy diễn thay vì một dữ kiện khách quan. Cảm xúc có thể làm cho hiểu sai
hay thay đổi các dữ kiện thực tế, và rốt cuộc là, được truyền lan và được pha
thêm với những yếu tố chủ quan. Như vậy, người ta đã tiêu diệt chính các dữ kiện
và sự thật của người kia không được tôn trọng.
[75] Evangelii Gaudium (24.11.2013), 218: AAS 105 (2013), 1110.
[76] Ibid., 239: 1116.
[77] Ibid., 227: 1112.
[78] Centesimus Annus (01.05.1991), 41c: AAS 81 (1993), 844-845.
[79] Novo Millennio Ineunte (06.01.2001), 49: AAS 93 (2001), 302.
[80] Ibid.
[81] Misericordiae Vultus (11.04.2015), 12: AAS 107 (2015), 407.
[82] Chúng ta có thể nhớ lại cách xử sự của người Samaria nhân hậu khi gặp
người bị cướp tấn công và bỏ cho chết (x. Lc 10,30-37).
[83] Ủy ban Xã hội của Hội đồng Giám Mục Canađa, Thư ngỏ gửi các Thành Viên
Quốc hội: Công ích hay loại trừ: một chọn lựa cho người Canađa (01.02.2001), 9.
[84] Đại hội Thường Kỳ lần thứ V của các Giám Mục Châu Mỹ Latinh và vùng
Caribê, làm vang lại giáo huấn cố hữu của Hội Thánh, đã nói rằng con người
“luôn thánh thiêng, từ lúc thụ thai, ở tất cả các giai đoạn của cuộc sống, cho
đến khi chết tự nhiên, và sau khi chết”, và cuộc sống ấy phải được bảo vệ “bắt
đầu từ khi thụ thai, trong mọi giai đoạn của nó, cho đến lúc chết tự nhiên”
(Tài liệu Aparecida, ngày 29.06.2007, 388; 464).
[85] Quy luật, 53, 1: PL 66, 749.
[86] X. ibid., 53, 7: PL 66, 750.
[87] Ibid., 53, 15: PL 66, 751.
[88] Misericordiae Vultus (11.04.2015), 9: AAS 107 (2015), 405.
[89] Ibid., 10, 406.
[90] Amoris Laetitia (19.03.2016), 311: AAS 108 (2016), 439.
[91] Evangelii Gaudium (24.011.2013), 197: AAS 105 (2013), 1103.
[92] X. Summa Theologiae, II-II, q. 30, a. 4.
[93] Ibid., ad 1.
[94] Được trích (trong bản dịch tiếng Tây Ban Nha) trong: Cristo en los
Pobres, Madrid, 1981, 37-38.
[95] Có một số hình thức gây áp lực, có vẻ thanh nhã hay tôn trọng và thậm
chí có vẻ rất thiêng liêng, nhưng gây ra thiệt hại lớn cho lòng tự trọng của
người khác.
[96] Precautions, 13.
[97] Ibid., 13.
[98] X. La Misericordia Divina nella mia anima. Diario della beata Suora
Faustina Kowalska, Città del Vaticano 1996, 132.
[99] Tôma Aquinô, Summa Theologiae, I-II, q. 70, a. 3.
[100] Evangelii Gaudium, 6: AAS 105 (2013), 1221.
[101] Tôi khuyến khích dùng lời cầu nguyện được cho là của
Thánh Tôma More: “Lạy Chúa, xin cho con một bộ tiêu hóa tốt, và cũng cho con thức
gì đó để tiêu hóa. Xin cho con một thân thể khỏe mạnh, và tính hài hước lành mạnh
cần thiết để giữ gìn sức khỏe này. Xin cho con một tâm hồn đơn sơ biết quý trọng
tất cả những gì tốt đẹp thanh khiết, không dễ nao núng trước sự dữ, nhưng biết
tìm cách trả mọi thứ vào đúng chỗ của nó. Xin cho con một tâm hồn không biết buồn
chán, không càu nhàu, thở dài hay than van, cũng không căng thẳng quá độ do một
ngáng trở là cái ‘tôi’ của con. Lạy Chúa, xin cho con tính hài hước. Xin cho
con ơn biết vui đùa để tìm được chút vui vẻ trong cuộc sống, và có thể chia sẻ
niềm vui đó với người khác”.
[102] Amoris Laetitia, 110: AAS 108 (2016), 354.
[103] Tông huấn Evangelii Nuntiandi (08.12.1975), 80: AAS
68 (1976), 73. Điều đáng lưu ý là bản văn này của Chân phước Phaolô VI liên kết
chặt chẽ niềm vui với sự bạo dạn (parresía). Trong khi than phiền về tình trạng
“thiếu niềm vui và hy vọng” như một trở ngại cho việc Loan báo Tin Mừng, ngài cổ
võ “niềm vui Loan báo Tin Mừng đầy ngọt ngào và an ủi”, được nối kết với “sự
hăng say nội tâm mà không ai hay không gì có thể dập tắt được”. Điều này nhằm bảo
đảm rằng thế giới không nhận được Tin Mừng từ “những người rao giảng buồn phiền
và thất vọng”. Trong Năm Thánh 1975, Đức Phaolô VI đã dành Tông huấn Gaudete in
Domino để nói về niềm vui (09.05.1975): AAS 67 (1975), 289-322.
[104] Precautions, 15.
[105] Gioan Phaolô II, Tông huấn Vita Consecrata
(25.03.1996), 42: AAS 88 (1996), 416.
[106] Confessiones, IX, 10, 23-25: PL 32, 773-775.
[107] Tôi đặc biệt nghĩ đến ba từ “làm ơn”, “cám ơn”, và
“xin lỗi”. “Những lời đúng nói đúng lúc, hằng ngày bảo vệ và nuôi dưỡng tình
yêu”: Tông huấn Amoris Laetitia (19.03.2016), 133: AAS 108 (2016), 363.
[108] Têrêsa Hài Đồng Giêsu, Manuscript C, 29 v-30r.
[109] Gradi di Perfezione, 2: Opere, Roma 1979, 1079.
[110] ID., Consigli per raggiungere la perfezione, 9:
Opere, cit., 1078.
[111] Vita di S. Teresa di Gesù scritta da lei stessa, 8,
5: Opere, Roma 1981, 95.
[112] Gioan Phaolô II, Tông thư Orientale Lumen
(02.05.1995), 16: AAS 87 (1995), 762.
[113] Diễn từ tại Hội nghị toàn quốc Giáo Hội Italia lần thứ
năm, Firenze (10.11.2015): AAS 107 (2015), 1284.
[114] X. Bernard Clairvaux, Sermones in Canticum
Canticorum, 61, 3-5: PL 183:1071-1073.
[115] Racconti di un pellegrino russo, Milano 1979, 41;
129.
[116] X. Linh thao, 230-237.
[117] Thư gửi Henry de Castries, ngày 14.08.1901.
[118] Đại hội Thường Kỳ lần thứ V của các Giám mục Châu Mỹ
Latinh và Caribê, Tài liệu Aparecida (29.06.2007), 259.
[119] Hội đồng Giám mục Công giáo Ấn Độ, Tuyên ngôn kết
thúc đại hội thường kỳ lần thứ hai mươi mốt, ngày 18.02.2009, 3.2.
[120] X. Bài giảng trong Thánh lễ tại nhà nguyện thánh
Matta, 11.10.2013: báo Osservatore Romano, 12.10.2013, tr.2.
[121] Phaolô VI, Huấn giáo, Tiếp kiến chung ngày
15.11.1972: Insegnamenti X (1972), tr. 1168–1170: “Một trong những nhu cầu lớn
nhất của chúng ta là phòng chống lại sự dữ mà chúng ta gọi là ma quỷ… Sự dữ
không chỉ là một khiếm khuyết, nó là một tác nhân hữu hiệu, một hữu thể tinh thần
sống động, đã hư hỏng và làm cho con người ra hư hỏng. Nó là một thực tại khủng
khiếp, bí nhiệm và ghê sợ. Ta sẽ không còn ở trong giáo huấn của Thánh Kinh và
của Hội Thánh nếu ta từ chối nhìn nhận sự hiện hữu của ma quỷ, hoặc họ xem
chúng như một nguyên lý độc lập không có nguồn gốc nơi Thiên Chúa, như mọi thụ
tạo, hoặc giải thích nó như một thực tại giả, một sự nhân cách hóa tưởng tượng
và nhân cách hóa ý niệm về những nguyên nhân bí ẩn về những rủi ro của chúng
ta”.
[122] José Gabriel Del Rosario Brochero, “Plática de las
banderas”, trong Conferencia Episcopal Argentina, El Cura Brochero. Cartas y
sermones, Buenos Aires, 1999, 71.
[123] Tông huấn Evangelii Gaudium, 24.11.2013, 85: AAS 105
(2013), 1056.
[124] Trên mộ Thánh Inhaxiô Loyola mang dòng chữ đầy ý
nghĩa này: Non coerceri a maximo, conteneri tamen a minimo divinum est (Những
gì thuộc về Thiên Chúa, không bị hạn chế bởi điều lớn nhất, nhưng được chứa đựng
trong điều nhỏ nhất).
[125] Collationes in Hexaemeron, 1, 30.