Đức Giáo hoàng Phanxicô - Người môn đệ của Humanae Vitae, Hình: wherepeteris.com
TÌM HIỂU LUẬT TIỆM TIẾN TRONG LUÂN LÝ VÀ MỤC VỤ GIA
ĐÌNH
Nữ tu Bác sĩ Trần Như Ý Lan, CND
Mục lục III. CHÚ GIẢI CỦA ĐGH BÊNÊĐICTÔ XVI 2. Chú giải của Đức Hồng Y Lustiger 3. Một ví dụ khác về Luật tiệm tiến V. ĐGH PHANXICÔ VỚI TÔNG HUẤN AMORIS LAETITIA |
I. VÀI NÉT LỊCH SỬ
Được ban hành cách nay nửa
thế kỷ (25/7/1968), thông điệp Sự Sống Con Người, Humanae Vitae (HV) vẫn
mang tính thời sự. Trọng tâm của HV là
giáo huấn về tính hợp luân lý của việc làm cha mẹ có trách nhiệm theo phương
pháp tự nhiên, và tính trái luân lý của việc ngừa thai nhân tạo. Huấn quyền
ngày nay vẫn tiếp tục khẳng định tính đúng đắn của giáo huấn HV dựa trên hiểu biết về sự liên kết bất
khả phân ly của ý nghĩa kết hợp và ý nghĩa truyền sinh của hành vi vợ chồng.
Tuy nhiên, ngay từ khi ra đời cho đến hiện tại, Thông điệp gặp phải nhiều ý kiến
trái chiều của các mục tử và thần học gia. Một số coi giáo huấn can đảm của Đức
Giáo Hoàng (ĐGH) Phaolô VI là một sứ điệp ngôn sứ cho thời đại này. Một số khác
đã tỏ ra bất đồng quan điểm với thông điệp HV.
Một số thần học gia luân lý và tín hữu cho rằng giáo huấn này xa rời thực tế,
Huấn quyền đặt gánh nặng trên vai các cặp vợ chồng, thiếu sự đồng cảm với những
khó khăn của các cặp vợ chồng trong việc nuôi dạy con cái. Câu hỏi đặt ra là
làm sao dung hòa những đòi hỏi của tình yêu chân thật và vẹn toàn, với sự yếu
đuối của con người và của các đôi vợ chồng, sự yếu đuối mà Giáo Hội là Mẹ và là
Thầy không thể không biết đến trong vai trò giáo dục yêu thương của mình?
Dường như có một khoảng
cách không thể xóa bỏ, giữa giáo thuyết và thực hành. Một mặt, các giáo thuyết
với kết cấu chặt chẽ, trong đó mỗi yếu tố được xếp vào các phạm trù rõ ràng, sự
liên hệ giữa các yếu tố với nhau được định nghĩa một cách chính xác, các loại
thiện và ác đều được phân định rõ. Mặt khác, thực tế hết sức phức tạp, không
sao sắp xếp được vào trong các loại phạm trù mà các sách giáo khoa luân lý đã định
nghĩa rõ. Các nhà luân lý, các vị linh hướng, các vị giải tội…luôn phải dùng đức
khôn ngoan, trên nền tảng đức ái, biện phân tìm giải pháp thích đáng cho từng
trường hợp.[1]
Là một giáo sư thần học
luân lý, cách riêng trong lãnh vực luân lý tính dục và luân lý y sinh học hơn
mười năm nay, góp phần đào tạo các linh mục trẻ tương lai cho Giáo hội Việt
Nam, tôi yêu cầu các học trò phải có khả năng trình bày giáo huấn Giáo hội một
cách khả tín. Nhưng đồng thời cũng thực hành y khoa hơn 30 năm nay, đồng hành với
nhiều phụ nữ Công giáo Việt Nam gặp khó khăn trong việc thực hành giáo huấn
Giáo hội trong đời sống hôn nhân gia đình, tôi thao thức các học trò của tôi phải
có được trái tim thấu cảm và thực thi lòng thương xót của Chúa Giêsu mục tử
trong mục vụ giáo dân và gia đình!
Một trong những mục tiêu
quan trọng mà Thượng Hội Đồng Giám Mục (THĐGM) thế giới về gia đình họp tại
Roma vào tháng 10/1980 nhắm tới, là làm sao xóa bỏ được sự cách biệt nói trên
giữa giáo thuyết và thực tại, vì sự cách biệt này vừa gây đau khổ cho nhiều người
vừa làm cho giáo huấn luân lý của Giáo Hội bị suy giảm tính khả tín. Vì thế các
nghị phụ đã đi tới chỗ xác định sự hiện hữu cần thiết của luật tiệm tiến (La loi de gradualité).
Nếu hiểu biết thấu đáo và
áp dụng luật tiệm tiến trong mục vụ, hy vọng ước mong của tôi đối với các học
trò sẽ có cơ may trở thành hiện thực: trình bày giáo huấn Giáo hội một cách khả
tín, và có được trái tim thấu cảm và thực thi lòng thương xót của Chúa Giêsu mục
tử trong mục vụ giáo dân và gia đình.
Luật tiệm tiến là gì? Đó là luật quan tâm đến những giới hạn của con người: là những
con người sống trong lịch sử, yếu đuối và ảnh hưởng bởi tội lỗi, cùng lúc phải
chu toàn nhiều trách nhiệm! Điều đó có nghĩa rằng ta không thể đòi hỏi người
tín hữu áp dụng tất cả luật luân lý, hoàn toàn và ngay lập tức, nhưng cần phải
kiên nhẫn giúp họ tiến tới trên con đường tăng trưởng, từng bước trong thời
gian.[2] Luật này nhìn nhận rằng sự
hoán cải đòi hỏi thời gian. Đứng trước một quy luật chưa thể áp dụng ngay được
trong lúc này, hoàn cảnh này, con người này, vì có một số giá trị khác cũng bị
đe dọa, thì nhiều khi người ta có thể chấp nhận một thời hạn nào đó với một số
điều kiện.[3]
Nhưng dường như vừa khi luật
được nêu lên, ngay trong khóa họp đó của THĐGM, đã có vài điểm mơ hồ xuất hiện
liên quan đến luật này. ĐGH Gioan Phaolô II, trong diễn văn bế mạc,[4] lần đầu tiên đã nhìn nhận sự
hiện hữu của luật này, nhưng đồng thời Ngài nhấn mạnh sự khác biệt của luật tiệm
tiến với một lập trường có vẻ tương tự nhưng không thể chấp nhận được, đó là sự
tiệm tiến của luật (la gradualité de la loi): “Điều mà người ta gọi là luật tiệm
tiến hay là con đường tiệm tiến, không thể được đồng nhất hóa với sự tiệm tiến
của luật, như thể có những cấp bậc và những hình thức luật khác nhau tùy theo mỗi
cá nhân và hoàn cảnh khác nhau” (số 8).
Sau khóa họp của THĐGM, Đức
Hồng Y Ratzinger, khi ấy còn là Tổng Giám Mục Munich, đã làm một bản tổng kết về
THĐGM cho các linh mục trong giáo phận của ngài. Đức Hồng Y(ĐHY) đã gọi luật tiệm
tiến là một “ý tưởng mới mẻ của THĐGM. Ý tưởng này đã trở thành một trong những
viễn tượng sâu xa nhất của THĐGM và luôn hiện diện trong các vấn đề đặc thù của
công nghị”[5].
Gần mười năm sau khóa họp
THĐGM ấy, cha B. Haering đã viết một bài xin Tòa Thánh dành sự nâng đỡ nhiều
hơn cho các thần học gia biết quan tâm cách riêng đến sự yếu đuối của con người
trong giáo huấn của họ. Cha B. Haering đã được Tòa Thánh trả lời đăng trên báo L’Osservatore Romano trong số ra ngày
16/2/1989.[6] ĐHY Ratzinger thật nhạy bén
khi trả lời: cốt yếu và trọng tâm là sự hiện hữu của luật tiệm tiến, được Huấn
Quyền chính thức công nhận, với điều kiện không được nhầm lẫn luật này với sự
tiệm tiến của luật, tức là sự phân chia luật thành nhiều cấp độ, vì điều này
không thể chấp nhận được.
Luật tiệm tiến là một
nguyên tắc tu đức và Thánh Kinh lâu đời: thánh Francis de Sales đã từng nói đến
nó khi bàn về việc học tập các nhân đức qua việc giáo dục dần dần. Nhưng chỉ với
tông huấn Familiaris consortio của Đức
Gioan-Phaolô II, được công bố năm 1981, sau THĐGM về gia đình, luật tiệm tiến
này mới ra đời chính thức, được Huấn quyền đề nghị như là lộ trình luân lý của
các cặp vợ chồng, rồi được mở rộng cho toàn thể đời sống luân lý.[7]
Vì sự áp dụng luật này có
vài hàm hồ nguy hiểm nên cần phải hiểu rõ những gì Huấn Quyền chấp nhận và những
gì bị coi là không thể chấp nhận. Vậy tìm hiểu luật này trong chính bản văn đầu
tiên trong đó luật này xuất hiện là cần thiết. Bài viết sẽ mở rộng suy tư về một
vài bài chú giải thế giá, giúp thấy rõ hơn các chiều kích của luật này và vị
trí quan trọng của nó trong các tranh luận luân lý hiện nay.
II. ĐGH GIOAN PHAOLÔ II VỚI
“FAMILIARIS CONSORTIO”[8]
1. Luật
Tiệm Tiến
Tông Huấn Familiaris consortio bàn về luật tiệm tiến
này trong hai đoạn khác nhau.
Trước tiên trong phần nhập
đề “Những giới hạn và bóng tối của gia đình ngày nay”, Tông Huấn cho thấy sự cần
thiết phải hoán cải ngày càng sâu xa hơn để sống các giá trị Tin Mừng. Sự hoán
cải đó bắt đầu từ những gì mà mỗi người đã tiếp nhận được từ mầu nhiệm Chúa
Kitô, để rồi dẫn đưa họ ngày càng đi xa hơn nữa, làm sao để mầu nhiệm ấy ngày
càng được tháp nhập sâu vững hơn vào trong cuộc sống của người tín hữu.
Sự hoán cải toàn bộ không
thể thực hiện trong một lúc. Nó tương ứng với một tiến trình tăng trưởng có
tính chất sư phạm mà những người sống trong thời gian như chúng ta đều phải trải
qua (số 9).
Đoạn II bàn về luật tiệm
tiến (số 34) liên quan đến vấn đề phục vụ sự sống.
Trước hết đoạn này nhắc lại
sự chấp nhận hoàn toàn của THĐGM đối với giáo huấn của thông điệp Humanae vitae
về quy luật truyền sinh (số 29). Trật tự luân lý, xét cho cùng, bắt nguồn từ
chính Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa. Trật tự này phục vụ sự phát triển toàn vẹn nhân
tính của mỗi người. Tuy nhiên, ở đây, đoạn số 34 của Tông Huấn Familiaris
consortio xác định rõ ràng điều vừa nêu trên đây là một “tiến trình tăng trưởng
có tính chất sư phạm”:
“Con người... là một hữu
thể ở trong lịch sử. Ngày qua ngày con người tự xây dựng bản thân bằng nhiều chọn
lựa tự do. Vì thế, con người nhận thức, yêu thương và làm sự thiện theo các
giai đoạn tăng trưởng của mình” (FC, số 34,3)
Ở đây, ĐGH nói đến một yếu
tố quan trọng: con người là một hữu thể lịch sử. Nghĩa là, Ngài muốn nói rằng
không phải một sớm một chiều mà con người đạt đến sự trưởng thành viên mãn về
luân lý. Con người chỉ từ từ đạt tới mức hoàn hảo đó. Vì thế người ta không thể
đòi một tín hữu, ví dụ người tân tòng, chưa được chuẩn bị, phải thi hành những
đòi hỏi về luân lý như một kitô hữu khác đã tiến xa trên đường thiêng liêng.
Người tân tòng ấy cũng chưa hiểu được những đòi hỏi luân lý đó vì “con người nhận
thức... sự thiện theo các giai đoạn tăng trưởng của họ”.
Như thế, đời sống luân lý
bắt đầu trước hết bằng cách muốn biết đâu là điều thiện đích thực, muốn “biết
các giá trị được luật Thiên Chúa đảm bảo và thăng tiến”. Tiếp đến là làm sao thực
thi các giá trị ấy nhiều chừng nào tốt chừng ấy trong các chọn lựa cụ thể.
2. Con
đường tiệm tiến của các đôi vợ chồng
“Đường lối sư phạm của
Giáo hội có nhiệm vụ phải làm sao, trước hết, cho các đôi vợ chồng biết rõ đạo
lý của thông điệp Humanae vitae như một
quy luật trong đời sống tính dục, và chân thành cố gắng tạo những điều kiện để
tuân giữ quy luật đó” (số 34,4).
Chú ý hai điều Tông Huấn
đòi hỏi ở đây: a/ nhìn nhận quy luật và chấp nhận như luật dạy; b/ chân thành cố
gắng thiết lập những điều kiện để tuân giữ.
Tông Huấn không nói rằng
sau khi đã nhìn nhận quy luật, thì phải tức khắc tuân hành nguyên vẹn, nhưng
“hãy chân thành cố gắng thiết lập những điều kiện” để có thể thi hành. Tính chất
lịch sử của con người khiến cho con người có thể không áp dụng nguyên vẹn ngay
quy luật được. Điều trước hết đòi buộc con người ở đây là phải tìm ra các
phương tiện để thi hành trọn vẹn quy luật đó.
Một cách khái quát, Tông
Huấn đã xác nhận nguyên tắc này ngay trong phần nhập đề khi nói về “tính chất tiệm tiến của việc hoán cải”.
Số 9 của Tông Huấn nói rõ ràng: “Cần có một sự hoán cải liên tục, thường
xuyên... được thể hiện cụ thể bằng một nỗ lực ngày càng tiến xa hơn. Như thế một
tiến trình sinh động được phát triển dần dần tiến xa hơn nhờ sự tháp nhập từ từ
các ơn Chúa và những đòi buộc của tình yêu Ngài (...). Vì thế một tiến trình
tăng trưởng từ từ là điều cần thiết”.
Lưu ý cụm từ “tiến trình sinh động” là chìa khóa để áp
dụng luật tiệm tiến này, và nhờ đó có thể hủy bỏ được sự phân cách giữa thực
hành tiệm tiến và đạo lý của Giáo hội.
Nếu người tín hữu thấy
mình không có khả năng tuân giữ ở đây và
bây giờ những đòi hỏi của tình yêu chân thực do Giáo Hội trình bày, thì điều
quan trọng là nhìn nhận giá trị của đòi hỏi ấy, là ước muốn sống trọn vẹn đòi hỏi
đó càng sớm càng tốt và dùng các phương thế cụ thể, tự nhiên và siêu nhiên, để
khởi đầu tiến trình sinh động của nỗ lực hoán cải theo chiều hướng đó.
Tiến trình sinh động này,
được ĐGH diễn tả: “Cần có sự hoán cải liên tục, thường xuyên. Sự hoán cải này đòi hỏi nội tâm tín hữu
phải từ bỏ mọi sự ác và gắn bó với toàn bộ sự thiện, đồng thời được thể hiện cụ
thể bằng một nỗ lực ngày càng tiến xa hơn. Như thế một tiến trình sinh động được
phát triển...”
Cần để ý điều này là,
trong tiến trình tăng tưởng, ban đầu chỉ cần “nội tâm tín hữu từ bỏ mọi sự ác
và gắn bó với toàn bộ sự thiện” (số 9). ĐGH không đòi hỏi họ phải ngay tức khắc
loại bỏ hoàn toàn hành vi xấu, nhưng là cố gắng trong nội tâm để hiểu biết luật
luân lý, khước từ các hành vi xấu và gắn bó với điều thiện. Thái độ nội tâm này
được thể hiện qua các hành vi ngày càng hướng chúng ta tiến về sự tốt đẹp hơn,
cho đến khi có thể thực hiện các hành vi khách quan là tốt mà luật đã khuyến
khích thực hiện. Vì thế, mệnh lệnh không nằm trong chính hành vi cần thực hiện,
nhưng nằm trong thái độ cố gắng hướng về việc thực hiện hành vi ấy.
Chúng ta gặp lại nơi đây
chính điều mà số 34 của Tông Huấn Familiaris
consortio đã giúp chúng ta khám phá ra đối với trường hợp rõ rệt của luật
đã được thông điệp Humanae vitae xác
định.
Để thiết lập và duy trì tiến
trình đó, Giáo Hội đã hành động vừa như là một nhà giáo dục và đồng thời cũng vừa
như là một người mẹ đối với các đôi vợ chồng (số 33). Trong tư cách là một nhà
giáo dục, “Giáo Hội không ngừng giảng dạy luật luân lý”, nhưng trong tư cách là
người mẹ, Giáo Hội biết rõ các khó khăn thật sự mà con cái mình gặp phải. Vì thế
đường lối sư phạm cụ thể và đạo lý phải luôn đi đôi với nhau. Phương pháp sư phạm
đích thực của Giáo Hội nhắm vào việc “tạo nên và nâng đỡ tất cả các điều kiện về
mặt nhân bản, tâm lý, luân lý và thiêng liêng, những điều kiện không thể thiếu
được để có thể hiểu và sống các giá trị và quy luật luân lý”. Nói cách khác, Giáo Hội giảng dạy luật
luân lý nhắm bảo vệ một giá trị hay một chân lý, và đồng thời Giáo Hội giúp con
cái mình tiến bước trong chiều hướng đó, “bằng cách tạo ra và duy trì các điều
kiện thiết yếu”, một mặt để loại bỏ điều ác ( số 9), mặt khác để cổ võ sự thiện.
Cần lưu ý là thái độ sư phạm
của Giáo Hội không quy về chính việc vi phạm tính dục. Giáo hội đặt sự vi phạm
tính dục này trong một khung cảnh rộng lớn hơn ở các khía cạnh tâm lý, luân lý
và thiêng liêng. Vì vậy, cần phải để ý đến tất cả các chiều kích đó để tiến triển
trong việc thực thi luật luân lý, chứ không phải chỉ để ý tới chính việc vi phạm
luật, hoặc chỉ nhấn mạnh trực tiếp tới việc vi phạm.
Cũng cần nhắc lại rằng tiến
trình hoán cải này không phải một sớm một chiều mà có thể thực hiện được, và ĐGH, trong cương vị là một người lãnh đạo
đức tin và là vị cha chung, đã nhấn mạnh điều đó cho các vị mục tử hoạt động
trong lãnh vực mục vụ gia đình. Ngài nói: “trong cuộc sống thân mật vợ chồng có
liên hệ tới ý muốn của hai người, nhưng cả hai đều được mời gọi cư xử tâm đầu ý
hiệp với nhau: điều này đòi hỏi rất nhiều kiên nhẫn, tình cảm và thời gian” (FC34,6).
Hơn nữa, cuộc hành trình
nhân bản và tinh thần của đôi vợ chồng còn bao gồm: “Ý thức về tội lỗi, lòng
chân thành quyết tâm tuân giữ luật luân lý, sứ vụ hòa giải”. Như thế, đối với Đức
Gioan Phaolô II cũng như đối với Đức Phaolô VI, con đường tiến tới luật luân lý
cần tuân giữ bao gồm việc năng lãnh nhận bí tích Hòa Giải.
3. Phân
biệt Luật Tiệm Tiến với sự tiệm tiến của luật
Cùng lúc với việc chính thức
nhìn nhận sự tiến triển từ từ của lương tâm và hành vi của các đôi vợ chồng, Đức
Gioan Phaolô II đã cảnh giác sự mơ hồ lầm lẫn dưới tên gọi là “sự tiệm tiến của
luật”. Ngài xác định rằng luật Chúa không thể chỉ được coi như “một lý tưởng cần
đạt tới trong tương lai”, nhưng như một “mệnh lệnh của Chúa Kitô, truyền phải
nghiêm chỉnh khắc phục những trở ngại”. ĐGH đã bàn rõ ràng về điều này trong số
34 của Tông Huấn Familiaris consortio.
Trong đoạn này, ngài lấy lại nguyên văn một phần bài giảng bế mạc THĐGM ngày 25/10/1980.
Một giáo huấn luân lý phải
chú ý đến cả hai khía cạnh của một thực tại, một bên là giáo thuyết mang tính
khả tín minh mạch, một bên đường lối sư phạm mục vụ biết chú trọng đến sự yếu
đuối của con người. Đây cũng chính là điều mà Đức Gioan Phaolô II đã tóm lược
như sau, coi đó như là mối quan tâm liên lỉ của các nghị phụ: “xây dựng chân lý
trong đức bác ái”. Tuy nhiên ngài muốn bổ túc công thức này bằng một vài suy tư
cá nhân đầy ý nghĩa cho thấy sự quân bình trong quan tâm mục vụ của ngài:
“Chúng tôi muốn thêm vài lời
(...), như để đề cao những công việc trong bốn tuần qua: nghĩa là không ai có
thể thực hiện đức bác ái bằng một thể thức khác với sự thật (...).Thành quả
chính của khóa họp THĐGM này ở tại sự kiện: các nghĩa vụ của gia đình - mà bản
chất của nó là bác ái - chỉ có thể được chu toàn nếu người ta sống trọn sự thật
(...). Chính sự thật mới giải thoát; chính sự thật mới hướng dẫn; chính sự thật
mới mở đường dẫn đến sự thánh thiện và sự công chính”.[9]
Mặc dù Đức Gioan Phaolô II
hoàn toàn chấp nhận có một sự tiệm tiến trong việc đáp ứng các đòi hỏi luân lý,
nhưng đồng thời ngài không hề có ý định mở cửa cho sự tháo thứ. Nói một cách
khác, tuy vấn đề ở đây là “xây dựng sự thật trong đức ái”, nhưng không được
quên rằng “không ai có thể sống đức ái cách nào khác hơn là sống trong sự thật”.
Và sự thật này được ĐGH đồng nhất hóa với luật luân lý khách quan do Giáo hội
giảng dạy. Vì thế, trước đó, ĐGH đã nhận định rằng:
“Không được coi luật lệ chỉ
là một lý tưởng phải đạt đến trong tương lai; nhưng phải coi luật lệ là một giới
răn của Chúa Kitô, ngõ hầu nghiêm chỉnh vượt qua các chướng ngại”.
Người ta chỉ có thể chấp
nhận (...) “tiến trình tiệm tiến” nơi những người thành thực tuân giữ luật Chúa
và tìm kiếm những điều thiện mà chính luật lệ “bảo vệ và cổ võ”. Không được đồng
nhất hóa điều mà người ta gọi là “luật tiệm tiến”, hoặc “con đường tiến dần
lên” với sự phân chia luật thành nhiều cấp bậc khác nhau, như thể có những cấp
bậc và những hình thức giới luật khác nhau tùy theo cá nhân và hoàn cảnh khác
nhau. Mọi cặp vợ chồng đều được mời gọi nên thánh trong bậc hôn nhân, theo
thánh ý Thiên Chúa và ơn gọi này được thực hiện tùy theo mức độ con người có khả
năng đáp lại giới luật của Chúa, trong một thái độ tín thác thanh thản nơi ơn
thánh và nơi ý chí của chính mình” (số 8).
Một diễn văn khác của Đức
Gioan Phaolô II, bài huấn dụ dành cho đại hội lần thứ 10 của Thánh Bộ Truyền
Giáo các dân tộc, cho chúng ta thấy rõ hơn nữa về vấn đề này. Chủ đề của Đại hội
này là “vai trò của gia đình trong bối
cảnh truyền giáo”, họp tại Roma tháng 10/1981, hai tháng trước khi công bố Tông
Huấn Familiaris consortio. Nhận thấy
có rất nhiều loại đời sống gia đình khác nhau trên thế giới, câu hỏi được đặt
ra là: đâu là vai trò của mẫu gia đình kitô giữa những kiểu mẫu gia đình khác
nhau như thế. Câu trả lời của ĐGH thật rõ ràng:
“Về phần chúng ta, trong
tư cách là những tín hữu Kitô và là những người chịu trách nhiệm đối với công
cuộc truyền bá Phúc Âm, chúng ta là những người mang đến và bênh vực kiểu mẫu
gia đình ‘của chúng ta’, được gọi là gia đình Kitô. Đó chính là quy luật để
tham chiếu, đó chính là kiểu mẫu cần phải tái diễn!... Phải chăng đó chỉ là một
lý tưởng, nghĩa là một cái gì trừu tượng, và cho dù có thật đẹp, thật gợi cảm
đi nữa, thì cũng không thể nào thể hiện qua phong tục được? Chắc chắn là không
phải như thế, và chính vì lý do đó, vì sự cấp thiết phải đem nó ra áp dụng mà
đã nảy sinh ra các vấn đề tế nhị trên bình diện ý thức hệ và mục vụ”.[10]
Xác quyết rằng luật của
Thiên Chúa không phải chỉ là một “lý tưởng” mà thôi, Đức Gioan Phaolô II đồng
thời khẳng định là luật của Chúa phải được thi hành cụ thể. Luật luân lý là do
Thiên Chúa ban. Vì thế nó có tác dụng vạch rõ và bảo vệ điều tốt lành nhất cho
chúng ta. Chúng ta phải sốt sắng cố gắng tôn trọng luật càng mau chóng càng tốt,
với niềm tín thác rằng, trong tư cách là Đấng Tạo Hóa, nếu Ngài đã đề ra cho
con người những đòi hỏi ấy thì, trong tư cách là Đấng Cứu độ, Ngài cũng sẽ ban
cho mỗi người những phương thế để tuân giữ luật.
Thái độ này hoàn toàn khác
với thái độ sống theo sự “phân cấp độ trong luật lệ” mà Đức Gioan Phaolô II đã
lên án, thái độ trong đó đương sự ở trạng thái thụ động: “Luật đó khó quá đối với
tôi. Tôi chỉ cần tuân giữ phân nửa và tôi tiếp tục sống như từ trước đến nay”.
Ngày 17-9-1983, trong một
cuộc hội thảo về sự truyền sinh có trách nhiệm, Đức Gioan Phaolô II còn đề cập
đến sự mơ hồ có thể xảy ra giữa luật tiệm tiến và sự phân chia cấp bậc trong luật.
Khi ngỏ lời với các tham dự viên, ngài minh xác rằng:[11]
“Trước hết phải tránh ‘sự
phân chia cấp độ’ trong luật của Thiên Chúa theo các hoàn cảnh khác nhau mà các
đôi vợ chồng gặp phải. Quy luật luân lý biểu lộ cho chúng ta thấy biết kế hoạch
của Thiên Chúa về hôn nhân, sự tốt đẹp hoàn toàn của tình yêu vợ chồng. Muốn giảm
thiểu kế hoạch ấy của Thiên Chúa, tức là thiếu tôn trọng phẩm giá con người
(...). Người ta có thể tự hỏi: sở dĩ có sự lẫn lộn giữa sự ‘phân chia cấp độ
trong luật’ và ‘luật tiệm tiến’, phải chăng đó chính là vì có sự thiếu quý chuộng
luật của Thiên Chúa. Người ta cho rằng luật Chúa không thích hợp với mỗi người,
mỗi hoàn cảnh, và vì thế người ta muốn thay thế luật Chúa bằng một thứ trật tự
khác với trật tự của Chúa”.
Như thế, tư tưởng của Đức
Gioan Phaolô II thật rõ ràng: Luật Thiên Chúa thể hiện qua luật luân lý là một
mệnh lệnh. Đó là Sự thật về con người. Và người ta chỉ có thể chấp nhận một sự
tiệm tiến trong việc chu toàn luật đó với điều kiện là phải coi luật này là một
mục tiêu phải đạt đến, càng nhanh càng tốt, và phải dùng mọi phương thế để thực
hiện luật đó.
Đến đây, chúng ta thấy rõ
hơn sự phân biệt của ĐGH giữa một điều “chỉ là lý tưởng” và một “giới răn của
Chúa Kitô”. Lý tưởng thì đẹp nhưng khó vươn tới và không có tính cách mệnh lệnh
bắt buộc, còn giới răn thì đòi hỏi phải dấn thân quyết liệt để chu toàn.
Như thế, chúng ta thấy rằng
yếu tố then chốt để luật tiệm tiến có thể thực thi tốt chính là sự thiết lập một
tiến trình sinh động theo chiều hướng
mà luật đã hướng dẫn. Tiến trình đó sẽ giúp chúng ta tiến tới một tình yêu sung
mãn hơn, dưới tác động đồng thời của ơn thánh Chúa và sự cộng tác tự do của
chúng ta, được thể hiện qua những cố gắng cụ thể và thật sự.
4. Tóm lại
Có thể tổng hợp các giai
đoạn trong tiến trình tiệm tiến của việc tuân giữ luật như sau:
- Công
nhận rằng quy luật là điều chỉ rõ sự thiện chân thực cho tôi.
- Nếu
tôi không thể nào áp dụng quy luật ấy một cách hoàn toàn trong lúc này, thì ít
ra tôi cũng cố gắng hướng tới. Để được như vậy, tôi phải khởi sự một tiến trình
sinh động nhắm tạo nên những điều kiện cần thiết để làm sao càng ngày càng có
thể tuân giữ quy luật đó cho hoàn hảo hơn. Tiến trình sinh động này nhắm kéo
tôi ra xa sự dữ và làm cho tôi gắn bó với sự thiện. Tiến trình đó không chỉ giới
hạn trong sự cố gắng trực tiếp của ý chí để tránh sự lỗi luật, nhưng còn bao gồm
cả việc ra sức dùng đủ mọi yếu tố thuận lợi để thi hành luật: giữ mình, cầu
nguyện, lãnh nhận các bí tích, khổ chế, lựa chọn các tương quan...
III. CHÚ GIẢI CỦA ĐGH BÊNÊĐICTÔ XVI[12]
Ngay sau khi Thượng HĐGM
thế giới năm 1980 bế mạc, ĐHY Ratzinger, sau này là ĐGH Bênêđictô XVI, đã nhận
thức được tầm quan trọng trong việc xác minh luật tiệm tiến.[13] Khi đó, ĐHY đã coi luật tiệm
tiến này là “một trong những viễn tượng sâu xa nhất của THĐGM”.
Chú giải về luật này cho
hàng giáo sĩ của ngài, ĐHY lúc ấy đã giải thích rằng, thánh ý của Thiên Chúa
không thay đổi, chỉ có chúng ta mới thay đổi, chúng ta đang trên đường tiến đến
thánh ý Chúa, trong tư cách là Dân Chúa cũng như trong tư cách là các cá nhân.
Vì thế, lúc nào chúng ta cũng cần phải tìm kiếm thánh ý Chúa trong giây phút hiện
tại.
Trong cuộc lữ thứ trần
gian, chúng ta sẽ không bao giờ đến đích và điều quan trọng đối với mỗi người
là tiếp tục đi trên con đường thánh ý Chúa. Tình trạng “luôn trên đường” đó được
cụ thể hóa ở hai cấp độ: nhận thức và thực hành về luân lý. Ở đây chúng ta có một
sự minh xác thật hay: đó là luật tiệm tiến không những chỉ áp dụng trên bình diện
thực hành mà thôi, nhưng cả trên phương diện nhận thức về luân lý nữa.
Về tiến trình hoán cải,chúng
ta càng tiến gần đến Chúa Kitô, càng để ngài chiếm hữu chúng ta, thì chúng ta
càng khám phá ra nhiều đòi hỏi mới của tình yêu cần phải thực hành.
Nhưng chúng ta thực sự có
quyền quở trách một người là không thực thi một lề lối hành động mà họ chưa hiểu
rõ về tính chất có căn cứ của nó hay không? Đó là một trường hợp lầm lẫn không
thể khắc phục được. Lúc ấy, có thể sự hiểu biết tối thiểu cần thiết chỉ là một
sự tín thác tuân theo giáo huấn của Huấn Quyền.
Sau đó, trong bài trình
bày về THĐGM, liên quan đến các vấn đề mục vụ, ĐHY Ratzinger trở lại vấn đề luật
tiệm tiến, nhưng để nói về việc ngừa thai.[14]
Ngài cho thấy là quy luật của thông điệp Humanae
Vitae bảo vệ con người một cách sâu sắc, và xác quyết rằng:
“vì thế ... cho dù có thật
rõ ràng, thì quy luật này cũng không phải là cứng nhắc, trái lại nó vẫn có thể
tiếp nhận những thẩm định khác nhau tùy theo những hoàn cảnh luân lý khác
nhau”.Tất cả những điều này cho thấy ‘chiều kích sâu xa của quy luật’, một quy
luật mang bản chất làm đường đi và muốn đặt người ta vào trong con đường ấy ...
nhưng nếu người ta không lên đường và nếu người ta dựa vào bản chất làm đường
đi của nó để nói rằng quy luật đó chỉ có tính cách gợi mở (không bắt buộc), thì
điều đó có nghĩa là người ta phủ nhận nó ...”
Lời tuyên bố này rất quan
trọng để giúp cho hiểu rõ, một mặt là luật tiệm tiến trong hai chiều kích của
nó (vấn đề ngừa thai và sự hoán cải của con người), và mặt khác là một vấn đề
cơ bản trong luân lý: đâu là vai trò của luật và lương tâm trong một quyết định
luân lý? Then chốt câu trả lời mà vị Hồng y đưa ra được tóm gọn trong vài điểm
như sau: quy luật nói với nội tâm sâu thẳm của con người. Mục đích của quy luật
là giúp con người lên đường. Nhưng chính con người, tùy theo mức độ ánh sáng nhận
được và trong các hoàn cảnh cụ thể, có thể phân định mình có thể lên đường theo
cách thức nào và trong mức độ nào. Điều quan trọng là họ đang tiến đến đích điểm
đã được vạch ra.
IV. VÀI CHÚ GIẢI CHÍNH THỨC KHÁC
1. Chú
giải của Đức ông Cox Huneeus[15]
Sau khi Tông Huấn Familiaris Consortio được công bố, nhiều
bài chú giải có thế giá đã được phát hành trên báo L’Osservatore Romano, mỗi bài nêu bật một khía cạnh trong giáo huấn
của Thượng HĐGM. Trong số những chú giải đó, có hai bài liên quan tới luật tiệm
tiến.
Bài thứ nhất của của Đức
ông Huneeus, Tổng thư ký Hội đồng Tòa thánh về gia đình, viết về “Mục vụ gia
đình dưới ánh sáng của Familiaris
Consortio”.[16]
Phần thứ II của bài báo với
tiêu đề “Các nguyên tắc mục vụ” bàn về các nguyên tắc trong mục vụ gia đình nói
chung, nhưng chúng cũng có thể được áp dụng trực tiếp vào vấn đề cụ thể là ngừa
thai cũng như áp dụng cho một viễn tượng rộng lớn hơn, đó là sự hoán cải nói
chung.Dựa vào Tông Huấn Familiaris Consortio, số 65 và những số
tiếp theo đó, Đức ông Cox Huneeus nêu bật rằng việc mục vụ gia đình phải có
tính cách “hữu cơ, phổ quát và tiệm tiến”.
Hữu cơ, vì đây là một cộng
đoàn sống động, gồm những con người sống động. Mà, sự phát triển của một sinh vật
thì phải được thực hiện dưới sự thúc đẩy của nguyên lý sống làm cho nó sống và
tăng trưởng. “Nghĩa là không phải do sự kết hợp các yếu tố lại với nhau do một
sức mạnh từ bên ngoài, nhưng là do sinh lực của một nguyên lý sống nội tại...
Trong trường hợp gia đình, nguyên lý nội tại đó là ... tình yêu”.
Ngoài ra, một sinh vật thì
tăng trưởng dần dần. “Chúng ta không thể gặt hái ngay các hoa quả. Phải rộng
tay gieo vãi và đợi cho hạt giống, sau khi rơi xuống đất, được tiếp nhận và đi
sâu vào lòng đất để cuối cùng sinh ra hoa trái: một hoa trái rất mỏng manh lúc
ban đầu và đòi hỏi rất nhiều chú tâm và và kiên nhẫn, và sau đó mới trở nên mạnh
mẽ và cường tráng”.
Sau cùng, sự phát triển một
sinh vật được thực hiện từ những mầm sẵn cho nó. Đối với mỗi gia đình, vị mục tử
cần phải quan tâm khám phá các giá trị đã tiềm ẩn trong đó, để rồi từ đó dần dần
giúp gia đình hiểu và sống các giá trị khác cho đến khi đạt tới sự sung mãn của
đời sống Kitô; hay đúng hơn, sự sung mãn sẽ lớn nhỏ trong mỗi trường hợp, tùy
theo ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa và lời đáp trả quảng đại của con người.
Ý tưởng về sự tăng trưởng
hữu cơ giúp chúng ta hiểu rõ tiến trình hoán cải sâu xa, đến từ nội tâm, và diễn
ra nơi mỗi tâm hồn; nó đòi hỏi “người vun trồng” phải lo săn sóc kỹ lưỡng và phải
thật kiên nhẫn.
Kinh thánh cho chúng ta thấy
tiến trình lịch sử ơn cứu độ, qua đó Thiên Chúa bộc lộ là nhà sư phạm kiên nhẫn
dạy dỗ nhân loại cách tiệm tiến, cần đến hàng ngàn năm để dạy dân Chúa bài học
yêu thương tha thứ.
2. Chú
giải của Đức Hồng Y Lustiger[17]
Tư tưởng chính của ĐHY
Lustiger,[18]Đức Tổng Giám Mục Paris
tương hợp với những phân tích vừa đề cập đến, theo đó sự hoán cải là kết quả sự
tăng trưởng của ơn thánh trong chúng ta, được hoạt động mục vụ của giáo hội
kích thích.
Tuy nhiên, ngoài nguyên tắc
thứ nhất, bài chú giải còn thêm một nguyên tắc thứ hai cũng quan trọng như
nguyên tắc thứ nhất. ĐHY Lustiger phân tích đường lối sư phạm của Chúa Giêsu đối
với các môn đệ của Chúa.
Nếu lý luận theo ngôn ngữ
của loài người, chúng ta có thể tưởng tượng một bối cảnh như sau: Trong vòng ba
năm chung sống với Ngôi Lời nhập thể, Mười Hai tông đồ dần dần được ngài dẫn
vào quan điểm của ngài về thế giới và về các biến cố; họ được đưa vào trong sứ
mạng của ngài. Và cuối cùng khi Thầy giã từ họ để ra đi, sự hoang mang của họ
không đến nỗi quá lớn lao, vì họ đủ trưởng thành để nối nghiệp Thầy coi sóc
Giáo Hội mới khai sinh và điều khiển Giáo Hội theo những nguyên tắc và phương
pháp của chính Chúa Giêsu.
Thế nhưng, khi đọc kỹ các
Tin Mừng, người ta nhận thấy rằng đường lối sư phạm của Chúa Kitô không như thế,
mà lại gần như trái ngược: càng đến lúc Chúa Giêsu phải chịu khổ nạn, người ta
càng thấy hố chia cách sâu rộng thêm giữa một bên là những đòi hỏi yêu thương
và trung tín mà Thầy đề ra và bên kia là sự yếu đuối của các Tông Đồ, sự yếu đuối
mà chính họ cũng không ý thức nổi.
“Chính trong lúc Chúa
Giêsu tiến bước lên Giêrusalem, lúc mà ngài hướng trọn về cuộc khổ nạn, thì đó
là lúc mà các Tông Đồ kháng cự mạnh mẽ nhất chống lại những giáo huấn về hôn
nhân và tính dục, về sự vâng phục Thiên Chúa cho đến độ phải bỏ hết mọi của cải
thế gian, về sự ham danh vọng và quyền hành, về sự hoàn toàn từ bỏ để khiêm tốn
phục vụ (Mc 10): bao nhiêu là dấu hiệu về sự mù quáng của các Tông Đồ khi họ được
dẫn tới bên thềm cuộc khổ nạn, để rồi họ thốt lên một câu hỏi tuyệt vọng: Như
thế thì ai mới có thể được cứu rỗi?’ Nhìn họ, Chúa Giêsu đáp: Đối với con người
là điều không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể’” (Mc
10, 26-27) (tr.320).
Chỉ khi các Tông đồ ý thức
được sự yếu đuối và sự mù quáng của họ đối với chính bản thân mình cũng như đối
với Chúa Kitô - và nhờ vào sự tha thứ cũng như nhờ ơn của Chúa Thánh Thần - thì
họ mới được biến đổi, được giải thoát và có khả năng hiện thực những gì mà họ
đã không bao giờ nghĩ tới.
“Mệnh lệnh của Chúa Kitô đối với họ
không còn là một yêu sách kinh khủng, mà là một hồng ân ban sự sống nhờ công
trình của Chúa Kitô và sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Nhờ vậy họ được tái sinh
trong sức mạnh và được sống như con cái Thiên Chúa” (tr.320).
Chúng ta thấy rằng yếu tố
quyết định trong sự biến đổi này chính là ý thức của các tông đồ về sự yếu đuối
của họ trước đòi hỏi của tình yêu mà Chúa Kitô khởi xướng. Như thế chúng ta có
thể hiểu rằng đường lối sư phạm của Giáo Hội, trong niềm trung thành với Thầy của
mình, không bao giờ có thể là tránh nói tới các yêu sách của Chúa, hoặc là giảm
bớt đi. Trái lại, khi nhắc lại sự thật về con người với tất cả sự cao trọng của
nhân phẩm, Giáo Hội giáo dục cho con cái mình biết những thiếu sót của họ, và
trong mầu nhiệm sự chết và sống lại, Giáo hội giúp họ mở rộng tâm hồn để đón nhận
hồng ân sự sống thần linh. Theo nghĩa đó, “chính tính chất không phân cấp độ
trong luật là nền tảng của luật tiệm tiến” (tr. 322).
Nói khác đi: vì Giáo Hội
không giảm bớt đòi hỏi của luật Chúa, nên con người được kích thích để nhìn nhận
sự bất toàn của bản thân mình. Từ đó, con người dần dần cởi mở đón nhận tác động
của Thiên Chúa trong tâm hồn mình để có thể dần dần chu toàn lề luật đã được nhắc
nhớ. Và qua đó, “giáo huấn của Giáo hội về con người, xét cho cùng không phải
chỉ là một bài diễn văn mà thôi, nhưng là một tác động nhằm khai sinh một tạo vật
mới, là bản khai sinh của con người mới” (tr. 322).
Nhận xét này của ĐHY
Lustiger có thể bổ túc và giúp hiểu rõ những suy tư mà ĐHY Ratzinger đã trình
bày với hàng giáo sĩ của ngài về lề luật và lương tâm: nếu chúng ta chỉ nói rằng
lề luật soi sáng lương tâm để khích lệ con người “lên đường” thì chúng ta còn ở
lại trong khuôn khổ của một nền luân lý hoàn toàn là phàm nhân. Nhưng Đức TGM
Paris nói thêm rằng lề luật tác động trước hết “qua logic của ơn thánh”, nghĩa
là, khi tỏ cho chúng ta thấy những khiếm khuyết của mình, lề luật kích thích
chúng ta mở rộng tâm hồn đón nhận ơn sự sống thần linh của Chúa.
Từ đó chúng ta được giải
thoát khỏi những hẹp hòi của mình, và chính Chúa Kitô dần dần lớn lên trong
chúng ta. Ngài sẽ giúp chúng ta thực hiện những gì chúng ta không thể mơ ước
trước đó, và đồng thời ngài mạc khải cho chúng ta những đòi hỏi sâu rộng hơn nữa
của tình yêu.
Như thế, chúng ta thấy vai
trò của lề luật (hay nói tổng quát hơn là những giáo huấn của Giáo Hội) một
đàng nhắm soi sáng lương tâm và mặt khác là nhắm ngăn cản chúng ta đừng tự bào
chữa mình, khiến chúng ta biết cởi mở để Thiên Chúa hoạt động trong chúng ta,
và nhờ đó, chúng ta có thể tiếp tục lớn lên và tiếp tục đi trên đường.
3. Một
ví dụ khác về Luật tiệm tiến
Linh mục Alexandrer
Lucie-Smith cho một thí dụ khác khá dễ hiểu về Luật tiệm tiến như sau[19]
Khi Chúa Giêsu bị treo
trên thập giá, tất cả đều bỏ rơi Ngài, ngoại trừ bốn người: Đức Mẹ, Bà Maria vợ
ông Cleophas, Maria Madalena, và môn đệ yêu dấu của Ngài. Bốn người này, cách
riêng Đức Maria và Thánh Gioan đại diện cho người môn đệ hoàn hảo, trọn vẹn
trái tim dấn thân vì Chúa Giêsu. Vậy khi họ yêu mến Chúa trọn lòng, họ đạt đến
tình trạng môn đệ toàn hảo.
Còn Mười tông đồ khác thì
sao? Họ đang trốn vì sợ hãi! Họ đã không còn là môn đệ nữa ư? Lúc đó, có vẻ là
như thế. Nhưng rồi qua cơn sợ hãi, họ sẽ trở lại. Và vào ngày lễ Ngũ tuần, họ
đã mạnh mẽ rao giảng. Hơn nữa, vài chục năm sau, họ đều dùng chính mạng sống để
làm chứng cho Chúa Giêsu. Cách riêng là thánh Phêrô, người chối Thầy mình, cuối
cùng đã được chịu treo trên thập giá mà ngài từng trốn chạy.
Còn các môn đệ khác thì
sao? Thánh Máccô cho chúng ta biết, các người phụ nữ khác đang ‘đứng nhìn Chúa
từ đàng xa.’ Còn các môn đệ khác nữa? Ắt hẳn là họ cũng có ở đâu đó. Họ theo
Chúa Giêsu, nhưng giữ một khoảng xa.
Chúa Giêsu chịu đóng đinh
vào khoảng tháng 3 năm 27. Thánh Phêrô được đóng đinh vào khoảng năm 64. Phêrô
phải mất gần 40 năm để được chia sẻ số phận với Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh.
Luật yêu thương được thành toàn trọn vẹn bởi thánh Gioan và Đức Mẹ vào chiều thứ
sáu tuần thánh, trong sự thông hiệp với Chúa Giêsu Kitô chịu nạn, và rồi cũng
được thành toàn bởi thánh Phêrô sau một hành trình thiêng liêng dài gần 40 năm.
Thánh Phêrô, giáo hoàng tiên khởi, cho chúng ta bài học sống đầu tiên về luật
tiệm tiến.
Giáo hội ngày nay cũng giống
như Giáo hội trong ngày thứ sáu tuần thánh năm xưa đó. Các thánh ở dưới chân thập
giá, toàn tâm toàn ý nhìn lên Chúa Giêsu. Các môn đệ tốt lành khác cũng đang
nhìn lên Ngài, nhưng ở xa hơn, nhiều mối lo toan khác đã giữ họ lại, nhưng
chúng ta mong rằng họ sẽ vượt qua được khoảng cách giữa họ với Thiên Chúa và tiến
lại gần hơn. Còn một số người khác đã hoàn toàn mất dạng, nhưng sẽ trở lại, và
một ngày nào đó sẽ gần sát với Chúa Giêsu.
Hẳn nhiên, cách diễn giải
này dựa trên một tiền đề nền tảng rằng Luật là một dấu chỉ của tình yêu Thiên
Chúa, và cần chúng ta đáp lời yêu thương. Đây không phải là điều mà chúng ta có
thể thành toàn, bởi có ai yêu Chúa cho bằng tình yêu Ngài dành cho chúng ta?
Tình yêu Thiên Chúa là vô hạn, và chúng ta phải luôn nỗ lực tìm cách yêu Ngài
hơn nữa.
V. ĐGH PHANXICÔ VỚI TÔNG HUẤN AMORIS LAETITIA
Với Tông huấn Amoris Laetitia (AL), ĐGH Phanxicô đã
trao cho tất cả các gia đình một món quà đặc biệt. Đức Hồng Y Baldisseri nhận
xét đúng đắn rằng Tông huấn đã được đưa ra đúng thời điểm cơ chế gia đình đang
trải qua cuộc khủng hoảng nghiêm trọng nhất trong lịch sử.[20]
Hiểu biết nội dung luật tiệm
tiến qua các phần nghiên cứu trên, chúng ta có thể nhận thấy luật tiệm tiến “phủ
sóng” khá rộng trong suy tư thần học và phương pháp tiếp cận mục vụ của Đức
Thánh Cha. Trong giới hạn bài viết này, chỉ nêu vài điểm chính yếu.
ĐGH dành hai chương cho
khía cạnh quan trọng trong hôn nhân và gia đình: tình yêu. Ngài giải thích khía
cạnh ấy bằng cách nói rằng “chúng ta không thể khuyến khích một cuộc hành trình
của lòng trung thành và tự hiến cho nhau nếu không khích lệ sự lớn lên, sự củng
cố và đào sâu tình yêu hôn nhân và gia đình” (AL s. 89).
Trích dẫn Tông Huấn Familiaris consortio của Đức Gioan
Phaolô II, Đức Phanxicô đề cao khái niệm “tính tiệm tiến”, tức là các tín hữu
đôi khi có thể tăng trưởng tiệm tiến trong việc hiểu biết và thực thi giáo lý
Giáo Hội trải dài suốt hành trình cuộc đời. “Đây không phải là một “sự tiệm tiến
của luật” mà là một sự tiệm tiến trong sự thực hành thận trọng của các hành vi
tự do liên quan đến các đối tượng không ở một vị thế đủ để hiểu biết, tôn trọng,
hoặc thực hiện đầy đủ các đòi hỏi khách quan của luật”, ĐGH xác định. “Vì luật
chính là một món quà của Thiên Chúa đưa ra các cách hành động, một món quà cho
tất cả mọi người, không có ngoại lệ.”[21]
ĐGH nhắc nhở các mục tử cần
sự khiêm tốn của óc thực tế cứu xét hôn nhân trong thực chất của nó, nghĩa là
“một tiến trình năng động tăng trưởng và thành đạt”. ĐGH nhấn mạnh rằng cần
dành chỗ cho việc huấn luyện lương tâm các tín hữu: “Chúng ta được kêu gọi huấn
luyện lương tâm, và đừng chủ trương thay thế lương tâm” (AL 37). Theo ĐGH, Chúa
Giêsu đã đề nghị một lý tưởng yêu sách nhưng “ngài không bao giờ đánh mất sự gần
gũi cảm thương với những người yếu đuối như người phụ nữ xứ Samaria hoặc người
phụ nữ ngoại tình” (AL 38).
Lương tâm phân định với sự
chân thành và trung thực những gì, trong lúc này, là sự đáp trả quảng đại có thể
được dâng lên Thiên Chúa, và khám phá, với một sự chắc chắn luân lý, đâu là sự
dấn thân mà Thiên Chúa đang kêu gọi ở giữa sự phức tạp cụ thể của hoàn cảnh hiện
thực. Các mục tử biết rằng sự phân định này là rất năng động và phải luôn mở ra
cho các khả năng tăng triển mới trong tiến trình đời sống Kitô hữu, và cho các
quyết định mới mẻ cho phép thực hiện đòi hỏi của Luật cách đầy đủ nhất.
Huấn Quyền của ĐGH
Phanxicô dẫn chúng ta đến chỗ tái khám phá tầm quan trọng của lương tâm cá nhân
trong đời sống cá nhân Kitô hữu và trong đời sống Giáo hội. Lương tâm, như
Vatican II đã nói, “là nơi thẳm sâu thầm kín, là cung thánh của lòng người, nơi
đây chỉ còn một mình con người với Thiên Chúa, Đấng đang lên tiếng trong thâm
tâm con người” (Gaudium et Spes, số 16). Và sau đó Công Đồng thêm: “Càng dành
ưu tiên cho lương tâm ngay thẳng, thì cá nhân và cộng đoàn càng tránh được những
chọn lựa mù quáng, và càng nỗ lực tuân phục những tiêu chuẩn khách quan của
luân lý” (GS s. 16).
Trong đoạn kết luận, ĐGH
quả quyết: “Không có gia đình nào là một thực tại hoàn hảo và được kết thành một
lần cho tất cả, nhưng đòi một sự tiến triển từ từ khả năng yêu thương của mình
(...). Tất cả chúng ta được kêu gọi luôn cố gắng đi xa hơn chính mình, những giới
hạn của mình và mỗi gia đình phải sống trong sự khích lệ liên tục như thế. Các
gia đình chúng ta hãy tiến bước, chúng ta hãy tiếp tục bước đi! (...). Chúng ta
đừng đánh mất hy vọng vì những giới hạn của mình, nhưng cũng đừng từ bỏ không
tìm kiếm tình yêu và sự hiệp thông sung mãn đã được hứa cho chúng ta” (AL s.
325).
VI. KẾT LUẬN VÀ MỞ RỘNG VẤN ĐỀ[22]
Luật tiệm tiến xác định một
cách thức hành xử trong thực tế đứng trước một luật luân lý. Nó phân định rõ
hơn mối tương quan cần thiết giữa một luật tổng quát và lương tâm mỗi người. Luật
tiệm tiến này đã phát sinh trong một khung cảnh đặc biệt liên quan đến việc điều
hòa sinh sản, nhưng khung cảnh đó chỉ là một thí dụ điển hình mà thôi. Toàn thể
hoạt động của con người đều có thể được soi sáng nhờ tiến trình tiệm tiến này.
Thần học luân lý nhìn nhận
sự cần thiết phải có một tiến trình tăng trưởng đứng trước một giới răn thiết định
(tích cực). Chẳng hạn giới luật “Hãy mến yêu Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng
...” chỉ có thể là giới luật với nhịp tiến triển từ từ trong mức độ thực hành.
Nhưng theo hiểu biết luân lý truyền thống, sự chưa thành toàn này không thể được
chấp nhận trong trường hợp của một điều răn cấm chỉ; lúc đó, hoặc chúng ta ở
trong điều tốt, hoặc chúng ta ở trong tội lỗi, chứ không thể ở lưng chừng được.
Tông Huấn Familiaris consortio đã nới
rộng phạm vi áp dụng luật tiệm tiến cho chính các giới răn cấm, theo nghĩa là
có thể có sự tiến triển từ từ trong việc tuân giữ các giới răn này (Hiển nhiên
giới răn “Chớ giết người” thì không thể có vấn đề tiệm tiến được!)
Từ đó, người ta có thể suy
ra rằng nhờ luật tiệm tiến, thần học luân lý đang nhìn nhận rằng tính luân lý
hành vi không phải chỉ có trắng hoặc đen mà thôi, nhưng giữa trắng và đen còn
có xám nữa. Dĩ nhiên xám chưa phải là trắng, nhưng nó cũng không hẳn là đen, và
không thể bị coi là đen! Tuy nhiên cũng phải nhấn mạnh lại rằng nếu không phải
bao giờ cũng đòi buộc phải áp dụng tức khắc và trọn vẹn quy luật, thì bao giờ
cũng buộc phải lo hướng tới tìm cách áp dụng trọn vẹn quy luật đó. Sự hướng tới
này phải có tính chất thực sự và sinh động, nghĩa là nó có mục đích giúp chúng
ta mở rộng thực hiện càng sớm càng tốt giá trị mà quy luật bảo vệ.
Luật tiệm tiến có thể giúp
giảm đi mặc cảm tội lỗi nơi người Kitô hữu mà, bất chấp những cố gắng của mình,
vẫn không luôn đạt tới chỗ sống tất cả những đòi hỏi luân lý. Nó cũng có thể
giúp người Kitô hữu để phân biệt mục đích nhắm tới và thiện ích mà người ấy
chân thành thực thi được. Luật này mang lại một nền tảng cho một sự hiểu biết mục
vụ tốt hơn các hoàn cảnh khó khăn, để tìm ra những giải pháp mục vụ đầy lòng
thương xót hơn.[23]
Hơn nữa, nếu mở rộng viễn
tượng suy tư ở đây, thì sẽ thấy rằng khi xác định tương quan giữa luật và lương
tâm, luật tiệm tiến có liên quan đến nhiều vấn đề hiện đại mà các thần học gia
vẫn còn đang tranh luận:
- Vai trò của luật,
Huấn quyền và quyền tối thượng của lương tâm.
- Vấn đề dung hợp
(compromis) trong luân lý.
- Tính chất
khách quan và chủ quan trong quyết định luân lý.
Từ đó, chúng ta có thể
hình dung vai trò trung gian của luật tiệm tiến giữa:
- một nền
luân lý về yếu tính và một nền luân lý về hiện thể.
- một nền
luân lý về hành vi và một nền luân lý về ý hướng.
- một nền
luân lý về nghĩa vụ và nền luân lý về nhân đức.
Và để sự trung gian đó có
thể xảy ra được cần một sự nối kết chặt chẽ giữa thần học luân lý và đời sống
tu đức thiêng liêng. Một trong những điều mà các vị mục tử và các thần học gia
thường yêu cầu trong Thượng HĐGM về gia đình 1980:
“Chúng ta giảng quá nhiều
về luân lý nhưng chúng ta thiếu thần bí. Thế mà, sống thì đi trước hành động.
Các giới luật luân lý mà tách rời khỏi tu đức và thần bí, thì thường chỉ đưa tới
mặc cảm tội lỗi thái quá, đưa tới thất vọng hoặc dửng dưng. Như thế, thay vì là
một lời kêu gọi vượt thắng và là một cơ may đối với con người, luân lý không có
tu đức chỉ tạo ra một sự co quắp của ý chí.
Luật mới chẳng phải là
Thánh Linh đó sao? Vì thế, luật mới không phải chỉ là một lệnh truyền, nhưng
còn là một lời hứa và là một ân sủng. Luật đó chính là Thánh Linh, không làm thất
vọng, nhưng là một nguồn năng lực vô tận. Vì Thiên Chúa không phải chỉ là một
Nhà Lập Pháp, nhưng ngài còn là Đấng Cứu độ”.[24]
Luật tiệm tiến thực tế được
áp dụng trong khuôn khổ của việc đồng hành mục vụ. Về mặt lý thuyết là giúp cho
đối thoại nhiều trường phái thần học luân lý. Từ nhiều thập niên qua, trường
phái giải thích luật Tự nhiên chiếm ưu thế, và trường phái chủ thuyết nhân vị,
vốn đặt con người ở trung tâm của luân lý nhằm phát triển nó hướng đến một phẩm
giá cao cả hơn, đã không được cho vị trí đúng mức. Cần làm nổi bật chủ thuyết
nhân vị này mới hy vọng đổi mới nhiều việc Phúc Âm hóa hôn nhân và gia đình.[25]
Thực ra, đời sống con người
cơ bản là luôn hướng đến sự thiện và nỗ lực làm điều thiện, chấp nhận ngang qua
một sự tiệm tiến khi bất khả thực thi tất cả sự thiện được yêu cầu vào một thời
điểm nào đó. Nó cũng hệ tại tin tưởng vào một sự cộng tác giữa những cố gắng của
con người và ân sủng của Thiên Chúa.
Tổng hợp từ các tài liệu:
- Alain You, “La
loi de gradualité... et non pas la gradualité de la loi”, trong Esprit et Vie, (28.2.1991), tr.
120-127,Trần Đức Anh chuyển ngữ, “Luật Tiệm Tiến Trong Luân Lý”, <https://giaophannhatrang.org/vi/news/Luan-Ly/luat-tiem-tien-trong-luan-ly-16833.html>
- Cuộc trao đổi
Nhật báo La Croix với cha Alain Thomasset, S.J “Luật Tiệm Tiến có thể giúp tìm
ra các giải pháp mục vụ”, Tý Linh chuyển ngữ, <https://gxkimlong.wordpress.com/2014/10/10/luat-tiem-tien-co-the-giup-tim-ra-nhung-giai-phap-muc-vu/>
- Alexandrer
Lucie-Smith, “Hãy nhớ, yêu thương là vẹn toàn lề luật”, trong Catholic Herald, J.B Thái Hòa chuyển ngữ,
<http://phanxico.vn/2017/10/04/hay-nho-yeu-thuong-la-ven-toan-le-luat/>
- Joshua J. McElwee, “‘Amoris Laetitia’: Thay đổi cách nhìn để thấy
ân sủng trong sự bất toàn”, Ngọc Huỳnh
chuyển ngữ, < http://dcctvn.org/amoris-laetitia-thay-doi-cach-nhin-de-thay-an-sung-trong-su-bat-toan/>
Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 105 (Tháng 3 & 4 năm 2018)
[1] Alain You, “La loi de gradualité... et non
pas la gradualité de la loi”, trong Esprit
et Vie, (28.2.1991), tr. 120-127,Trần Đức Anh chuyển ngữ, “Luật Tiệm Tiến
Trong Luân Lý”, <https://giaophannhatrang.org/vi/news/Luan-Ly/luat-tiem-tien-trong-luan-ly-16833.html>
[2] Cuộc trao đổi Nhật báo La Croix với cha
Alain Thomasset, S.J “Luật Tiệm Tiến có thể giúp tìm ra các giải pháp mục vụ”,
Tý Linh chuyển ngữ, <https://gxkimlong.wordpress.com/2014/10/10/luat-tiem-tien-co-the-giup-tim-ra-nhung-giai-phap-muc-vu/>
[3] Alain You, “La loi
de gradualité... et non pas la gradualité de la loi”, trong Esprit et Vie, (28.2.1991), tr.
120-127,Trần Đức Anh chuyển ngữ, “Luật Tiệm Tiến Trong Luân Lý”, <https://giaophannhatrang.org/vi/news/Luan-Ly/luat-tiem-tien-trong-luan-ly-16833.html>
[6] Một bản dịch bài báo của cha Haering được đăng trong DC 86 (1989) 243-245, và câu trả lời của
Tòa thánh được đăng ngay sau đó, tr. 246-248.
[7] Alain You, “La loi de gradualité... et non
pas la gradualité de la loi”, trong Esprit
et Vie, (28.2.1991), tr. 120-127,Trần Đức Anh chuyển ngữ, “Luật Tiệm Tiến
Trong Luân Lý”, <https://giaophannhatrang.org/vi/news/Luan-Ly/luat-tiem-tien-trong-luan-ly-16833.html>
[8] Chủ yếu trích trong Alain You, “La loi de
gradualité... et non pas la gradualité de la loi”, trong Esprit et Vie, (28.2.1991), tr. 120-127,Trần Đức Anh chuyển ngữ,
“Luật Tiệm Tiến Trong Luân Lý”, <https://giaophannhatrang.org/vi/news/Luan-Ly/luat-tiem-tien-trong-luan-ly-16833.html>
[12] Chủ yếu trích trong
Alain You, “La loi de gradualité... et non pas la gradualité de la loi”, trong Esprit et Vie, (28.2.1991), tr.
120-127,Trần Đức Anh chuyển ngữ, “Luật Tiệm Tiến Trong Luân Lý”, <https://giaophannhatrang.org/vi/news/Luan-Ly/luat-tiem-tien-trong-luan-ly-16833.html>
[13] J. Ratzinger, Lettre au clergé du diocèse de Munich, trong DC 78 (1981)385- 394, và Esprit
et Vie , 1981, tr. 241 và chú thích.
[15] Chủ yếu trích trong Alain You, “La loi de
gradualité... et non pas la gradualité de la loi”, trong Esprit et Vie, (28.2.1991), tr. 120-127,Trần Đức Anh chuyển ngữ,
“Luật Tiệm Tiến Trong Luân Lý”, <https://giaophannhatrang.org/vi/news/Luan-Ly/luat-tiem-tien-trong-luan-ly-16833.html>
[16] F.-J. Cox Huneeus,
“La Pastorale familiare alla luce della Familiaris consortio”, trong Osservatore Romano 22-23.I.1982.
[17] Chủ yếu trích trong Alain You, “La loi de
gradualité... et non pas la gradualité de la loi”, trong Esprit et Vie, (28.2.1991), tr. 120-127,Trần Đức Anh chuyển ngữ,
“Luật Tiệm Tiến Trong Luân Lý”, <https://giaophannhatrang.org/vi/news/Luan-Ly/luat-tiem-tien-trong-luan-ly-16833.html>
[18] J.-M. Lustiger, Gradualité et conversion , trong Osservatore Romano 27- 28.I.1982; DC 79(1982) tr. 315-322.
[19] Alexandrer
Lucie-Smith, “Hãy nhớ, yêu thương là vẹn toàn lề luật”, trong Catholic Herald, J.B Thái Hòa chuyển ngữ,
<http://phanxico.vn/2017/10/04/hay-nho-yeu-thuong-la-ven-toan-le-luat/>
[20] Lluís Martínez Sistach, “Các viễn tượng mục
vụ của “Amoris Laetitia” L’Osservatore
Romano, 22-23/11/2016, Ngọc Huỳnh chuyển ngữ, <http://dcctvn.org/cac-vien-tuong-muc-vu-cua-amoris-laetitia/>
[21] Joshua J. McElwee, “‘Amoris Laetitia’:
Thay đổi cách nhìn để thấy ân sủng trong sự bất toàn”, Ngọc Huỳnh chuyển ngữ, < http://dcctvn.org/amoris-laetitia-thay-doi-cach-nhin-de-thay-an-sung-trong-su-bat-toan/>
[22] Chủ yếu trích trong
Alain You, “La loi de gradualité... et non pas la gradualité de la loi”, trong Esprit et Vie, (28.2.1991), tr.
120-127,Trần Đức Anh chuyển ngữ, “Luật Tiệm Tiến Trong Luân Lý”, <https://giaophannhatrang.org/vi/news/Luan-Ly/luat-tiem-tien-trong-luan-ly-16833.html>
[23] Cuộc trao đổi Nhật
báo La Croix với cha Alain Thomasset, S.J “Luật Tiệm Tiến có thể giúp tìm ra
các giải pháp mục vụ”, Tý Linh chuyển ngữ, <https://gxkimlong.wordpress.com/2014/10/10/luat-tiem-tien-co-the-giup-tim-ra-nhung-giai-phap-muc-vu/>
[25] Cuộc trao đổi Nhật báo La Croix với cha
Alain Thomasset, S.J “Luật Tiệm Tiến có thể giúp tìm ra các giải pháp mục vụ”,
Tý Linh chuyển ngữ, <https://gxkimlong.wordpress.com/2014/10/10/luat-tiem-tien-co-the-giup-tim-ra-nhung-giai-phap-muc-vu/>