THÁNH GIUSE SỐNG TRỌN VẸN TINH THẦN MÙA CHAY
Phêrô Phạm
Văn Trung
Lễ Thánh
Giuse, Bạn Trăm Năm Đức Trinh Nữ Maria, 2022
WHĐ (16.3.2022) - Trong Mùa Chay, Giáo Hội mừng lễ Thánh Giuse, Ban Trăm Năm Đức
Trinh Nữ Maria. Điều này hẳn có ý nghĩa của riêng nó. Thánh Giuse là gương mẫu đời sống kín đáo về
việc bố thí, cầu nguyện và chay tịnh vốn được kêu gọi trong các bài đọc Mùa
Chay, rõ ràng nhất là trong bài Tin Mừng Thứ Tư Lễ Tro, khởi đầu Mùa Chay
Thánh:
“Còn anh, khi bố thí, đừng cho tay trái biết
việc tay phải làm, để việc anh bố thí được kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì bí ẩn, sẽ trả lại cho anh.
“Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào phòng,
đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi bí ẩn. Và
Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì bí ẩn, sẽ trả lại cho anh.”
“Còn anh, khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch,
chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh, Đấng
hiện diện nơi bí ẩn. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì bí ẩn, sẽ trả
lại cho anh.” (Mt 6,1-6.16-18).
Thánh Giuse, người bạn trăm năm khiết tịnh của
Đức Trinh Nữ Maria và là cha nuôi của Chúa Giêsu, cho chúng ta một gương mẫu về
nhân đức và sự thánh thiện. Nơi Ngài câu ngạn ngữ “Hành động lớn hơn lời nói”, hay như ông bà người Việt ta thường
nói: “Lời nói gió bay, gương bày lôi cuốn”,
được áp dụng cách hoàn hảo. Không có lời nào được ghi lại của Thánh Giuse trong
các trình thuật Tin Mừng; tuy nhiên, những hành động của Ngài, khi được xem xét
và suy ngẫm, nói lên những nhân đức mà mọi tín hữu có thể rút ra để thăng tiến
tâm linh của chính họ, nếu họ vẫn cố gắng, dù trong thầm lặng, sống theo cung
cách của Thánh Giuse, nhất là trong mùa chay: bố thí, cầu nguyện và chay tịnh,
vì họ biết rằng: “Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì bí ẩn, sẽ trả lại cho anh”
(Mt 6: 18).
ĐTC Phanxicô trong Tông thư “Patris Corde - Với trái tim của người cha”[1]
đã giải thích những đặc điểm tính cách của Thánh Giuse như một người cha nhân đức
và yêu thương: đón nhận thánh ý Thiên Chúa,
“luôn sẵn sàng thi hành thánh ý
Thiên Chúa như đã được mạc khải trong Lề Luật (x. Lc 2,22.27.39) và trong bốn
giấc mơ (x. Mt 1,20; 2: 13.19.22)”[2]
bày tỏ ơn gọi làm cha của Ngài trong một công cuộc sáng tạo một cách can đảm “Thiên Chúa đã hành động qua thái độ tin tưởng
vào lòng can đảm đầy sáng tạo của Thánh Giuse”[3].
Thánh Giuse thể hiện giá trị và phẩm giá của công việc “là một người thợ mộc làm
việc lương thiện để nuôi sống gia đình. Nơi Thánh Giuse, Chúa Giêsu đã học được
giá trị, phẩm giá và niềm vui của việc ăn miếng bánh là thành quả lao động của
chính mình”[4]
và tự hiến chân thành để phục vụ nhu cầu
của Mẹ Maria và Chúa Giêsu “Phúc Âm
kể lại rằng ngài trỗi dậy, ẵm lấy Hài nhi và cùng với Mẹ Người làm như Thiên
Chúa đã truyền (x. Mt 1,24; 2,14.21)”[5] như
“là hình bóng trần gian của Cha trên
trời” của chúng ta.[6]
Chay tịnh
trong tĩnh lặng.
Chúng ta hãy hình dung, cùng với Mẹ Maria ở hậu
trường, Thánh Giuse là người thầy chuẩn bị cho Chúa Giêsu bước vào sứ vụ công
khai của Ngài với tư cách là Đấng Mêsia được mong đợi từ lâu. Tuy nhiên Mẹ
Maria và Thánh Giuse không được công chúng khen ngợi hay công nhận. Từ khi trở
về từ đền thờ Giêrusalem năm Chúa Giêsu lên mười hai tuổi, các trình thuật Tin
Mừng cho thấy Mẹ Maria và nhất là Thánh Giuse không nói một lời nào, và các
thánh sử Tin Mừng cũng không cho biết Mẹ Maria và Thánh Giuse sinh sống như thế
nào trong những năm sau đó. Người ta có thể suy nghĩ không sai lầm rằng Thánh
gia sinh sống như tất cả các gia đình bình thường khác “Thánh Gia đã phải đối mặt với những vấn đề cụ thể như mọi gia đình khác…”[7]
Riêng về Thánh Giuse, kể từ trình thuật “Khi
thấy con, hai ông bà sửng sốt…Nhưng ông bà không hiểu lời Ngài vừa nói”
(Luca 2: 48-50) các thánh sử không nói gì về Ngài nữa, thậm chí Ngài chết khi
nào, ra sao…cũng không chỗ nào nhắc tới! Phải chăng các thánh sử qua sự im lặng
đó có ý muốn nói rằng Thánh Giuse sống, làm việc, lo liệu mọi nhu cầu vật chất
cụ thể cho vợ con và chuyên cần sống đạo theo lề luật Môsê như bất cứ một người
chồng, người cha Do Thái nào khác vào thời đó?
Sự im lặng ấy có lẽ cho phép chúng ta ngày nay
hiểu ra được sự khác biệt vừa mới mẻ vừa lớn lao so với bất cứ người chồng người
cha nào, mà chỉ Thánh Giuse có được. Đó là Ngài cảm nghiệm và hiểu ra rằng trẻ
Giêsu, vốn là con trai của Ngài theo pháp lý và cũng là người con được thiên sứ,
tức là Thiên Chúa, giao phó cho Ngài, không phải là một con trẻ như mọi trẻ con
khác, mà “là Emmanuel, nghĩa là "Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” (Mt 2:
20-23). Và điều này luôn luôn khiến Ngài suy nghĩ trong trầm mặc, đến độ chiêm
niệm như xuất thần không nói lên lời:
“Này ông Giuse, con cháu Đavít, đừng ngại đón
bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần.
Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ
cứu dân Ngài khỏi tội lỗi của họ” (Mt 1: 20-22).
Con trẻ này được Giuse đặt tên là Giêsu, người
con trai do bà Maria sinh ra: “Ông không phải là con bác thợ sao? Mẹ của
ông không phải là bà Maria sao…?” (Mt 13: 55), nhưng cũng là con “do quyền năng Chúa Thánh Thần…”
Ở đây Thánh Giuse hẳn cảm thấy: “có một
bàn tay mạnh mẽ can thiệp!” (Xuất hành 3: 19). Đó là bàn tay của Thiên
Chúa, Thiên Chúa của Abraham và của các tổ phụ, của các nhà lãnh đạo Môsê và
Giôsuê tràn đầy uy lực của Thiên Chúa, của Vua Đavít hùng mạnh, của các tiên
tri cao cả Isaia, Giêrêmia, Êlia, Êlisa, của bao đời cha ông, của toàn dân
Israel. Bàn tay mạnh mẽ ấy đang sắp đặt lại lịch sử của thế giới, của dân
Israel, thông qua vận mạng của Giuse…! Vốn dĩ vẫn nghĩ mình như bao người đàn
ông Do Thái bình thường thời bấy giờ, và vốn dĩ ân cần lắng nghe Sách thánh nơi
hội đường, đọc sách thánh nơi phòng riêng, suy ngắm lời các tổ phụ và tiên tri
khi lao tác trong xưởng thợ của mình, nay bỗng dưng được Thiên Chúa kêu mời
đóng góp phần mình, thì Giuse còn có thể làm gì hơn là “làm như sứ thần Chúa dạy”
(Mt 1:24)?
Như thế, Thánh Giuse không thi hành sứ mệnh
ngôn sứ qua miệng lưỡi – Ngài là ngôn sứ im lặng thi hành sứ mạng qua bàn tay
phục vụ tận tình và hết sức mau mắn: “Ông Giuse liền trỗi dậy, và đang đêm, đưa
Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai cập” (Mt 2: 14). Thánh Giuse không do
dự vâng phục, không đặt ra những câu hỏi liên quan đến những khó khăn mà Ngài sẽ
phải đương đầu “Trong mọi hoàn cảnh,
Thánh Giuse đều nói lời “fiat” của chính mình, cũng như khi Đức Maria được sứ
thần truyền tin và như Chúa Giêsu trong Vườn Cây Dầu.”[8]
Lời đáp của Thánh Giuse là tức khắc: vâng nghe trong im lặng, khiêm cung tôn thờ
Thánh ý cao vời không thể dò thấu từ Thiên Chúa các đạo binh, của các tổ phụ của
Ngài:
“Thánh!
Thánh! Chí Thánh!
Thiên
Chúa các đạo binh là Đấng Thánh!
Cả mặt đất
rạng ngời vinh quang Chúa! "
Tiếng
tung hô đó làm cho các trụ cửa rung chuyển;
khắp Đền
Thờ khói toả mịt mù. Bấy giờ tôi thốt lên:
"Khốn
thân tôi, tôi chết mất!
Vì tôi
là một người môi miệng ô uế,
tôi ở giữa
một dân môi miệng ô uế,
thế mà mắt
tôi đã thấy Đức Vua là Thiên Chúa các đạo binh!”
(Isaia 6:3-5)
Thánh Giuse hẳn đã từng sửng sốt, kinh ngạc và
hoang mang không ít trước những điều không thuộc phàm nhân, đến độ định
tâm tránh xa nơi Thiên Chúa hành động, vì: “bà Maria… đã có thai do quyền
năng Chúa Thánh Thần.” (Mt 1:18).
Phản ứng “chạy trốn” Thiên Chúa, hoặc “tránh
xa” những điều thánh thiêng là điều tự nhiên của con người vốn tội lỗi:
Ađam thưa với Thiên Chúa: “Con nghe thấy tiếng Ngài trong vườn, con sợ hãi vì con trần truồng, nên con lẩn
trốn” (Stk 3: 10) hoặc:
“Từ giữa
bụi cây Thiên Chúa gọi ông: "Môsê! Môsê! " Ông thưa: "Dạ, tôi
đây!" Ngài phán: “Chớ lại gần! Cởi dép ở chân ra, vì nơi ngươi đang đứng
là đất thánh." Ngài lại phán: "Ta là Thiên Chúa của cha ngươi, Thiên
Chúa của Ábraham, Thiên Chúa của Isaác, Thiên Chúa của Giacóp." Ông Môsê che mặt đi, vì sợ nhìn phải Thiên
Chúa” (Xuất hành 3:5-6).
Sách Xuất hành 33,18-20 còn viết: “Môsê nói: Xin Ngài thương cho con được thấy
vinh quang của Ngài. Chúa phán: Ta sẽ cho tất cả vẻ đẹp của Ta đi qua trước mặt
ngươi, và sẽ xưng danh Ta là Thiên Chúa trước mặt ngươi. Ta sẽ thương ai thì
thương, xót ai thì xót. Ngài phán: Ngươi
sẽ không thể xem thấy tôn nhan Ta, vì con người không thể thấy Ta mà vẫn sống”.
Ông Gióp cũng đã từng khẳng định:
“Quả thật,
tôi biết rõ thế này: Trước nhan Thiên Chúa,
phàm
nhân cho mình là công chính thế nào được?” (Gióp 9,2)
“Phàm
nhân là gì để tự cho mình là thanh sạch,
và đứa
con do người phụ nữ sinh ra là gì,
để tự
cho mình là công chính?
Ngay các
thánh của Ngài, Thiên Chúa còn không tin tưởng,
ngay các
tầng trời, cũng chẳng thanh sạch trước mắt Ngài,
huống
chi con người ghê tởm và hư đốn,
con người
chuyên làm điều gian ác như uống nước lã?”
(Gióp
15,14-16)
“Trước
nhan Thiên Chúa
phàm
nhân cho mình là công chính thế nào được,
và đứa
con do người phụ nữ sinh ra
làm sao
dám coi mình là thanh sạch?
Này, trước mắt Thiên Chúa, ngay cả ánh trăng cũng lu mờ
và tinh tú cũng không thanh sạch,
thì phương chi người phàm chẳng qua là giòi bọ
và con người, cũng chỉ thuộc loại sâu.”
(Gióp 25,4-6).
Thánh Giuse hẳn cũng thuộc câu của Ông Môsê
nói với dân Israel trong sách Đệ nhị luật rằng: “Có dân nào đã được nghe tiếng
Thiên Chúa phán từ trong đám lửa như anh em đã nghe, mà vẫn còn sống không? Hoặc có thần nào đã ra công đi chọn lấy cho mình một dân tộc từ giữa một dân
tộc khác, đã dùng bao thử thách, dấu lạ, điềm thiêng và chinh chiến, đã dang cánh tay mạnh mẽ uy quyền, gây
kinh hồn táng đởm, như Thiên Chúa của anh em, đã làm cho anh em tại Aicập, trước
mắt anh em không?” (Đnl 4:32-34),
hoặc lời Thánh vịnh 2:
“Con sẽ dùng trượng sắt đập chúng tan tành,
nghiền nát chúng như đồ sành đồ gốm.
Vậy giờ
đây, hỡi các vua chúa, hãy biết điều,
thủ lãnh
trần gian, nào tỉnh ngộ!
Đem lòng
kính sợ mà phụng thờ Thiên Chúa,
hãy khiếp run phủ phục dưới chân Người!
Kẻo Chúa nổi lôi đình là các ngươi mạt lộ,
lửa giận của Người giây lát sẽ bừng lên!”
(Tv 2:9-12).
Nhưng Thiên Chúa lại ghé mắt nhìn đến người
công chính:
“Hỡi những người công chính,
hãy vui lên trong Chúa, hãy nhảy mừng.
Mọi tâm hồn ngay thẳng, nào cất tiếng hò reo”
(Tv 32:11)
Thánh Giuse được coi “là người công chính” (Mt
1: 19), chứ không phải kẻ tội lỗi, nên Thiên Chúa sai “sứ thần Chúa hiện đến” chặn
đứng
“toan tính” của Ngài và “báo mộng cho ông rằng: "Này ông
Giuse, con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về”, là người mà
Giuse
“không muốn tố giác, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo.” Sứ thần Chúa
còn giải thích và khích lệ Giuse: “Vì người con bà cưu mang là do quyền năng
Chúa Thánh Thần… để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ”
(Mt 1: 18-25).
Hơn nữa, đời sống của trẻ Giêsu trong gia
đình Nadarét đã phản ánh dung mạo của Thiên Chúa và mang đậm dấu ấn của
Thánh Thần Thiên Chúa. Lẽ nào Thánh Giuse, ngay cả chỉ với nghĩ suy bình thường
như mọi người đàn ông khác, lại không nhận ra điều lạ lùng nhưng rất đỗi hiển
nhiên đó trong gia đình của mình?
Chắc chắn thánh Giuse vẫn cần phải nói năng
trao đổi với bà con hàng xóm, với khách hàng nghề mộc của Ngài, với các rábbi
nơi hội đường làng Nadarét, và nhất là với Mẹ Maria. Tuy nhiên sự im lặng của
Thánh Giuse là một sự thinh lặng nội tâm, sự thinh lặng của một cung thánh, nơi
chỉ những ai đã chứng kiến và cảm nếm được quyền uy vô cùng của Thiên Chúa vốn
khiến họ cảm thấy mình như tan biến đi hết để bước vào một cõi tĩnh lặng sâu thẳm,
bước vào tận cung lòng Thiên Chúa.
Chính Thánh Giuse cảm thấy khao khát thinh lặng
để có thể luôn nhận ra, luôn thấy được
sự hiện diện của Thiên Chúa và sống dưới cái
nhìn của Ngài, vốn mời gọi mọi người dìm mình vào trong sự sống viên
mãn của Thiên Chúa, sống trong bầu khí của Thiên Chúa, trong Cảnh Vực Thần Linh!
Ở nơi Thánh Giuse, lời nói đã được hoàn toàn
kiềm chế, dành chỗ cho sự hiệp thông với Thiên Chúa, trong tĩnh lặng sâu xa của
đáy lòng, để chiêm ngắm các công trình mầu nhiệm của Thiên Chúa. Đó chính là mục
đích tối thượng của mọi hành vi chay tịnh.
Vả lại, những người cha và người mẹ thường thực
hiện vô số những hành động yêu thương và vô số những hy sinh không được công nhận
mà chỉ Cha trên trời của chúng ta mới nhìn thấy, công nhận và ban thưởng? Tất cả
chúng ta đều có thể khám phá ra nơi Thánh Giuse một con người đi qua mà chẳng
được nhận ra, con người của sự hiện diện hằng ngày, kín đáo và âm thầm, một người
biện hộ, một người nâng đỡ và một người hướng dẫn trong những lúc khó khăn. Đây
là sự hy sinh, là “chay tịnh” trong Mùa Chay: hy sinh từ bỏ sự công nhận, cho
đi mà không tính đến công sức hoặc nhận lại một điều gì đó như sự trả ơn xứng
đáng.
Chúng ta sẵn sàng đón nhận tất cả những điều
này trong cuộc sống của mình trong tinh thần Mùa Chay chưa?
Chính trong những năm ẩn dật lặng im tại
Nadarét mà Chúa Giêsu, về nhân tính, đã học được ở trường thánh Giuse bài học
căn bản và quan trọng nhất, đó là làm theo Thánh ý của Thiên Chúa Cha, đến nỗi
Thánh Ý đó trở nên lương thực hàng ngày của Ngài: “Chúa Giêsu nói với các môn đệ:
“Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của
Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Ngài.” (Gioan 4:34).
Cho đi
– Từ bỏ chính mình.
Hãy tưởng tượng cách Thánh Giuse lao động hết
ngày này qua ngày khác bằng nghề thợ mộc, kiếm sống để lo cho các nhu cầu của
Thánh Gia và để Mẹ Maria ở nhà chăm sóc cho con trai của các Ngài là Chúa
Giêsu. Không còn nghi ngờ gì nữa, các Ngài chắc hẳn đã trao đổi về việc phải
làm thế nào để đáp ứng nhu cầu của gia đình và cũng góp phần vào các nguồn từ
thiện. Đây là sự “bố thí” không được công nhận mà người ta cảm thấy khi phải từ
bỏ những nhu cầu và sở thích của chính mình nhằm chu cấp không chỉ tiền bạc mà
còn công việc và sức lực cho người khác. Việc bố thí này, vốn thực chất là sự từ bỏ
con người ích kỷ của mình, đặc biệt được kêu mời thực hiện trong Mùa
Chay. Thánh Giuse đã cho đi hết, tận căn, con người của mình, để chỉ
còn “liền
trỗi dậy, và đang đêm… làm như sứ thần Chúa dạy” (Mt 1: 14,
24) trong tin tưởng, phó thác, cậy trông và vâng theo Lời Thiên Chúa.
Trong Lễ trọng kính Thánh Giuse, bạn trăm năm
Mẹ Maria, Giáo hội đã sử dụng thư Rôma nói về tổ phụ Abraham để nói về Thánh
Giuse, ví Ngài như tổ phụ Abraham: “Mặc dầu
không còn gì để trông cậy, ông vẫn trông cậy và vững tin, do đó ông đã trở
thành tổ phụ nhiều dân tộc, như lời Thiên Chúa phán: Dòng dõi ngươi sẽ đông đảo
như thế… Bởi thế, ông được kể là người công chính” (Rôma 4: 18,22). Abraham
đã tin kính Thiên Chúa hết lòng như thế nào, thì Thánh Giuse cũng một lòng kính
tin như vậy:“Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà”
(Mt 1: 24).
“Thánh
Giuse đã chấp nhận Đức Maria một cách vô điều kiện. Ngài tin vào lời sứ thần đã
nói. “Sự cao thượng của tâm hồn Thánh Giuse là ở chỗ những gì ngài học được
từ lề luật thì ngài đã sống theo tình bác ái. Ngày nay, trong thế giới của
chúng ta, nơi mà bạo lực tinh thần, ngôn từ và thân xác đối với phụ nữ đã quá
rõ ràng, thì Thánh Giuse trở thành hình ảnh của một người đàn ông biết tôn trọng
và tinh tế. Mặc dù không hiểu rõ mọi chuyện, nhưng ngài vẫn quyết định bảo vệ
danh thơm tiếng tốt, phẩm giá và cuộc sống của Mẹ Maria. Khi ngài còn do dự
không biết nên làm gì, Thiên Chúa đã soi sáng để giúp ngài quyết định”.
“Trong cuộc sống, vẫn có những điều xảy ra mà
chúng ta không hiểu được ý nghĩa. Phản ứng đầu tiên của chúng ta thường là thất
vọng và nổi loạn. Thánh Giuse đã gạt bỏ ý riêng của mình để chấp nhận các sự kiện
xảy đến và, dù các sự kiện ấy xem ra gây hoang mang, ngài vẫn đón nhận, nhận
trách nhiệm và biến chúng thành một phần lịch sử của chính mình. Nếu chúng ta
không hòa hợp với lịch sử của chính mình, chúng ta sẽ không thể đi tiếp, vì
chúng ta sẽ luôn là con tin cho những kỳ vọng và những thất vọng theo sau.”
“Con đường
thiêng liêng mà Thánh Giuse vạch ra cho chúng ta không phải là con đường giải
thích, mà là con đường chấp nhận. Chỉ khi nào biết chấp nhận và giao hoà như thế,
chúng ta mới có thể bắt đầu nhìn thấy một lịch sử bao quát hơn, một ý nghĩa sâu
sắc hơn.”[9]
Tinh thần
cầu nguyện
Hãy tưởng tượng gánh nặng của những hoàn cảnh
không thể vượt qua và những khó khăn mà Thánh Gia phải gánh chịu, và sự trông cậy
của Thánh Cả Giuse vào Thiên Chúa qua lời cầu nguyện tin cậy cho phép thánh
nhân luôn trung thành với sự kêu gọi của Thiên Chúa và sự thúc đẩy của Chúa
Thánh Thần. Nhiều cảm nghiệm tưởng như vô vọng mà Thánh Giuse đã thành tâm chịu
đựng và kiên nhẫn vượt qua, nhờ ân sủng và sự trợ giúp của Thiên Chúa, là “lời
cầu nguyện” của tinh thần Mùa Chay mà Thánh Giuse làm gương cho tất cả chúng ta
khi chúng ta mở lòng với Thiên Chúa trong Mùa Chay để nhận ra và đón nhận nhiều
hơn tình yêu của Ngài. Chỉ trong tinh thần
cầu nguyện lặng lẽ thẳm sâu như vậy, đến độ cuộc đời mình đã trở nên một với lời
mình cầu nguyện, từng hơi thở là từng nhịp cầu nguyện, liên lỉ chiêm niệm và kết
hiệp với thánh ý Thiên Chúa, mà Thánh Giuse trở thành nguyên mẫu tuyệt diệu cho
bất cứ ai muốn sống đời cầu nguyện kết hợp với Thiên Chúa mọi nơi mọi lúc.
Theo Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo, “Cầu nguyện chiêm niệm là cách diễn tả đơn giản
mầu nhiệm cầu nguyện. Đó là một cái nhìn của đức tin chăm chú vào Chúa Giêsu, một
sự chăm chú vào Lời Chúa, một tình yêu thầm lặng. Cầu nguyện chiêm niệm đạt được
sự kết hợp thực sự với lời cầu nguyện của Chúa Kitô đến mức khiến chúng ta
thông phần vào mầu nhiệm của Ngài”.[10]
Định nghĩa trên đã tóm tắt hoàn hảo cuộc đời của
Thánh Giuse, người có cái nhìn của đức tin chăm chú vào Chúa Giêsu, một sự chăm chú
vào Lời Chúa, một tình yêu thầm lặng đến mức đã khiến Thánh Giuse thông phần vào
mầu nhiệm của Chúa Giêsu?
“Sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giuse
rằng: "Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Ngài trốn sang Aicập, và cứ ở đó cho
đến khi tôi báo lại, vì vua Hêrôđê sắp tìm giết Hài Nhi đấy! "Ông Giuse liền
trỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Ngài trốn sang Ai cập. Ông ở đó cho đến
khi vua Hêrôđê băng hà, để ứng nghiệm lời Chúa phán xưa qua miệng ngôn sứ: Ta
đã gọi con Ta ra khỏi Ai cập.” (Mt 2: 13-15).
Ngay cả trong nỗi sợ hãi như vậy, thánh Giuse
vẫn nhanh chóng để cho thánh ý và kế hoạch mầu nhiệm của Thiên Chúa một vị trí
hành động có hiệu quả. Qua đó Thánh Giuse trao cho chúng ta một bài học rằng đức
tin vào Thiên Chúa bao gồm việc tin rằng Ngài có thể tác động đầy hiệu quả ngay
cả khi chúng ta sợ hãi, kém cỏi và yếu đuối “Ý Chúa, lịch sử và kế hoạch của Ngài vẫn hoạt động, ngay cả qua nỗi sợ
hãi của Thánh Giuse. Vì thế, Thánh Giuse dạy chúng ta rằng đức tin vào Thiên
Chúa cũng là tin rằng Ngài có thể hành động cả khi chúng ta sợ hãi, mỏng manh
và yếu đuối. Ngài cũng dạy chúng ta rằng giữa những thử thách của cuộc đời,
chúng ta đừng bao giờ sợ để Chúa dẫn lối cho chúng ta. Đôi khi, chúng ta muốn
kiểm soát mọi sự, nhưng Thiên Chúa luôn nhìn thấy bức tranh toàn cảnh hơn”[11].
Cùng với ĐTC Phanxicô chúng ta dâng lên Thánh
Giuse lời cầu nguyện này:
[1] Ngày 8/12/2020, nhân kỷ niệm 150 năm Đức Giáo
hoàng Pius IX chọn thánh Giuse làm Đấng Bảo trợ Giáo hội Công giáo, Đức Thánh
Cha Phanxicô đã ban hành Tông thư “Patris
corde” – Với trái tim của người Cha
– và công bố “Năm đặc biệt về thánh Giuse” từ ngày 8/12/2020 đến ngày
8/12/2021.
[12] Phần kết thúc Tông thư Patris Corde – Với trái
tim của người cha.