THÁNH GIOAN
XXIII VÀ THÁNH GIOAN PHAOLÔ II:
CUỘC ĐỜI
VÀ SỨ ĐIỆP
Thành Thi
WHĐ (30.04.2023) - Ngày 5.7.2013, tại Rôma, linh mục Lombardi, phát ngôn viên Tòa
Thánh công bố với báo chí: Đức Giáo hoàng Phanxicô đã phê chuẩn đệ trình của Bộ
Phong thánh về việc công nhận phép lạ thứ hai do lời bầu cử của Chân phước
Gioan Phaolô II. Phép lạ này đã xảy ra với bà Floribeth Mora Diaz, người Costa
Rica, được chữa khỏi bệnh bướu não vào năm 2011. Phép lạ thứ nhất do Đức Gioan
Phaolô II bầu cử đã được Chúa ban cho nữ tu người Pháp Marie Simon Pierre
Normand bị bệnh Parkinson.
Ngày
30.9.2013, Đức Thánh Cha Phanxicô chủ tọa Công nghị Hồng y tại Vatican.
Trong Công nghị, Đức Thánh Cha quyết định tuyên thánh cho hai vị chân phước
giáo hoàng Gioan XXIII và Gioan Phaolô II. Lễ tôn phong Hiển thánh được cử
hành vào ngày 27 tháng Tư năm 2014, tức Chúa Nhật II Phục sinh, lễ kính Lòng
Chúa Thương Xót.
Và từ ngày đó, Giáo Hội có thêm hai vị hiển thánh.
Cả
hai đều là giáo hoàng.
Cả
hai đều là thánh nhân của thế kỷ XX.
Cả
hai đều làm chứng cho Tin Mừng Tình yêu và Hòa bình, Mở cửa và Đối thoại.
Những
chứng từ của hai vị đều được xác nhận bởi những người đương thời và đến nay vẫn
nguyên vẹn mới. Như vừa xảy ra hôm qua. Sống động và gần gũi.
Nếu
Đức Gioan XXIII là người có sáng kiến triệu tập, đích thân khai mạc và chủ tọa
Công đồng, rồi sau đó không lâu, đã giã biệt mọi người về trời, thì Gioan
Phaolô II là người tham dự Công đồng, tiếp tục ở lại trần gian nửa thế kỷ nữa
và thực thi những dự phóng và dự báo của Công đồng.
Nếu
Đức Gioan XXIII được người Ý gọi là Papa
buono – Người cha nhân hậu, thì Đức Gioan Phaolô II là người của Spirito di Assisi – Tinh thần Assisi,
hay Messaggero di pace – Sứ giả hòa
bình.
Như
vậy cả hai đều phản chiếu gương mặt của Đức Giêsu, Đấng Mục tử nhân hậu và ban
bình an.
Mừng
hai hiển thánh – Gioan XXIII và Gioan Phaolô II – là đón mừng và tiếp tục
cuộc hành trình của hai đấng thánh, hai ánh quang nhân hậu và an hòa tỏa chiếu
từ Trái tim giàu lòng Thương xót của Chúa Giêsu, vị mục tử tốt lành.
|
I. THÁNH GIOAN XXIII, GIÁO HOÀNG (1881–1963)
1. Thời Thơ Ấu
Thánh
giáo hoàng Gioan XXII, tên khai sinh là Angelo Giuseppe Roncalli, sinh ngày
25.11.1881, tại Sotto il Monte, thuộc giáo phận Bergamo, nước Ý. Ngài là người
con thứ 4 và là trưởng nam trong một gia đình có 13 người con. Cha ngài là ông
Giovanni Battista Roncalli (1854–1935), và mẹ là bà Marianna Mazzola
(1855–1939). Gia đình ngài sống bằng nghề nông. Nhà đông con, cuộc sống thiếu
trước hụt sau, nhưng cha mẹ ngài nổi tiếng tốt bụng, luôn sẵn lòng giúp đỡ mọi
người.
Thánh
nhân kể lại:
“Tuy nghèo,
nhưng mỗi khi có người ăn xin đến trước cửa, dù trong bếp đã có đến hơn chục đứa
trẻ háu ăn đang chờ dĩa súp, bao giờ mẹ tôi cũng tìm được chỗ cho người hành khất
và mau mắn mời người lạ ngồi vào bàn, cùng dùng bữa với gia đình”.
Đại
gia đình Roncalli gồm hai chi tộc anh em sống quây quần bên nhau tại vùng nông
thôn Bergamo. Bõ đỡ đầu của Angelo Roncalli (tức thánh Gioan XXIII) là ông
Zaverio, ông chú (em ruột của ông nội) là người đã xây dựng nền móng và chăm
sóc đời sống đức Tin của thánh nhân lúc thiếu thời. Bàu khí sống đức Tin,
chuyên chăm cầu nguyện và bác ái của gia đình Roncalli và giáo xứ Sotto il
Monte, dưới sự hướng dẫn của cha xứ Francesco Rebuzzini, đã góp phần rất lớn
vào nếp sống đạo của Angelo Roncalli.
Nhà
báo Mark Duff của đài BBC gặp cô Elena Roncalli (sinh năm 1993) là cháu đời thứ
sáu, gọi cố giáo hoàng Gioan XXIII là cụ cố. Elena kể lại, các thế hệ con cháu
nhà Roncalli vẫn được nghe các bậc cha ông trong gia đình kể những câu chuyện về
cụ cố Angelo Giuseppe (tức Đức giáo hoàng Gioan XXIII) là một người sống nghèo
khó và giản dị, trở thành mẫu gương đời sống cho mọi người trong dòng họ.
Thánh
Gioan XXIII không bao giờ quên mình xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo khổ
và luôn tạ ơn Chúa, bởi đó là hồng ân được tập sống khó nghèo dưới sự hướng dẫn
của cha mẹ. Về sau, vào tháng 3 năm 1959, lúc tiếp Hội nghị Phụ nữ Ý, ngài hồi
tưởng về gia đình:
“Ngay khi vừa biết tin tôi
được Chúa chọn và trao sứ vụ lãnh đạo Giáo Hội, nhiều người ta nói đến cảnh nghèo của gia đình tôi, quả thật, tôi rất cảm động khi
nghe nhắc đến điều này và hết lòng tạ ơn Chúa! Phải, phần lớn cũng nhờ gia đình
mà tôi đã được Chúa gọi làm linh mục, giám mục rồi giáo hoàng... Gia đình tôi
không phải quá nghèo như người ta vẫn thường nói, nhưng trên tất cả mọi ơn Chúa
ban, thì kho tàng lớn nhất là gương sáng của cha mẹ và bàu khí tốt lành, đơn sơ
và ngay thẳng trong gia đình tôi được hấp thụ từ hồi thơ ấu”.
2. Linh Mục Roncalli
Năm
1904, thầy Roncalli chịu chức linh mục ngày 10–8 và dâng lễ mở tay vào lễ Đức Mẹ
lên trời.
Năm
sau ngài đỗ tiến sĩ thần học và làm thư ký cho Giám mục địa phận Bergamo đến
năm 1914 (trong gần 10 năm). Ngoài công việc thư ký tại tòa giám mục, cha
Roncalli còn làm giáo sư đại chủng viện và điều khiển phong trào Công giáo tiến
hành của giáo phận.
Tháng
4 năm 1915, nước Ý tuyên chiến với Đức trong Chiến tranh thế giới thứ nhất,
linh mục Roncalli nhận bài sai làm tuyên úy quân đội. Về sau ngài nói về công
việc tuyên úy quân đội:
“Chiến tranh đã cho tôi một
dịp để đến gần các tâm hồn hơn, và để tìm ra những con đường tốt nhất đi vào
lòng người. Qua kinh nghiệm này, tôi trở nên tốt hơn, sẵn sàng hơn để cảm
thương lỗi lầm của kẻ khác, biết quên mình và quên cả những gì có thể tạo danh
giá hay vinh dự cho mình ở đời này”.
Năm
1920, Đức giáo hoàng Bênêđictô XV gọi ngài về làm việc ở Bộ Truyền giáo
(1920–1925).
3. Giám Mục Roncalli
Được tấn phong Giám mục
Ngày
19.3.1925, ngài được tấn phong Tổng giám mục hiệu tòa Areopolis, phụ trách công
cuộc truyền giáo tại Bulgaria.
Khâm sứ Tòa thánh tại
Bulgaria (1931–1934)
Năm
1931, Đức giáo hoàng Piô XI bổ nhiệm ngài làm Khâm sứ Tòa Thánh tại Bulgaria.
Đây là một nhiệm vụ hết sức khó khăn, vì đã hơn 1.000 năm giữa Roma và Bulgaria
không có liên lạc về ngoại giao và số tín hữu Công giáo chỉ chiếm 1% dân số.
Trong
thời gian thi hành sứ vụ tại Bulgaria, ngài không lùi bước trước bất kỳ khó
khăn nào. Ngài thăm viếng các công đoàn tín hữu ở tận những nơi hẻo lánh và khó
khăn nhất. Ngài dốc sức xây dựng nền móng cho Giáo Hội tại Bulgaria và mở đầu
cho những mối liên lạc với anh em Chính thống giáo.
Khâm sứ Tòa thánh tại Thổ
Nhĩ Kỳ và Hy Lạp (1934–1944)
Ngày
30.11.1934, ngài được bổ nhiệm làm Khâm sứ Tòa Thánh tại Thổ Nhĩ Kỳ và Hy Lạp.
Số tín hữu tại hai quốc gia này rất ít: Hy Lạp 0,8% và Thổ Nhĩ Kỳ 0,66% dân số.
Tình hình ở Thổ Nhĩ Kỳ rất căng thẳng, chính quyền không che giấu thái độ chống
Giáo Hội Công giáo. Vì thế lúc đầu Roncalli phải hoạt động rất kín đáo. Nhưng dần
dần nhờ cách xử sự mềm mỏng, tế nhị của ngài, chính phủ Ankara tuy vẫn còn tinh
thần bài tôn giáo, nhưng đã tỏ rõ sự nể trọng đối với Đức Khâm sứ Roncalli.
Trong thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ hai, Đức Tổng giám mục Roncalli ở trong
một tình trạng khó xử: phe nào cũng muốn ngài lên án đối thủ. Nhưng ngài luôn
trung thành với sứ mạng thiêng liêng của mình. Ngoài ra, ngài xin Tòa Thánh viện
trợ cho hàng vạn trẻ Hy Lạp chết vì thiếu ăn. Ngài đến các trại giam an ủi tù
binh và tổ chức chuyển tin tức về cho gia đình họ.
Sứ thần Tòa Thánh tại
Paris (1944–1953)
Tháng
12 năm 1944, Đức Tổng giám mục Roncalli được Đức giáo hoàng Piô XII bổ nhiệm
làm Sứ thần Tòa Thánh tại Paris. Ngài đã đảm nhận sứ mạng này trong gần 10 năm,
từ 1944 đến 1953, với cung cách mềm mỏng và chân thành nhằm giải quyết những
khó khăn, phức tạp về chính trị và về ngoại giao giữa Tòa Thánh, Hội đồng giám
mục Pháp và chính phủ Pháp.
André
Latreille, vụ trưởng Vụ Tôn giáo thuộc Bộ Nội vụ Pháp, nhận định về Đức Sứ thần
Tòa Thánh Roncalli sau những lần gặp gỡ:
“Khi biết tôi có 10 đứa
con, Đức sứ thần Roncalli liền tỏ rõ sự quan tâm và coi tôi là một người nghiêm
túc... Nhờ tính lạc quan, khéo léo và nhẫn nại, ngài đã góp một phần lớn trong
việc tái lập quan hệ ngoại giao mà sáu tháng trước đây không thể hình dung”.
Còn
Đức Tổng giám mục Roncalli thì chia sẻ:
“Tôi cứ bình thản, làm
xong một việc rồi chuẩn bị làm tiếp việc sau. Tôi hoạt động, nói năng, luôn nhẫn
nại chờ đợi trong im lặng, và luôn làm sáng lên tinh thần trong sáng, hiền hòa
và vui tươi trước những gì đang diễn ra... Không biết do đâu, có lẽ thời gian 20
năm sống ở Đông phương đã giúp tôi nhanh lẹ hơn, tinh tường hơn trước những mưu
chước của phương Tây”.
Đức
Roncalli rất ít khi tuyên bố lập trường, nhưng thích được gặp gỡ, trò chuyện
cùng mọi người, từ giới trí thức đến những người bình dân, để lắng nghe và học
hỏi.
Nhận mũ hồng y và được bổ
nhiệm thượng phụ giáo chủ Venezia
Ngày
12.1.1953, tại Công nghị Hồng y, ngài được Đức Piô XII vinh thăng hồng y. Ba
ngày sau, 15.1.1953, Đức Piô XII bổ nhiệm ngài làm thượng phụ giáo chủ Venezia.
Phát
biểu trong lễ nhậm chức, ngài nói:
“Tôi xuất thân từ giới
bình dân. Cha mẹ tôi là người nghèo. Chúa đã đưa tôi ra khỏi xóm làng quê
hương, cho tôi chung đường và kề vai sát cánh với những người có tín ngưỡng
khác nhau. Bây giờ cũng vậy, tôi không quan tâm đến những gì gây chia rẽ mà chỉ
quan tâm đến những gì gây tình đoàn kết. Xin anh chị em hãy coi tôi như một tôi
tớ Chúa...
Bất luận tôi đi đâu, nếu
ban đêm có người nào lỡ đường trước cửa nhà tôi, sẽ thấy cửa sổ tôi luôn có ngọn
đèn sáng. Xin đừng ngại, cứ hãy gõ cửa. Tôi sẽ không hỏi anh em là Công giáo
hay không? Mời người anh em vào, sẽ có đôi tay thân ái đón tiếp và tấm lòng bạn
hữu chào mời”.
Từ
đó, cứ vào sáng sớm, người ta thường gặp ngài tản bộ trên đường phố còn thưa vắng,
ghé thăm dân lao động: anh bán tranh, anh hầu bàn quán cà phê, bắt tay người
gác cửa khách sạn, hỏi han bà bán rau và cô hàng hoa. Còn buổi tối, ngài xuống
bến đò trò chuyện với dân chài, người lái đò gondola.
4. Giáo Hoàng Gioan XXIII
Mật nghị Hồng y
Ngày
9.10.1958, Đức giáo hoàng Piô XII qua đời. Ngày 25.10.1958, các hồng y họp Mật
tuyển viện bầu giáo hoàng mới.
Trước
khi khai mạc Mật tuyển viện, ai cũng để ý tới tên tuổi Đức Tổng giám mục
Giovanni Battista Montini, Tổng giáo phận Milan, dù lúc đó ngài chưa phải là hồng
y. Đức TGM Montini (sau này sẽ là Đức giáo hoàng Phaolô VI) lúc đó là một nhân
vật lừng lẫy và dư luận đoán sẽ được Mật tuyển viện bầu làm giáo hoàng.
Nhưng
sau 4 ngày họp Mật tuyển viện, các hồng y đã chọn Đức thượng phụ giáo chủ thành
Venezia: Hồng y Angelo Roncalli.
Ngày
28 tháng 10 năm 1958, hồng y Angelo Roncalli trở thành vị giáo hoàng thứ 261 của
Giáo Hội Công giáo. Lúc đó ngài đã 77 tuổi. Xuất hiện tại bao lơn Đền thờ thánh
Phêrô, Đức tân giáo hoàng với nét mặt phúc hậu, dễ mến, mỉm cười chào mọi người
và nói: “Hãy gọi tôi là Gioan!”.
Chỉ
vài tháng sau, báo chí sớm nhận xét về vị tân giáo hoàng, sau khi chứng kiến những
hoạt động xã hội, bác ái của ngài:
“Chưa có ai
trong chức vụ giáo chủ mà ung dung đến thế. Người ta yêu mến vị giáo chủ đã làm
cho nội dung Tin Mừng của đạo, vốn bấy lâu nay được bao bọc trong bầu khí tôn
nghiêm đền thánh, bỗng trở nên hồn nhiên và hiện thực. Vì xét cho cùng, đó cũng
là cung cách của Chúa Giêsu tìm đến với mọi người, Đức Giêsu của hoa đồng cỏ nội,
của thiếu nhi và người nghèo, của Thập giá và Nước Trời...” (Linh mục
Casalis, báo Osservatore Romano).
“Đứng trước
ngài, ai ai cũng đều cảm nhận ngài có một nét độc đáo. Đó là sự độc đáo của một
nhân cách khiêm tốn và bao dung, phản ánh cả một nếp sinh hoạt nội tâm phong
phú và sâu xa. Một cụ già với trái tim yêu thương nhân loại thắm thiết, vị giáo
hoàng với tình phụ tử nồng nàn, khiến ai nấy khi trò chuyện cùng ngài cũng đều
kính trọng và ngưỡng mộ...” (Robert T. Elson, báo Life).
Triệu tập, khai mạc và chủ
tọa Công đồng Vatican II
Dưới
triều đại giáo hoàng Gioan XXIII, một biến cố rất lớn và có tầm ảnh hưởng quan
trọng trong lịch sử Giáo Hội, đó là việc triệu tập Cộng đồng Vatican II, đưa
Giáo Hội nhập cuộc thế giới ngày nay.
Những cột mốc Công đồng
Vatican II dưới thời Đức Gioan XXIII
-
25.1.1959: Đức Gioan XXIII loan báo
triệu tập công đồng.
- 17.5.1959: Thành lập Ủy ban tiền chuẩn
bị.
- 18.6.1959: Gởi bản thăm dò ý kiến về
công đồng cho các giám mục trên toàn thế giới.
- 5.6.1960: Thành lập các Ủy ban chuẩn
bị công đồng.
- 25.12.1961: Công bố Tông hiến Humanae Salutis về việc triệu tập công đồng.
- 11.9.1962: Đức Gioan XXIII ngỏ lời với
toàn thế giới qua thông điệp truyền thanh Ecclesia
Christi, lumen gentium.
- 11.10.1962: Đức Gioan XXIII khai mạc công
đồng, gần 2500 giám mục, bề trên các dòng tu tham dự.
- 13.10.1962: Đức Hồng y Liénart yêu cầu
và được chấp thuận là việc bầu thành viên các ủy ban của công đồng được lùi lại
vài ngày.
- 22.10.1962: Văn phòng Hiệp nhất các
Kitô hữu được trở thành một ủy ban của công đồng.
- 14.11.1962: Lược đồ về phụng vụ được
chấp nhận về nguyên tắc.
- 20.11.1962: Lược đồ về Mạc khải De Fontibus Revelationis không vượt qua
được cuộc bỏ phiếu chấp thuận.
- 21.11.1962: Theo quyết định của Đức
giáo hoàng, lược đồ De Fontibus
Revelationis được chuyển tới một ủy ban hỗn hợp, gồm Ủy ban Giáo lý và Văn
phòng Hiệp nhất, để soạn thảo lại.
- 6.12.1962: Thành lập Ủy ban điều phối
có nhiệm vụ theo dõi công việc giữa hai khóa họp.
- 8.12.1962: Đức Gioan XXIII kết thúc
khóa họp đầu tiên.
Tháng 2/1963: Ủy ban điều phối giảm số
lược đồ từ 70 xuống 17.
- 11.4.1963: Đức Gioan XXIII công bố
Thông điệp Pacem in Terris (Hòa bình
trên Trái đất).
-
3.6.1963: Đức Gioan XXIII từ trần.
“Pacem in Terris” – Di
chúc thiêng liêng gửi lại Giáo Hội:
Đức
Giáo hoàng Gioan XXIII đặc biệt khích lệ các tín hữu hãy dành mọi ưu tiên dấn
thân phục vụ xã hội. Với thông điệp Pacem
in Terris, ngài đã góp phần làm phong phú Học thuyết Xã hội của Giáo Hội, đặt
nền móng giáo thuyết cho việc kiến tạo hòa bình.
Thông
điệp được công bố ngày 11 tháng 4 năm 1963.
Pacem
in Terris là tâm huyết và giáo huấn của Đức Gioan XXIII gửi đến mọi người thiện
chí, nhấn mạnh đến nhân quyền, chống mọi hình thức kỳ thị và đặc quyền đặc lợi,
lên án chủ trương sử dụng chiến tranh.
Trên
giường bệnh, ngài duyệt lại lần cuối cùng bản văn sứ điệp. Pacem in terris đã trở thành di chúc thiêng liêng của ngài gửi lại
cho Giáo Hội và thế giới.
Con người phải được quyền
tôn thờ Thiên Chúa
“Trong
các quyền lợi của con người, phải kể cả quyền được tôn thờ Thiên Chúa theo mệnh
lệnh của lương tâm, và được tuyên xưng tôn giáo của mình trong đời sống tư
nhân, cũng như trong đời sống công khai. Lactanxiô ngày xưa đã xác định: “Sở dĩ
Chúa cho chúng ta sống là để chúng ta dâng lên Ngài, là Đấng Sáng Tạo, lòng tôn
sùng chính đáng, chúng ta chỉ nhìn nhận, tuân theo một mình Ngài. Cái tình hiếu
thảo này ràng buộc chúng ta với Thiên Chúa, và chính vì thế mới có tôn giáo”. Đức
Lêo XIII, vị Tiền nhiệm còn lưu danh, cũng đã quả quyết: “Chính cái quyền tự do
chân chính, xứng đáng với địa vị con cái Thiên Chúa và bảo toàn nhân vị, nó
hùng mạnh hơn cả bạo lực, và những hành động bất công: Giáo Hội vẫn cầu mong tự
do, vẫn coi tự do như một báu vật yêu quí hơn cả. Từ ngàn xưa, các thánh tông đồ
vẫn đòi quyền tự do này, các nhà hộ giáo vẫn đề cao trong sách vở, và từng ức vạn
các thánh Tử đạo, đã lấy xương máu để minh chứng” (Pacem in terris, số 14)
Những quyền dân sự của con
người
“Gắn
với phẩm giá con người, là quyền được tham dự một cách tích cực vào đời sống
công cộng và góp phần cá nhân vào thiện ích chung. Vị tiền nhiệm của tôi, Đức
Piô XII đã giải thích: “Về bản chất, con người không phải là một đối tượng, hay
một yếu tố thụ động trong đời sống xã hội; trái lại, nó phải là chủ nhân, là nền
tảng, là cứu cánh”.
Phẩm
giá con người còn có quyền đòi pháp luật bảo vệ những quyền lợi riêng của mình,
bảo vệ một cách hữu hiệu, hết mọi người bằng nhau, và chiếu theo những nguyên tắc
công bình. Đức Piô XII đã tuyên bố: “Do trật tự pháp lý mà Thiên Chúa đã quy định,
con người được hưởng một quyền lợi đặc biệt và vĩnh viễn, do đó mỗi cá nhân được
bảo đảm an ninh, và được cả một khu vực quyền lợi có pháp luật bảo vệ cho khỏi
bị người khác lấn áp, vi phạm” (Pacem in
Terris, số 26–27).
5. Chân Phước Gioan XXIII
Ngày
3.9.2000, tại Rôma, hơn 100 ngàn tín hữu đến từ nhiều nước trên thế giới tham dự
thánh lễ Phong chân phước của 5 vị tôi tớ Chúa: Pio IX (1792–1878) – Gioan
XXIII (1881– 1963) – Tommaso Reggio (1818–1901) – Giuse Chaminade (1761–1850) –
Columba Marmion (1858–1923).
Đức
giáo hoàng Gioan Phaolô II đã chủ sự thánh lễ đồng tế tôn phong các vị chân phước.
Trong
bài giảng, Đức Thánh Cha đã nêu cao tấm gương đời sống đức Tin của các tân chân
phước. Về Đức chân phước Gioan XXIII, Đức Thánh Cha nói:
“Đức cố giáo hoàng Gioan XXIII đã để lại trong ký ức
mọi người hình ảnh một gương mặt tươi cười và hai cánh tay rộng mở để ôm trọn
thế giới. Tâm hồn giản dị của ngài đã chinh phục biết bao con người. Sự giản dị
này có mối liên hệ sâu xa với kinh nghiệm rộng lớn của ngài về con người và sự
việc! Luồng gió mới ngài mang đến cho Giáo Hội không phải là về giáo thuyết mà
là cách trình bày giáo thuyết. Cách thức ngài trình bày và thực hành giáo thuyết
thật mới mẻ. Thái độ và tình cảm của ngài khi đến với những người bình thường
và những người quyền thế trên trần gian cũng thật mới mẻ. Với một tinh thần như
thế, ngài đã đem đến cho Giáo Hội Công đồng Vatican II. Còn với Công đồng
Vatican II, ngài đã mở một trang sử mới cho Hội Thánh. Từ trang sử mới này, các
Kitô hữu nhận ra mình được mời gọi loan báo Tin Mừng với lòng quả cảm mới và biết
quan tâm hơn đến những “dấu chỉ” của thời đại. Công đồng thực sự là một trực
giác mang tính tiên tri của vị Giáo hoàng luống tuổi này. Chính ngài đã khai mạc,
giữa muôn vàn khó khăn, một mùa hy vọng mới cho các Kitô hữu và cho nhân loại.
Trong những ngày cuối cùng sống trên trần thế, ngài
đã trối lại cho Hội Thánh: “Trên đời này, không gì quý giá hơn Đức Giêsu Kitô,
Hội Thánh và Tin Mừng của Người, chân lý và lòng nhân hậu”. Hôm nay chính chúng
ta cũng muốn nhận lấy lời trăn trối này và tôn vinh Chúa đã ban ngài làm vị mục
tử dẫn dắt chúng ta”.
II. THÁNH GIOAN PHAOLÔ II, GIÁO HOÀNG (1920–2005)
1. Thời niên thiếu và trưởng thành
Thánh
Gioan Phaolô II, tức Karol Wojtyla sinh ngày 18.5.1920, tại Wadowice, đông nam Cracovia, Ba Lan. Cha ngài là
ông Karol Wojtyla và mẹ là bà Emilia Kaczorowska.
Khi
lên 9 tuổi, mẹ ngài qua đời. Ba năm sau, ngài mất thêm người anh cả là bác sĩ
Edmund Wojtyla. Thân phụ ngài qua đời vào năm 1941.
Sau
khi đậu tú tài, năm 1938, Karol Wojtyla vào Đại học Jagellon tại Cracovia, theo
học khoa Triết, đồng thời bắt đầu làm quen với nghệ thuật sân khấu và thi ca.
Năm 19 tuổi, ngài hoàn thành tập thơ “Thánh vịnh Phục hưng” đồng thời cũng hoàn
tất khóa huấn luyện quân sự dành cho sinh viên.
Cùng
lúc đó, Phát xít Đức xâm lăng Ba Lan. Trường đại học Jagellon buộc phải đóng cửa.
Karol xin vào làm tại nhà máy hóa chất Solvay để kiếm sống và tránh bị đưa sang
Đức.
2. Bí mật theo đuổi ơn thiên triệu
Năm
1939, Ba Lan bị Đức chiếm đóng. 184 giáo sư trường Đại học Jagellon của
Cracovia bị bắt giữ. Các linh mục tại quê nhà của Karol cũng bị Gestapo bắt
giam.
Karol
vừa đi làm vừa tham gia các hoạt động bí mật kháng chiến chống phát xít Đức
(sáng tác và biểu diễn các vở kịch yêu nước), đồng thời tham gia Nhóm trẻ Kinh
Mân côi và học hỏi đời sống chiêm niệm Cát Minh với Jan Tyranowski (1900–1947),
một cộng tác viên đắc lực của các cha dòng Don Bosco, hiện đã được công nhận là
Tôi tớ Chúa.
Năm
1942, Karol được giáo phận chấp nhận vào học chủng viện. Lúc này chủng viện
đang âm thầm đào tạo linh mục trong bí mật.
Năm
1945, chiến tranh kết thúc, Karol tiếp tục học Thần học tại chủng viện của giáo
phận vừa được mở cửa lại.
3. Linh mục Karol Wojtyla
Ngày
1.11.1946, ngài được Đức hồng y Adam Stefan Sapieha, Tổng giám mục Cracovia,
truyền chức linh mục. Sau khi chịu chức, ngài được gửi sang Rôma học tiếp tục
tiến sĩ, dưới sự hướng dẫn của cha Garrigou–Lagrange, dòng Đa Minh. Năm 1948
ngài lãnh học vị tiến sĩ với luận án về đức Tin qua trước tác của thánh Gioan
Thánh giá. Trong thời gian học tại Rôma, ngài phục vụ cộng đoàn Ba Lan đến từ
các nước Pháp, Bỉ, Hà Lan.
Sau
khi bảo vệ thành công luận án tiến sĩ thần học tại Rôma, cha Karol trở về quê
hương Ba Lan và được bổ nhiệm làm linh mục phụ tá tại một số giáo xứ và tuyên
úy sinh viên cho đến năm 1951, cha trở lại học tiếp triết học và nghiên cứu thần
học.
Năm
1953, cha bảo vệ luận án tiến sĩ triết học tại đại học Lublin với đề tài: “Phát
triển khả năng xây dựng một nền đạo đức Công giáo trên cơ sở hệ thống đạo đức học
Max Scheler”. Sau đó ngài được mời giảng dạy thần học luân lý và đạo đức xã hội
tại Đại chủng viện Cracovia và tại Phân khoa thần học Lublin.
G.
Weigel, trong quyển Witness to Hope
(tr. 136), thuật lại:
“Đối với các sinh viên trường
đại học Lublin, cha Wojtyla là một vị giáo sư rất dễ gần gũi. Ngài thường dành
thời giờ ngồi tòa giải tội và giúp linh hướng cho các sinh viên”.
4. Giám mục, Tổng Giám mục, Hồng y Karol Wojtyla
Ngày
4.7.1958, Đức giáo hoàng Piô XII bổ nhiệm cha Karol Wojtyla làm giám mục phụ tá
tổng giáo phận Cracovia, hiệu tòa Ombi. Ngày 28 tháng 9, Đức cha Karol Wojtyla
được tấn phong giám mục tại nhà thờ chánh tòa Wawel (Cracovia).
Ngày
13.1.1964, Đức giáo hoàng bổ nhiệm Đức cha Karol Wojtyla làm Tổng giám mục
Cracovia.
Trong
thời gian làm giám mục phụ tá, rồi Tổng giám mục Cracovia, Đức cha Karol
Wojtyla đã tham dự tất cả các khóa họp của Công đồng Vatican II, được bổ nhiệm
vào Uỷ ban Soạn thảo Lược đồ XIII về Giáo Hội trong thế giới ngày hôm nay. Lược
đồ này đã trở thành Hiến chế Mục vụ Gaudium
et Spes.
Tại
Công đồng, Đức cha có một bài phát biểu nổi tiếng về tự do tôn giáo.
Ba
năm sau khi đảm nhiệm sứ vụ Tổng giám mục Cracovia, ngày 26.6.1967, Đức giáo
hoàng Phaolô VI thăng ngài lên hàng hồng y.
Mùa
Chay 1967, Đức hồng y Karol Wojtyla được Đức giáo hoàng Phaolô VI mời giảng
tĩnh tâm cho giáo triều Rôma.
5. Giáo hoàng Gioan Phaolô II
Ngày
16.10.1978, Đức hồng y Karol Wojtyla được Mật tuyển viện bầu lên kế vị Đức
Gioan Phaolô I qua đời sau 33 ngày đảm nhận sứ vụ Phêrô. Vị tân giáo hoàng lấy
tông hiệu Gioan Phaolô II, trở thành vị lãnh đạo toàn thể Giáo Hội không phải
người Ý sau gần 500 năm. Ngài sẽ thực thi sứ vụ mới trong suốt 27 năm
(1978–2005) và ghi dấu ấn sâu đậm trong lịch sử Giáo Hội, không chỉ vì độ dài của
triều đại mà vì những đóng góp lớn lao cho Giáo Hội và thế giới
Những hoạt động sứ vụ tiêu
biểu của Đức Gioan Phaolô II
-
Thực hiện 104 chuyến tông du ngoài lãnh thổ nước Ý, đến 104 quốc gia và vùng
lãnh thổ, với 1 triệu 162 ngàn 615 km. Ngài là vị giáo hoàng đầu tiên đến thăm
châu Phi với 14 chuyến tông du.
-
Ban hành 14 thông điệp.
-
Phát biểu 10.000 diễn văn gồm 80.000 trang.
-
Triệu tập 15 Thượng Hội đồng Giám mục, trong đó có: 6 Khoá họp Chung Thường lệ,
1 Khoá họp Chung Ngoại lệ và 8 Khoá họp Đặc biệt.
-
Chủ tọa 1.500 buổi tiếp kiến chung.
-
Tiếp 65 nguyên thủ quốc gia. Nâng số quốc gia có quan hệ ngoại giao với Tòa
Thánh từ 92 lên 172.
-
Tuyên phong 482 thánh và 1338 chân phước (so với 300 thánh và 1310 chân phước của
tất cả các triều giáo hoàng trước).
-
Phong thánh 117 chân phước tử đạo Việt Nam (19.6.1988) và tuyên phong Anrê Phú
Yên lên bậc chân phước (5.3.2000).
Khối
lượng hoạt động sứ vụ của Đức Gioan Phaolô II hết sức đồ sộ, cho thấy sự đóng
góp lớn lao của ngài cho Giáo Hội.
Một số công trình và sáng
kiến mục vụ của Đức Gioan Phaolô II đã thúc đẩy đời sống đức Tin, cầu nguyện của
tín hữu khắp thế giới
-
Ban hành bộ Giáo luật 1983.
-
Phê chuẩn ấn bản Sách Lễ Rôma mới ngày 11 tháng Giêng năm 2000.
-
Mở Năm Thánh Cứu chuộc 1983, kỷ niệm 1950 năm Chúa Giêsu chịu chết để cứu chuộc
loài người.
-
Ngày 27.10.1986, thiết lập “Tinh thần Assisi” khi mời các nhà lãnh đạo các tôn
giáo lớn về Assisi để cầu nguyện cho hòa bình.
-
Ban hành Bộ sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo (1992)
-
Mở Năm Thánh 2000, kỷ niệm 2000 năm Thiên Chúa giáng sinh làm người.
-
Năm 1984, ấn định lễ Lá là Ngày Giới trẻ Thế giới và tổ chức Đại hội quốc tế Giới
trẻ 2 năm một lần.
-
Thiết lập lễ Kính Lòng Chúa Thương xót (30.4.2000)
-
Đặt thêm Năm sự Sáng vào Kinh Mân Côi (nhân Năm Mân Côi 2002–2003).
Gioan Phaolô II, chứng
nhân của Tin Mừng Yêu thương – Hoán cải – Tha thứ
-
Năm 1981, ngài đến nhà tù thăm Mehmet Ali Agaça, kẻ đã ám sát ngài vào ngày
13.5.1981 và tha thứ cho anh ta.
-
Ngày 12 tháng 3 năm 2000, công khai xin lỗi về những lỗi lầm của Giáo Hội trong
quá khứ.
Di sản tinh thần của Đức
Gioan Phaolô II: “Đừng sợ! Hãy mở rộng mọi
cánh cửa cho Chúa Kitô!”
Bài
giảng của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI trong Thánh lễ phong Chân phước cho Đức
Gioan Phaolô II, là một đúc kết sâu sắc về cuộc đời của một vị Mục tử kiên cường
và nhân hậu, mạnh mẽ và đầy lòng vị tha.
Đức
Bênêđictô XVI nêu cao di chúc đã được vị tân chân phước trối lại cho Hội Thánh.
Di chúc đó chính là tinh thần “Đừng sợ”. Đừng sợ phục vụ Tin Mừng. Đừng sợ làm
chứng cho những giá trị Phúc âm. Đừng sợ được gọi là Kitô hữu, được thuộc về
Giáo Hội để loan báo Tin Mừng:
“Trong
Di chúc của mình, tân chân phước Gioan Phaolô II đã viết: “Ngày 16 tháng 10 năm
1978, khi các hồng y trong Mật tuyển viện đã bầu xong Gioan Phaolô II, thì Đức
hồng y Stefan Wyszyński, giáo trưởng Ba Lan, đã nói với tôi: ‘Công việc của tân
giáo hoàng sẽ là lãnh đạo Giáo Hội tiến vào ngàn năm thứ ba’. Và ngài thêm:
‘Tôi muốn một lần nữa cám ơn Chúa Thánh Thần về quà tặng Công đồng Vatican II.
Cùng với toàn thể Giáo Hội, cách riêng với các giám mục, tôi cảm nhận sâu xa ân
huệ này. Tôi tin Công đồng này của thế kỷ XX sẽ vẫn còn ban cho các thế hệ kế
tiếp được lãnh nhận sự phong phú Công đồng mang lại cho chúng ta. Là một giám mục
từng tham dự Công đồng từ những ngày đầu tiên cho đến khi kết thúc, tôi muốn ủy
thác di sản lớn lao này cho tất cả những ai đang và sẽ được mời gọi làm cho
Công đồng trở thành hiện thực trong tương lai. Về phần mình, tôi biết ơn Đấng Mục
tử Muôn đời đã cho tôi được phục vụ trong tinh thần này trong suốt triều giáo
hoàng của mình’.
Tinh
thần gì vậy? Đó chính là tinh thần mà Đức Gioan Phaolô II trình bày trong thánh
lễ trọng thể đầu tiên của ngài tại quảng trường Thánh Phêrô, với những lời
không thể nào quên: “Đừng sợ! Hãy mở rộng
mọi cánh cửa cho Chúa Kitô!”.
Điều
mà vị giáo hoàng mới được bầu đề nghị với mọi người, thì chính ngài là người đầu
tiên thực hiện: ngài đã mở các hệ thống xã hội, văn hóa, chính trị, kinh tế cho
Đức Kitô, với sức mạnh của một người khổng lồ – một sức mạnh ngài nhận được từ
Thiên Chúa – tạo ra một xu thế hầu như không thể đảo ngược. Bằng chứng từ đức
tin, tình yêu, bằng lòng can đảm tông đồ của mình, và bằng uy tín cá nhân lớn
lao, người con tuyệt vời này của đất nước Ba Lan đã giúp cho các tín hữu trên
khắp thế giới không sợ được gọi là Kitô hữu, không sợ thuộc về Giáo Hội, không
sợ nói về Tin Mừng.
Tắt
một lời: ngài đã giúp chúng ta không sợ sự thật, vì sự thật là bảo đảm của tự
do. Hay nói hàm súc hơn: ngài đã trao cho chúng ta sức mạnh để tin vào Đức
Kitô, vì Đức Kitô là Redemptor hominis,
Đấng Cứu Chuộc nhân loại” (Bênêđictô XVI, Bài
giảng ngày 1.5.2011).
III. KẾT LUẬN: VĨ NHÂN HAY CHỨNG NHÂN?
Khi
quyết định tôn phong một tín hữu của mình lên hàng hiển thánh, Giáo Hội không
nhằm áp đặt cho thế giới hình ảnh một con người kiệt xuất, một vĩ nhân trong lịch
sử nhân loại, nhưng muốn nêu cho toàn thể tín hữu tấm gương về một cuộc đời đã
“nên trọn lành như Cha trên trời” (x. Mt 5, 48). Đó là sự trọn lành của Đấng
yêu thương đã được vị hiển thánh làm chứng bằng một cuộc đời “yêu Chúa trên hết
mọi sự và yêu thương tha nhân”.
Đức
Gioan XXIII và Đức Gioan Phaolô II, hai vị thánh mới của Giáo Hội Công giáo, là
hai khuôn mặt tiêu biểu cho biết bao chứng nhân của Tình yêu của Thiên Chúa hằng
được thể hiện sống động, hữu hình trong suốt lịch sử nhân loại.
Các
ngài đã đảm nhận và thực hiện được nhiều việc lớn lao cho Giáo Hội và thế giới,
vì thế, sẽ không quá lời khi gọi các ngài là hai nhân vật lỗi lạc, hai vĩ nhân.
Nhưng điều đáng nói hơn cả, các ngài đã sống một cuộc đời lớn lao bằng tinh thần
“trẻ nhỏ”, hoàn toàn cậy dựa vào Chúa, như trẻ thơ tuyệt đối tin vào tình
thương và luôn nép mình, cậy dựa vào cha. Quả thật các ngài đã tin và sống theo
lời của Đức Kitô: “Nước Trời thuộc về những ai giống như trẻ nhỏ” (Mt 19, 14).
Hai
vị giáo hoàng, hai con người lỗi lạc, cũng là hai “trẻ nhỏ” hoàn toàn thuộc trọn
về Chúa và tận tình phục vụ con người.
Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGMVN, Số 82 (Tháng 5 & 6 năm 2014)