THAM LUẬN CỦA ĐỨC HỒNG Y
MARIO GRECH,
TỔNG THƯ KÝ THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC,
TẠI ĐẠI HỘI LẦN THỨ 75 CỦA HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC Ý
NGÀY 23.11.2021
Xin gởi lời chào
bình an đến các anh em rất thân mến trong hàng Giám mục!
Tôi đến đây với
tư cách một người anh em, không hề có ý áp đặt bất cứ quan điểm nào do chức vụ
hay bậc sống cao hơn: ước muốn của tôi là cùng với anh em tìm kiếm những giải
pháp chung, giúp chúng ta hiện thực hóa một cách tròn đầy những gì Chúa đòi hỏi
chúng ta và những gì Thần Khí gợi hứng qua Thượng Hội đồng “hướng đến một Hội
thánh hiệp hành”.
Tôi cảm ơn anh em
về lời mời và về cơ hội được cùng thảo luận với anh em về chủ đề của Thượng Hội
đồng vừa mới khai mạc, nhất là trong bối cảnh Hội đồng Giám mục Ý đã khởi xướng
con đường công nghị các Giáo hội tại Ý, dự kiến trong khoảng thời gian dài hơn
giai đoạn dành cho Thượng Hội đồng Giám mục lần thứ 16. Quả không dễ để anh em
chuẩn bị con đường này, trong thời kỳ cưu mang - theo như tôi biết - kể từ Đại
hội Giáo hội Ý năm 2015 tại Florence, và để anh em gặp lại nhau trước thềm Hội
nghị toàn thể lần thứ 74 của các giám mục Ý, cũng như để anh em cân nhắc ở giai
đoạn đầu của tiến trình Thượng Hội đồng của Hội thánh phổ quát, vốn liên quan đến
toàn thể Hội thánh và tất cả các Giáo hội [địa phương].
Có người đã buộc
tội Văn phòng Tổng Thư ký Thượng Hội đồng là muốn làm quá đáng. Trên thực tế,
chúng tôi đã không làm gì khác hơn ngoài việc biến những gì đã được Tông hiến Episcopalis communio thiết lập thành một
tiến trình lớp lang và chặt chẽ, khi chuyển đổi sự kiện Thượng Hội đồng thành một
tiến trình: quả không dễ để nhận ra sự thay đổi viễn tượng mà sự lựa chọn này
bao hàm: kể từ khi được thiết lập, Thượng Hội đồng Giám mục được chào đón như một
biến cố liên quan đến Hội thánh hoàn vũ, không liên quan trực tiếp đến các Giáo
hội địa phương. Kết quả là Thượng Hội đồng chỉ chạm đến thân mình Giáo hội khi
các giáo hoàng ban hành các Tông huấn hậu Thượng Hội đồng.
Như Tài liệu chuẩn
bị Thượng Hội đồng cho biết (số 1), toàn thể Hội thánh được “triệu tập trong
Thượng Hội đồng”. Lần đầu tiên, không chỉ tất cả các giám mục, mà toàn thể dân
Chúa đều tham gia vào tiến trình Thượng Hội đồng; không chỉ tất cả những ai đã
chịu Phép Rửa, là nam hay nữ, hiểu theo tính cách cá nhân, mà toàn thể Hội
thánh tản mác trên khắp hoàn cầu: điều này chỉ ra rằng đây là một quyết định có
tầm ảnh hưởng lớn lao, mà chúng ta chưa thể đong đếm hết những kết quả và hệ quả
của nó. Tuy nhiên, có một điều chắc chắn: nguyên lý nền tảng cho sự biến chuyển
của Thượng Hội đồng từ một sự kiện thành một tiến trình đó là “chính nhờ và
trong các Giáo hội đặc thù mà có một và chỉ một Giáo hội Công giáo duy nhất”
(LG 23). Chính vì tính hỗ tương và “bản chất gắn kết nội tại lẫn nhau” này, mà
chúng ta đã nghĩ tới việc khai mạc kép của Thượng Hội đồng, tại đền thờ thánh
Phêrô ngày 10 tháng 10 và tại các Giáo hội đặc thù, để minh chứng rằng Giáo hội
“diễn ra” trong các Giáo hội đặc thù. Những ai nói rằng đó là sự trùng lặp vô
ích, thì đã không hiểu những gì Đức Phaolô VI đã đề cập trong Tông huấn Evangelii nuntiandi:
“Chúa muốn Hội thánh Ngài phải phổ quát như một
cây lớn đến nỗi chim trời đến nương náu nơi cành nó, như một tấm lưới vớt được
mọi thứ cá hay như mẻ lưới mà Phêrô kéo lên chứa đến
153 con cá lớn, hay như một đàn chiên chỉ có một chủ chăn. Một Hội thánh phổ
quát không có biên giới, ngoại trừ biên giới tâm-thức các tội nhân, đây thực là điều đáng tiếc.
Tuy nhiên trên thực tế, Hội thánh phổ quát này hiện
thân trong các Giáo hội địa phương, và các Giáo hội địa phương này được thành lập với một phần nhân loại cụ
thể, nói một ngôn ngữ nhất định, thừa hưởng
một di sản văn hoá, một vũ trụ quan, một quá khứ lịch sử, một vốn liếng nhân bản nhất định... Theo ý Chúa, Chính Hội
thánh này, tuy phổ quát do ơn gọi và sứ mệnh, nhưng một khi đã bén rễ trong những
vùng văn hóa, xã hội, nhân sinh khác nhau, lại mang những bộ mặt, những biểu hiện
bên ngoài khác nhau tùy theo mỗi miền của thế giới.
Như vậy, một khi Giáo hội địa phương tự ý cắt đứt
khỏi Hội thánh phổ quát thì Giáo hội đó không còn sống đúng ý định của Chúa;
Giáo hội ấy tự làm nghèo nàn chiều kích Hội thánh của mình. Mặt khác, Giáo hội
“tràn lan khắp mặt đất” cũng sẽ chỉ là một ý niệm trừu tượng nếu Giáo hội này
không thật sự mặc lấy thân thể và sức sống nơi các Giáo hội địa phương. Chỉ khi
nào chúng ta lưu ý đến cả hai sắc thái của Hội thánh, chúng ta mới nhận thấy mối
tương quan phong phú giữa Hội thánh phổ quát và Giáo hội địa phương” (EN 61-62).
Tính hỗ tương và
“bản chất gắn kết nội tại lẫn nhau” của Hội thánh phổ quát và Giáo hội đặc thù
đã gợi hứng cho tiến trình Thượng Hội đồng và các giai đoạn của tiến trình.
Trong trường hợp này cũng vậy, đây là lần đầu tiên, với rất nhiều điều mới mẻ.
Tông hiến Episcopalis communio đã giới
hạn khi nói rằng giai đoạn “chuẩn bị”, “được điều phối bởi Văn phòng Tổng Thư
ký Thượng Hội đồng nhằm mục đích thỉnh ý dân Chúa về chủ đề của Thượng Hội đồng”
(điều 5, 2). Tông hiến cũng tiếp thêm rằng “việc thỉnh ý Dân Chúa diễn ra trong
các Giáo hội địa phương” và xác định rõ rằng “trong mỗi Giáo hội địa phương,
các giám mục thực hiện việc thỉnh ý Dân Chúa bằng cách nhờ đến các tổ chức và hội
đoàn hiện hành được giáo luật quy định mà không loại trừ các hình thức mà các
ngài cho là phù hợp” (điều 6, 1). Khởi đi từ nhận định của Công đồng về Hội
thánh như là “thân thể các Giáo hội”, “trong và nhờ các Giáo hội mà làm nên Hội
thánh”, Văn phòng Tổng Thư ký của Thượng Hội đồng, với tư cách là người chịu
trách nhiệm về tiến trình Thượng Hội đồng, nhấn mạnh một số phương diện nhằm đảm
bảo tốt nhất tiến trình Thượng Hội đồng:
- Thứ nhất là việc
thỉnh ý dân Chúa, cho dù là “chuẩn bị”, nhưng cũng là một phần của tiến trình
Thượng Hội đồng. Trong các cuộc họp với Hội đồng Thư ký, sự mập mờ của tính từ
“chuẩn bị” đã được lưu tâm ngay tức thì: tính từ này có thể khiến người ta nghĩ
tới giai đoạn “tiền” tiến trình Thượng Hội đồng. Mọi thành viên đều thấy hiển
nhiên rằng việc thỉnh ý dân Chúa đã là một phần của tiến trình Thượng Hội đồng.
Cắt nghĩa cách khác sẽ đi ngược lại với Công đồng Vaticanô II, vốn rút ra điều
khẳng định rõ ràng này từ Thánh Kinh và Thánh Truyền: “toàn thể các tín hữu được
Chúa Thánh Thần xức dầu (x. 1Ga 2, 20.27), không thể sai lầm trong đức tin, họ
biểu lộ thuộc tính đặc biệt này qua cảm thức siêu nhiên về đức tin của toàn thể
dân Chúa, khi ‘từ các giám mục cho đến những người bé mọn nhất trong các tín hữu'
đều đồng thuận về những điều liên quan đến đức tin và phong hóa” (LG 12). Tài
liệu Chuẩn bị nói rất rõ về điểm này khi khẳng định phần liên quan đến cảm thức đức tin (sensus fidei) trong tiến
trình Thượng Hội đồng.
- Phương diện thứ
nhì là việc thỉnh ý dân Chúa diễn ra trong các Giáo hội địa phương. Đúng là
Tông hiến Episcopalis communio cũng
chỉ ra các khối liên hiệp, các liên dòng,
các hội nghị tu hội thánh hiến và tu đoàn tông đồ nam và nữ cũng như các hiệp
hội giáo dân được Tòa Thánh và các bộ của Giáo triều Rôma công nhận với tư cách
là những chủ thể có thể tổ chức việc thỉnh ý. Tuy nhiên, lôgic của “bản chất gắn
kết nội tại lẫn nhau” giữa Hội thánh phổ quát và các Giáo hội đặc thù đòi hỏi
hình thức thỉnh ý thông thường phải là việc thỉnh ý dân Chúa nơi các Giáo hội đặc
thù: nơi đó, “Hội thánh Chúa Kitô duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền,
hiện diện và hoạt động” (CD 11); nơi
đó, tất cả mọi người đều được mời gọi đóng góp, tùy theo ơn gọi, đặc sủng, chức
vụ, và thực trạng đời sống. Nhất là nếu đây là chủ đề về Hội thánh hiệp hành!
Con đường hiệp hành này sẽ như thế nào, việc lắng nghe mỗi người sẽ ra sao, nếu
một số người tự tách mình ra khỏi tiến trình lắng nghe của Giáo hội nơi họ đang
sống, để đưa ra những đóng góp tách biệt? Không loại bỏ giả thuyết này, tuy
nhiên nó chỉ liên quan tới những năng động hiệp hành nội tại nơi các gia đình
dòng tu. Còn những gì liên quan đến đời sống của Giáo hội phải diễn ra qua các
Giáo hội địa phương.
- Phương diện thứ
ba liên quan đến phương thức thỉnh ý: như anh em có thể thấy trong Tài liệu Chuẩn
bị, chúng ta đã bỏ thuật ngữ “bản câu hỏi” nhằm tránh bất kỳ sự mơ hồ nào về việc
thỉnh ý, không thể và sẽ không bao giờ là một cuộc thăm dò dư luận. Thậm chí,
còn hơn thế nữa, chúng ta cũng đã chọn không tăng thêm lượng câu hỏi, mà tập
trung mọi sự vào một câu hỏi căn bản duy nhất, được trình bày ở phần đầu Tài liệu
(số 2) và nhắc lại ở chương IV, nơi những hướng đi được đề xuất dành cho việc
thỉnh ý dân Chúa. Trong số 26, nguyên văn viết: “Hội thánh hiệp hành ‘cùng nhau
cất bước hành trình', khi loan báo Tin Mừng: Việc ‘cùng nhau cất bước hành
trình' hiện đang diễn ra thế nào trong Giáo hội địa phương của anh em? Để Hội
thánh được lớn lên trong việc ‘cùng nhau cất bước hành trình', Thần Khí đang mời
gọi chúng ta thực hiện những bước đi nào?”. Chương IV cũng trình bày mười chủ đề
cốt lõi nhằm đào sâu: đó không phải là mười câu hỏi - chúng ta sẽ trở lại bản câu
hỏi của chúng ta!!! - mà là các phương diện của một câu hỏi căn bản duy nhất.
Chúng có khả năng giúp chúng ta thấy được rất nhiều hàm ý của câu hỏi đầu tiên,
như thể nó là nhiều mặt của một lăng kính; còn nếu chúng gây lẫn lộn hoặc tạo
chước cám dỗ chỉ muốn thăm dò dư luận, tốt hơn hết là nên loại bỏ chúng và chỉ
tập chú vào câu hỏi căn bản. Điều quan trọng là dân thánh Chúa trải nghiệm thực
sự về tính hiệp hành, qua việc lắng nghe lẫn nhau.
Tôi liên hệ ba điểm
này với điểm thứ tư mà tôi muốn cùng với anh em tập chú vào: nguy cơ - có thể gọi
là cám dỗ - muốn thêm vào tiến trình hiệp hành những ý nghĩa và mục tiêu khác,
muốn thêm vào những thứ nhằm đạt những kết quả khác, bên cạnh kinh nghiệm chung
là lắng nghe dân Chúa về tính hiệp hành và về Hội thánh hiệp hành. Nguy cơ này
đặc biệt liên quan đến những ai đã nghĩ tới một tiến trình hiệp hành trước khi
Văn phòng Tổng Thư ký Thượng Hội đồng đưa ra đề nghị. Đó là trường hợp của Con
đường công nghị của anh em, được diễn đạt trong Hiến chương Mục tiêu (Charte d'intention)
đã đệ trình Đức giáo hoàng. Trong hiến chương này, hai năm đầu được dành cho việc
lắng nghe, năm đầu tiên dành cho việc lắng nghe từ cơ sở, năm thứ hai mở ra đến
các vùng ngoại vi. Đây là một dự án hài hòa, có tầm vóc lớn nên có thể dùng làm
hình mẫu cho các Giáo hội khác. Có lẽ điều khiến một số người phiền lòng là sự
lấn cấn về thời gian: đề xuất của Văn phòng Tổng Thư ký Thượng Hội đồng dường
như là một sự lấn cấn gây phiền toái. Tôi cảm ơn anh em đã nói ngay từ đầu về sự
“hài hòa” của hai chặng đường. Tôi hy vọng sự hài hòa này sẽ đạt đến mức anh em
sẵn sàng dành năm đầu tiên nhằm thực hiện yêu cầu của việc lắng nghe do Thượng
Hội đồng Hội thánh phổ quát đề xuất.
Lời thỉnh cầu của
tôi xuất phát từ sự tin chắc rằng thà thực hiện cách đúng đắn một mục tiêu thì
ích lợi hơn là có hai mục tiêu chồng chéo và sinh ra lẫn lộn. Thêm vào đó là vị
trí của Hội đồng Giám mục Ý, với tư cách là Hội đồng Giám mục mà giám mục Rôma
chính thức trực thuộc. Việc các Giáo hội Ý thực hiện cách can đảm tiến trình Thượng
Hội đồng sẽ là mẫu gương cho các Giáo hội khác và các hàng giám mục khác. Mặt
khác, ai cũng biết Đức Thánh Cha đã kiên định yêu cầu một công nghị Giáo hội Ý.
Trong bức thư gởi cho Giáo hội nhân chuyến hành hương đến nước Đức, Đức Thánh
Cha nhắc lại những điều ngài đã nói với các giám mục Ý như một điều kiện tiên
quyết là phải tiến hành một Thượng Hội đồng “từ bên dưới”, từ việc lắng nghe
dân Chúa trong các Giáo hội địa phương. Phần nhấn mạnh này đặt Giáo hội Ý - và
như thế các quyết định của Hội đồng Giám mục Ý - trên giá đèn, chứ không phải
úp dưới thùng (x. Mt 5, 15). Vì lý do này, một hình mẫu về tiến trình Thượng Hội
đồng được thực hiện tốt đẹp sẽ giúp toàn thể Hội thánh canh tân não trạng và
phát triển phong cách hiệp hành mà tất cả chúng ta mong đợi từ việc cử hành Thượng
Hội đồng này.
Mặt khác, thách đố
cũng lớn lao: việc đạt được kết quả mà không triển nở một phong cách hiệp hành
sẽ đưa Hội thánh đến thất vọng, điều này có thể gây nguy hiểm cho tương lai của
tính hiệp hành và của chính Hội thánh. Tôi nhắc lại: tốt hơn hết là dân Chúa
trong các Giáo hội thảo luận về câu hỏi căn bản, hơn là nói về bất cứ điều gì,
thiếu tính xây dựng và nhất là thiếu định hướng. Điều then chốt là làm chín muồi
thực sự não trạng hiệp hành và hiểu được rằng thực ra “từ nền tảng, Hội thánh
là hiệp hành”, nghĩa là, là dân Thiên Chúa vốn cùng nhau bước đi, không chỉ vì
họ bước đi, mà vì họ bước đi và biết mình đi đâu - hướng tới sự kiện toàn Nước
Thiên Chúa - và vì thế dân Chúa tự vấn trên con đường mình đi, qua việc lắng nghe
những gì Thần Khí nói với Hội thánh. Tôi tin chắc rằng hoa trái đầu mùa và có
cơ sở nhất của giai đoạn đầu của tiến trình Thượng Hội đồng là niềm xác tín được
chín muồi qua việc lắng nghe lẫn nhau. Đó là niềm xác tín rằng đời sống của Hội
thánh khởi đi từ sự lắng nghe, là kết quả của việc tái khám phá chiều kích
Thánh Linh học của Hội thánh mà Công đồng chuyển giao lại cho chúng ta cũng như
đòi buộc chúng ta, đặc biệt là các mục tử, trong nhiệm vụ phân định vốn không
thể khước từ.
Đức giáo hoàng
nói với chúng ta trong diễn từ kỷ niệm 50 năm ngày thiết lập Thượng Hội đồng
Giám mục: “Hội thánh hiệp hành là Hội thánh lắng nghe, với ý thức rằng lắng
nghe ‘không chỉ là nghe'. Đây là việc lắng nghe lẫn nhau trong đó mỗi người đều
có điều gì đó để học biết. Giáo hữu, giám mục đoàn, giám mục Roma: tất cả đều lắng
nghe nhau, và tất cả đều lắng nghe Chúa Thánh Thần, ‘Thần khí sự thật' (Ga
14,17), để biết ‘điều Thần Khí nói với các Hội thánh' (Kh 2, 7)”. Việc thỉnh ý
dân Chúa là hoạt động thuộc phận sự của giám mục như nguyên lý và nền tảng hiệp
nhất trong Giáo hội của ngài. Nhờ quyền riêng biệt, thông thường và trực tiếp đối
với đoàn chiên được giao phó cho ngài, chính giám mục có thẩm quyền mở ra con
đường công nghị trong Giáo hội của mình và đồng hành với hành trình ấy, hầu
sinh hoa kết trái như mong đợi. Mỗi đóng góp đến từ các Giáo hội địa phương sẽ
là một món quà mà mỗi Giáo hội dành tặng cho các Giáo hội khác và cho toàn thể
Hội thánh, trong lôgic Công giáo được xác định bởi Hiến chế Tín lý Lumen Gentium 13.
Cũng trong diễn từ
nhân kỷ niệm 50 năm ngày thiết lập Thượng Hội đồng, Đức Thánh Cha khẳng định
“Thượng Hội đồng Giám mục là điểm hội tụ sự năng động lắng nghe này, được thực
hiện ở mọi bình diện trong đời sống Hội thánh”. Văn phòng Tổng Thư ký đã thể hiện
sự năng động này trong một tiến trình có tổ chức, phát triển điều mà Tông hiến Episcopalis communio gọi là “giai đoạn
chuẩn bị” trong sự vận động không ngừng của việc lắng nghe - phân định, vốn
trân trọng dân Chúa với tư cách là chủ thể của cảm thức đức tin (sensus fidei), cũng như tôn trọng các mục
tử của họ - dù là cá nhân trong Giáo hội đặc thù của các ngài hay quy tụ lại
trong các Hội đồng Giám mục - với tư cách là chủ thể của sự phân định trong
Giáo hội ở các cấp độ trung gian khác nhau của tính hiệp đoàn. Cách thức này
minh giải hai thời điểm phân định, trong các Hội đồng Giám mục quốc gia và châu
lục, giúp làm sáng tỏ tầm quan trọng của chức năng phẩm trật trong tiến trình
Thượng Hội đồng. Trong mọi trường hợp, tính hiệp hành không phải là sự mở ra để
tiếp nhận các khái niệm mang tính tính xã hội học, vốn nhấn mạnh vai trò chủ chốt
của giáo dân gây tổn hại cho Huấn quyền: viễn tượng luôn là viễn tượng của mối
tương quan, của “bản chất gắn kết nội tại lẫn nhau” giữa dân Chúa và các mục tử,
giữa cảm thức đức tin (sensus fidei)
và Huấn quyền; tiến trình Thượng Hội đồng luôn được thực hiện tuần hoàn giữa
tính hiệp hành, tính hiệp đoàn và quyền tối thượng.
Tôi sẽ chỉ tập
trung vào hai phương diện đầu tiên. Việc thỉnh ý dân Chúa rất quan trọng; và sự
phân định của các Hội đồng Giám mục cũng rất quan trọng: từ sự giao thoa của
các dữ liệu, như chúng được tổng hợp từ những đóng góp của các giáo phận và bản
đúc kết của các Hội đồng Giám mục, sẽ cho ra đời Tài liệu Làm việc (Instrumentum Laboris), hoa trái của việc
lắng nghe ở mọi phương diện. Đối với Văn phòng Thư ký, đây sẽ là một nhiệm vụ lớn
lao: đó là lý do tại sao bốn ủy ban đã được thành lập để lo đảm trách việc đọc
tài liệu, nhằm giảm thiểu nguy cơ diễn giải tùy tiện, vì điều này có thể xảy ra
khi việc đánh giá những đóng góp đã được giao phó cho một chuyên gia duy nhất,
như trường hợp trước đây.
Vì thế, tôi yêu cầu
Hội đồng Giám mục này một cam kết khác: trở thành gương mẫu trong giai đoạn
phân định. Nghĩa là giúp mỗi giám mục hiểu rằng đây không phải là việc được
giao cho một ai đó, mà chính anh em phải xem xét tài liệu. Hãy tìm một phương
cách thực sự mang tính hiệp đoàn để “phân định” những đóng góp của các giáo phận.
Ước mong bản đúc kết mà anh em đệ trình Ban Thư ký thực sự là hoa trái của sự lắng
nghe của các Giáo hội tại Ý. Tôi tin chắc rằng hành động phân định này sẽ giúp
hiểu được bản chất hiệp đoàn của các Hội đồng Giám mục, trong khuôn khổ một Hội
thánh hiệp hành tự căn bản. Đây là một đề tài đáng được chú ý đào sâu, để tiến
trình Thượng Hội đồng bảo đảm thực thi đúng tính hiệp hành, tính hiệp đoàn và
quyền tối thượng. Bỏ qua bất kỳ khía cạnh nào trong những khía cạnh này cũng đều
làm suy yếu toàn bộ tiến trình Thượng Hội đồng.
Việc cùng nhau
phân định cũng sẽ giúp phác họa chân dung vị mục tử hiệp hành. Trong hiệp hành,
tất cả chúng ta đều là những người học việc; nhưng trong một Hội thánh hiệp
hành, nhất thiết các giám mục phải là những người đầu tiên hiệp hành, với sự nhạy
bén, phong cách và não trạng hiệp hành. Làm thế nào mỗi thành phần dân Chúa (portio Populi Dei) có thể phát triển
chiều kích hiệp hành này nếu nguyên lý hiệp nhất dân Chúa lại diễn tiến theo một
hướng khác và thể hiện các nguyên tắc khác cũng như các mô hình Giáo hội khác? Ở
đây không phải là việc lặp lại những câu sáo rỗng, có khi là những khẩu hiệu.
Tôi luôn tự nhủ rằng để trở thành một mục tử hiệp hành, tôi phải:
- Lắng nghe một
cách hiệp hành
- Nói một cách hiệp
hành
- Hành động một
cách hiệp hành
Ba động từ hợp lại
sẽ phác họa gương mặt của vị mục tử hiệp hành; khi hợp lại cùng nhau, chúng nói
lên tính nhất quán của vị mục tử hiệp hành; nếu thiếu một điều, dù chỉ một điều,
toàn bộ diễn từ về tính hiệp hành sẽ trống rỗng và trở nên phản chứng. Đó là lý
do tại sao, ngoài việc là thời điểm quyết định trong đời sống Hội thánh, Thượng
Hội đồng cũng có thể trở nên thời cơ hoán cải thuận lợi cho chúng ta.
Sr. Marie Michaelle Hoàng Phương Thúy, OA.
Chuyển ngữ từ: synod.va (23.11.2021)
Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGMVN, Số 127 (Tháng 1 & 2 năm
2022)
WHĐ (28.4.2022)