GIẢI ĐÁP THẮC MẮC CHO NGƯỜI TRẺ CÔNG GIÁO

Bài 31: QUAN ĐIỂM CỦA GIÁO HỘI CÔNG GIÁO VỀ CÁC PHƯƠNG PHÁP NGỪA THAI

Phêrô Dương Hải Văn, SDB

Câu hỏi: Con nghe nói Giáo Hội mình không cho phép phá thai. Còn về ngừa thai thì không biết Giáo Hội mình có cho phép không? Nếu dùng phương pháp ngừa thai thì có tội gì nghiêm trọng không?

Trả lời:


Chào bạn,

Đây là một câu hỏi rất thời sự không chỉ cho chính bạn, mà còn cho nhiều đôi vợ chồng trẻ trong bối cảnh của xã hội ngày nay. Tôi nghĩ bạn không chỉ là một người muốn tìm hiểu về vấn đề ngừa thai, nhưng còn muốn sống một tình yêu có trách nhiệm trong hôn nhân. Nghĩa là người làm cha, làm mẹ ý thức sống đức tin theo thánh ý Thiên Chúa và theo sự hướng dẫn của Giáo Hội.

Hôn nhân là chứng ước của tình yêu đôi lứa, nhằm diễn tả tình yêu thương trong đời sống vợ chồng: hiệp nhất, bổ túc và tự hiến cho nhau. Đồng thời, tình yêu vợ chồng cũng thường gắn liền với việc sinh sản và giáo dục con cái. Điều đó nhắc nhớ cho vợ chồng biết quyền lợi và trách nhiệm của họ. Là vợ chồng, họ được tiếp nối trong sự sáng tạo của Thiên Chúa qua việc sinh sản con cái. Đồng thời vợ chồng cũng có trách nhiệm, tôn trọng và chung thủy với nhau, đặc biệt là trong việc gần gũi thể xác của vợ chồng.

Trong đời sống hôn nhân gia đình, con cái chính là ơn huệ cao quí mà Thiên Chúa ban cho. Cha mẹ không chỉ đón nhận con cái như hoa trái của tình yêu vợ chồng, nhưng còn với tâm tình tạ ơn và trách nhiệm hướng dẫn dạy dỗ con cái. Trách nhiệm đó được thể hiện:

“Bằng quyết định cao thượng và thận trọng để dưỡng nuôi một gia đình sung túc, quyết định này được hình thành từ những lý do nghiêm túc và phải tôn trọng luật luân lý, để không sinh thêm con trong một thời gian định kỳ hay vô hạn.” (Thông Ðiệp Sự Sống Con Người, 10).

Từ điều trên, nhiều gia đình băn khoăn trong việc phải dùng phương pháp ngừa thai nào thích hợp với đời sống đức tin, với tình yêu chung thủy vợ chồng và trách nhiệm giáo dục con cái. Đứng trước những thao thức và ưu tư đó, Hội Thánh chia sẻ và đồng cảm, cũng như khích lệ các gia đình biết sống tình yêu trong trách nhiệm và tôn trọng lẫn nhau. Khi đó họ thể hiện một đời sống gia đình gương mẫu trong đức tin, cũng như phù hợp với hoàn cảnh kinh tế, xã hội và hạnh phúc vợ chồng.

Hội Thánh chỉ ra rằng, việc áp dụng phương pháp ngừa thai bao giờ cũng phải: Tôn trọng giá trị của sứ mệnh lưu truyền sự sống và phẩm giá con người. Điều ấy có nghĩa là không trái luật Thiên Chúa về việc lưu truyền sự sống. Vợ chồng phải có ý ngay lành trong việc sử dụng các qui tắc khách quan về luân lý, dựa trên bản tính và tác động con người. Họ không được xâm phạm đến ý nghĩa tình yêu hôn nhân, đó là tự hiến cho nhau; cần sống khiết tịnh trong hôn nhân, và trung thành với giáo huấn của Hội Thánh.

Hiện nay, việc ngừa thai có hai cách thế là ngừa thai tự nhiên và ngừa thai nhân tạo. Đối với Giáo Lý của Hội Thánh, thì người Công Giáo không được phép sử dụng các phương pháp ngừa thai nhân tạo, nhưng được sử dụng phương pháp ngừa thai tự nhiên. Dù trong phương pháp này, vợ chồng cũng cần tôn trọng nhân phẩm và sống đời sống tiết dục trong hôn nhân (x. Thông Ðiệp Sự Sống Con Người, 14, 16). Chính họ phải chứng thực rằng ước muốn đó không do ích kỷ, nhưng xứng hợp với lòng quảng đại chính đáng của người làm cha mẹ có trách nhiệm:

“Khi cần hòa hợp tình yêu vợ chồng với việc sinh sản con cái có trách nhiệm, phải ý thức rằng giá trị luân lý của hành động không chỉ lệ thuộc vào ý muốn thành thực và việc cân nhắc các lý do, nhưng phải được thẩm định theo những tiêu chuẩn khách quan suy diễn từ bản tính nhân vị và của hành động nơi nhân vị: những tiêu chuẩn ấy tôn trọng ý nghĩa trọn vẹn của sự trao hiến và sinh sản con cái trong khung cảnh tình yêu đích thực. Đó là điều không thể thực hiện được nếu không thực tâm vun trồng đức khiết tịnh trong bậc vợ chồng.” (Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 51).

Về phương pháp ngừa thai tự nhiên

 Đây là phương pháp dựa trên sự tiết dục định kỳ, vợ chồng kiêng giao hợp trong thời kỳ người vợ dễ dàng thụ thai. Có hai phương pháp ngừa thai tự nhiên: đó là phương pháp Ogino–Knauss và phương pháp Billings. Cả hai phương pháp này đều xác định ngày trứng rụng, cũng như xác định trong chu kỳ kinh nguyệt của người phụ nữ những ngày nào có thể thụ thai và những ngày nào không thể thụ thai. Nếu có lý do chính đáng, vợ chồng có thể sử dụng phương pháp ngừa thai tự nhiên này, vì nó không đối nghịch với bản chất và mục đích của hành vi yêu thương thân mật, không trực tiếp ngăn cản việc trứng thụ tinh hay giết chết bào thai. (x. GLHT 2368 – 2370).

Về phương pháp ngừa thai nhân tạo

Đây là phương pháp trực tiếp làm cho khả năng sinh sản bị vô hiệu, hoặc làm cho diễn tiến truyền sinh bị ngăn chặn hay không thể đạt kết quả. Việc ngừa thai nhân tạo áp dụng cho nam giới gồm có những phương pháp: Thắt ống dẫn tinh, dùng bao cao su, xuất tinh ngoài âm đạo, sử dụng thuốc diệt tinh trùng... Còn cách thức ngừa thai nhân tạo áp dụng cho nữ giới gồm có những phương pháp: Thắt ống dẫn trứng, thuốc tránh thai (uống, tiêm hoặc cấy dưới da), sử dụng các dụng cụ như vòng xoắn, màng ngăn ...

Hội Thánh cấm dùng các phương pháp ngừa thai nhân tạo này! Lý do là vì chúng làm sai lệch bản chất của tình yêu vợ chồng là hiến thân trọn vẹn cho nhau, và ngăn cản vợ chồng cộng tác vào công cuộc trao ban sự sống. Bên cạnh đó, Hội Thánh nói với các vợ chồng rằng:

“Cấm việc hút điều hoà kinh nguyệt, vì là hình thức phá thai non. Cấm những hành động trực tiếp ngăn cản việc thụ thai tạm thời hay vĩnh viễn. Cấm sử dụng các dụng cụ, các loại thuốc ngừa thai” (Thông Ðiệp Sự Sống Con Người, 14).

Ước mong việc dùng các phương pháp ngừa thai không phải là cách thế để thỏa mãn đời sống tình dục, nhưng trên hết, đó là sự bổ trợ trong một tình yêu chung thủy, tôn trọng và sống trách nhiệm trong tình yêu vợ chồng. Đừng quên vợ chồng cũng phải giáo dục con cái thành những công dân lương thiện và những Kitô hữu tốt lành.

(Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 2, Nxb Tôn Giáo, 2020)

WHĐ (14.12.2021)

Đọc thêm: