PHONG TRÀO “LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT” VÀ LÒNG ĐẠO ĐỨC BÌNH DÂN
Linh mục Antôn Hà văn Minh
1.
Lòng sùng mộ Thánh Tâm Chúa trong cộng đồng Dân Chúa
a. Lịch
sử hình thành phong trào tôn sùng Thánh Tâm Chúa
b.
Các hình thức tôn sùng Trái tim Chúa dưới hình thức lòng đạo đức bình dân
c.
Việc tôn sùng Trái Tim Chúa dưới cái nhìn của các vị Chủ chăn của Giáo Hội
2.
Việc tôn kính Lòng Chúa Thương Xót
a. Mục
đích việc tôn sùng Lòng Chúa Thương Xót
b.
Việc tôn sùng Lòng Chúa Thương Xót dưới hình thức lòng đạo đức bình dân
3. Ảnh
hưởng phong trào Lòng Chúa Thương Xót trong đời sống Giáo Hội
4. Nền
tảng thần học cho việc phát triển phong trào “Lòng Chúa Thương Xót”
WHĐ (06.04.2021) - Vào ngày 13
tháng Ba năm 2015, tại Đền thờ Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha Phanxicô đã công bố mở
một “Năm Thánh đặc biệt” được gọi là “Năm
Thánh Lòng Chúa Thương xót”. Điều đặc biệt là Đức Thánh cha chính thức công
bố Tông sắc Năm thánh Misericordiae
vultus vào chiều thứ bảy ngày 11-4-2015, lễ kính Lòng Chúa Thương Xót, ngày
lễ do Thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II thiết lập vào Chúa Nhật II Phục Sinh do
đề nghị của thánh nữ Maria Faustina, người nữ tu được nhìn thấy Chúa Giêsu
trong một thị kiến với sứ điệp là phổ biến rộng rãi việc tôn sùng Lòng Chúa
Thương Xót. Đức Thánh cha nói: “Như chúng
ta đã thấy, trong Thánh Kinh, lòng thương xót là từ then chốt để nói về hành động
của Thiên Chúa đối với chúng ta. Ngài không chỉ khẳng định, nhưng còn làm cho
tình yêu của Ngài trở nên hữu hình và có thể chạm đến được. Quả thực, tình yêu
không bao giờ là một từ ngữ trừu tượng. Tự bản chất, tình yêu nói lên điều gì
đó cụ thể: ý hướng, thái độ và cách hành xử được thể hiện trong cuộc sống hằng
ngày. Lòng thương xót của Thiên Chúa là trách nhiệm của Ngài đối với chúng ta.
Ngài cảm thấy bị ràng buộc với chúng ta, nghĩa là Ngài muốn điều tốt cho chúng
ta, muốn thấy chúng ta hạnh phúc, vui tươi và an bình. Đó chính là hướng đi của
tình yêu thương xót của các Kitô hữu. Cha yêu thương thế nào thì con cái cũng
phải yêu thương như vậy. Chúa Cha là Đấng thương xót chúng ta, chúng ta cũng được
mời gọi phải thương xót nhau”[1].
Và như vậy có thể nói việc Đức
Thánh cha Phanxicô công bố Năm Thánh Lòng Chúa Thương Xót, kỷ niệm 50 năm bế mạc
Công đồng Vaticanô II cũng được nhìn trong lăng kính của Ðức Thánh Cha cho rằng,
chỉ khi nào con người cảm nhận được lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa dành
cho nhân loại thì con người mới có thể "nhìn
vào anh chị em của mình với đôi mắt mới, với thái độ vị tha và liên đới, đại lượng
và tha thứ"[2].
Có lẽ Thông điệp Dives in Misericordia của Thánh Giáo
Hoàng Gioan Phaolô II là động lực thúc đẩy Đức Phanxicô khai mở Năm Thánh Lòng
thương xót, bởi trong Tông sắc Misericordiae
Vultus Đức Phanxicô đã nói:
“Chúng ta không thể quên giáo huấn sâu sắc của thánh Giáo hoàng Gioan
Phaolô II gửi cho chúng ta trong Thông điệp thứ hai của ngài, Dives in
Misericordia, một Thông điệp được công bố ngoài mong đợi vào thời điểm ấy, và đề
tài được đưa ra cũng làm nhiều người kinh ngạc. Tôi đặc biệt nhớ đến hai đoạn.
Đoạn thứ nhất, vị Thánh giáo hoàng nêu lên sự kiện lòng thương xót đang bị lãng
quên trong văn hóa ngày nay: ‘Tâm thức của con người ngày nay, có lẽ hơn là
trong quá khứ, dường như muốn chống lại Thiên Chúa của lòng thương xót, cố ý loại
trừ ý niệm thương xót ra khỏi cuộc sống và xóa bỏ khỏi trái tim con người. Từ
ngữ và ý niệm thương xót dường như gây bất an cho con người, những kẻ đã dành
quyền làm chủ và thống trị trái đất (x. St 1,28) nhờ những tiến bộ vượt bậc về
khoa học và kỹ thuật chưa từng thấy trong lịch sử. Việc thống trị trái đất, đôi
khi được hiểu theo một chiều và thật nông cạn, dường như không còn dành chỗ cho
tình thương. Đó là lý do giải thích tại sao, trong Giáo Hội và thế giới ngày
nay, nhiều cá nhân và tập thể, được dẫn dắt bởi một cảm thức sống động về đức
tin, đang hướng về lòng thương xót của Thiên Chúa có thể nói là một cách bộc
phát tự nhiên’ (Tông huấn Evangelii Gaudium, 2).
Ngoài ra, thánh Gioan Phaolô II cũng giải thích tại sao phải nỗ lực tối
đa để công bố và làm chứng cho lòng thương xót trong thế giới ngày nay: ‘Lòng
thương xót được điều động bởi tình yêu dành cho con người, cho tất cả những gì
là nhân bản và những gì, theo nhận định của nhiều người ngày nay, đang bị đe dọa
nghiêm trọng. Đồng thời mầu nhiệm Chúa Kitô... thúc bách chúng ta phải loan báo
lòng thương xót như là tình yêu nhân hậu của Thiên Chúa, được tỏ bày nơi chính
mầu nhiệm Chúa Kitô. Mầu nhiệm này cũng mời gọi chúng ta quay về và khẩn nài
lòng thương xót ấy trong thời kỳ khó khăn và mang tính quyết định này của lịch
sử Giáo Hội và thế giới’ (Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Thông điệp Dives in
Misericordia, số 15). Giáo huấn của ngài vẫn còn giá trị và đáng để chúng ta học
hỏi trong Năm Thánh này. Một lần nữa hãy nghe ngài nói: ‘Giáo Hội có được đời sống
chân thực khi tuyên xưng và phổ biến lòng thương xót - thuộc tính kỳ diệu nhất
của Đấng Tạo Thành và Cứu Chuộc - cũng như khi đưa con người đến nguồn mạch của
lòng thương xót nơi Đấng Cứu Thế, lòng thương xót được giữ gìn và phân phát bởi
chính Giáo Hội’ (Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Thông điệp Dives in
Misericordia, 13)”[3].
Có thể nói, Thánh Giáo Hoàng
Gioan Phaolô II, vị Thánh của Lòng Chúa Thương Xót, là nguồn gợi hứng cho Năm
Thánh Lòng Thương Xót, nguồn gợi hứng này được nảy sinh từ thị kiến của thánh nữ
Maria Faustina Kowalska, nữ tu dòng Đức Mẹ Nhân Lành, vị tông đồ của Lòng Chúa
Thương Xót, người được Chúa Giêsu tỏ mình và sai đi loan báo cho thế giới biết
về Lòng Chúa Thương Xót:
“Hỡi tông đồ Lòng Thương Xót của Thầy, con hãy công bố cho toàn thế giới
về Lòng Thương Xót khôn dò của Ta. Đừng chán ngại trước những khó khăn con phải
đương đầu khi rao truyền tình thương của Ta. Những khó khăn này tuy làm con đau
khổ, nhưng hết sức cần thiết cho việc nên thánh của con và là bằng chứng cho thấy
công cuộc này là của Ta. Ái nữ của Thầy ơi, con hãy tỉ mỉ ghi lại từng câu Ta dạy
cho con về lòng nhân lành của Ta, bởi vì nhờ đó rất nhiều linh hồn sẽ được hưởng
nhờ lợi ích”[4].
Như vậy, việc tôn sùng Lòng Chúa
Thương Xót được khởi đầu bằng những hành vi đạo đức mang đặc tính cá nhân, sau
đó được nhiều kitô hữu đón nhận và con số tham gia việc tôn sùng đó càng ngày
càng nhiều. Việc tôn sùng Lòng Chúa Thương Xót của các Kitô hữu được đặt trên nền
tảng mà Công Đồng Vaticanô II gọi là “cảm thức đức tin” của Dân Chúa (LG số
12). Đây “là một loại bản năng thiêng
liêng giúp tín hữu phán đoán một cách tự phát xem một giáo huấn hay một thực
hành đặc thù nào đó có phù hợp với Tin Mừng và với đức tin tông truyền hay
không. Nó được nối kết một cách nội tại với chính nhân đức tin; nó phát xuất từ
đức tin và là một đặc tính của đức tin. Nó được sánh với bản năng vì nó không
chủ yếu là kết quả của suy luận thuần lý, mà đúng hơn là một hình thức nhận biết
tự phát và tự nhiên, một thứ tri giác (aisthesis)”[5].
Việc tôn sùng này khởi đầu mang lấy dạng thức được gọi là lòng đạo đức bình dân
“phát sinh cách riêng từ việc nhận biết
Thiên Chúa từng được ban cho những người có đức tin khiêm nhường. Nó chính là sự
biểu hiện của đời sống đối thần được nuôi dưỡng nhờ công trình của Chúa Thánh
Thần, Đấng luôn được đổ tràn vào tâm hồn ta”[6].
Lòng đạo đức bình dân là những biểu
hiện phụng tự mang tính cách cá nhân hay cộng đồng trong khuôn khổ đức tin Kitô
giáo, diễn tả trước hết, không phải theo các thể thức Phụng vụ, nhưng vay mượn
những sắc thái đặc thù thuộc tinh hoa của một dân tộc, hay một sắc tộc, nghĩa
là thuộc văn hóa của họ. Lòng đạo đức bình dân được định nghĩa chính xác là “một
kho tàng đích thực của Dân Chúa”, “biểu lộ
một sự khao khát Thiên chúa mà chỉ có những kẻ đơn sơ và khó nghèo mới biết được.
Nó làm cho người ta có khả năng quảng đại và hy sinh đến mức độ anh hùng, khi cần
phải chứng tỏ đức tin. Lòng đạo đức ấy chứa đựng một cảm thức bén nhạy về những
thuộc tính tâm sau của Thiên Chúa: tình phụ tử, sự quan phòng, sự hiện diện đầy
yêu thương và liên lỉ. Nó dẫn tới những thái độ nội tâm hiếm thấy ở nơi nào
khác với cùng một mức độ như vậy: kiên nhẫn, ý thức về thập giá trong đời sống
hằng ngày, sự từ bỏ và thái độ cởi mở đón nhận những sùng mộ khác”[7].
1. Lòng sùng mộ Thánh Tâm Chúa trong cộng đồng Dân
Chúa
Trước khi trình bày việc tôn kính
Lòng Chúa Thương Xót, tưởng cũng nên nhắc lại trong đời sống thiêng liêng của
Giáo Hội cũng đang tồn tại một hình thức tôn sùng nói về Lòng Chúa Thương Xót
dưới dạng Thánh Tâm (Trái tim) Chúa Giêsu. Nhắc lại việc tôn sùng này để thấy
Giáo Hội của Chúa là một cộng đoàn được quy tụ trên nền tảng tình yêu, khởi sự
một tình yêu được tỏ bày qua Trái tim bị đâm thủng trên Thập giá và từ tình yêu
này con người được chỉ dẫn hướng tới cội nguồn của tình yêu chính là lòng
thương xót của Chúa Cha, căn nguyên sự tồn tại của mọi loài thụ tạo.
a. Lịch sử hình thành phong trào tôn sùng Thánh Tâm
Chúa
Có thể nói, phong trào tôn sùng
Thánh Tâm Chúa Giêsu được gợi hứng từ thời thánh Gioan, người môn đệ cảm nhận
được tình yêu của Thiên Chúa cách đặc biệt qua cái chết của Chúa Giêsu trên Thập
Giá. Với cảm nghiệm này ngài đã mượn lời Kinh thánh để nói tiên tri về việc tôn
sùng Thánh Tâm Chúa trong đời sống thiêng liêng của Dân Chúa: “Họ sẽ nhìn lên Đấng
họ đã đâm thâu” (Ga 19,37), nghĩa là ngước nhìn “về Trái Tim Chúa Giêsu bị lưỡi
đòng đâm thâu, từ đó máu và nước chảy ra (x. Ga 19,34), dấu chỉ của ‘bí tích
tuyệt vời cho toàn thể Giáo Hội’”[8]. Ngoài ra, đoạn Tin Mừng
Gioan tường thuật về biến cố Chúa phục sinh hiện ra với các môn đệ và chỉ cho
các ông thấy bàn tay và cạnh sườn của Người (x. Ga 20,20) cũng tạo ra ảnh hưởng
rất quan trọng trong việc hình thành và phát triển lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa
Giêsu trong cộng đoàn Dân Chúa[9].
Vào thời trung cổ (thế kỷ 11 và
12) việc tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu có ý nghĩa cách đặc biệt qua các vị đạo
đức thánh thiện như thánh Bênađô (+1153), thánh Bonaventura (+1274), và những
nhà thần bí như thánh Lutgarda (+1246), thánh nữ Mathilda ở Marburg (+1282),
thánh Gertrude (+1302), thánh nữ Catarina Siena (+1380). Các ngài đã trình bày
về Trái tim Chúa Giêsu như là suối nguồn để kín múc lấy sức mạnh, và là nơi chứa
đầy Lòng Chúa Thương Xót. Chính nơi Trái tim Chúa Giêsu con người tìm thấy một nơi
chốn cho cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa tình yêu, bởi Trái tim Chúa là nguồn tình
yêu vô tận của Chúa[10].
Việc tôn sùng Thánh Tâm Chúa
Giêsu đạt tới đỉnh cao vào thời cận đại, thời đại xuất hiện bè phái Jansenius
loan báo về sự công thẳng của Thiên Chúa, và người ta không tìm thấy một sự bao
dung nào của Thiên Chúa trong chủ trương này. Đứng trước chủ tương lầm lạc này,
các thánh đã phát động phong trào sùng kính Trái tim Chúa như là thuốc giải độc
hữu hiệu giúp người tín hữu thêm yêu mến và tin tưởng vào lòng thương xót vô
biên của Chúa, và Trái tim Chúa Giêsu như là biểu tượng cho lòng thương xót
này. Các thánh tiêu biểu được gọi là tông đồ đặc biệt của lòng sùng mộ Trái tim
Chúa Giêsu bao gồm thánh Phanxicô de Sales (+1622), thánh nữ Margarita Maria Alacoques (+1690),
thánh Gioan Eudes (+1680), thánh Claude de la Colombiere (+1682) và thánh Gioan
Bosco (+1888)[11].
Trong thời cận đại này, có thể
nói vị tông đồ hoạt động cổ vũ mạnh nhất cho phong trào tôn sùng Trái tim Chúa
là thánh nữ Margarita Maria Alacoque (1647-1690) thuộc dòng Thăm Viếng.
Thánh nữ được Chúa Giêsu chọn giao phó nhiệm vụ phổ biến các đề nghị của Trái
Tim Người, chẳng hạn Người mong muốn cho mọi người biết về Trái Tim chất chứa đầy
yêu thương của Người; Người yêu cầu được tôn kính dưới hình Trái Tim bằng thịt
của Người; Người yêu cầu việc tôn sùng qua các giờ đền tạ Thánh Tâm và rước lễ
thường xuyên, đặc biệt vào mỗi thứ Sáu đầu tháng cũng như việc quảng bá phong
sùng kính Trái tim Người.
b. Các hình thức tôn sùng Trái tim Chúa dưới hình thức
lòng đạo đức bình dân
Việc tôn sùng Trái tim Chúa được
bày tỏ dưới hình thức lòng đạo đức bình dân rất đa dạng. Một số hình thức được
Tòa Thánh minh thị chuẩn nhận và thường xuyên khuyến khích các tín hữu thi
hành. Các hình thức này đã được Thánh bộ Phụng tự và kỷ luật bí tích liệt kê
như sau[12]:
- Việc dâng mình qua việc đền tạ
Thánh Tâm, theo Đức Piô XI, đây là việc thực hành chính yếu trong tất cả các việc
thực hành nhằm tôn thờ Thánh Tâm[13].
- Việc dâng gia đình, khiến cho tổ
ấm gia đình, vốn đã liên kết vào mầu nhiệm hiệp nhất và yêu thương giữa Chúa
Kitô và Hội Thánh nhờ Bí tích Hôn phối, được dâng trọn vẹn cho Chúa, để Người
ngự trị trong tâm hồn mỗi người[14].
- Kinh cầu Trái tim, được chuẩn
nhận năm 1891 cho toàn Giáo Hội, cảm hứng xuất phát từ kinh thánh và mang lại
nhiều ân xá.
- Kinh Đền tạ Rất thánh trái tim
Chúa là một kinh nghiệm được soạn ra bởi giáo dân, gợi nhớ lòng nhân hậu vô
biên của Đức Kitô, khao khát khẩn nài lòng thương xót Người và đền bù vô vàn tội
lỗi hằng làm thương tổn Trái Tim xiết bao dịu hiền của Người[15].
- Việc tuân giữ chín thứ sáu đầu
tháng: việc này đã góp phần phục hồi đáng kể về việc siêng năng xưng tội và rước
lễ.
c. Việc tôn sùng Trái Tim Chúa dưới cái nhìn của các
vị Chủ chăn của Giáo Hội
Nhìn vào lịch sử của Giáo Hội,
chúng ta có thể mạnh mẽ khẳng định rằng, chính lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa
Giêsu đã mang lại nhiều hiệu quả tích cực trong đời sống đức tin của các tín hữu,
và thật không sai lầm khi nói rằng, việc tôn sùng này như là điểm nòng cốt đức
tin Kitô giáo, nói như Đức Thánh Cha Piô XII: “Lòng sùng kính rất thánh Trái
Tim Đức Chúa Giêsu quan trọng đến nỗi khi được thực hành đúng đắn, có thể được
coi như sự tuyên xưng đức tin Kitô giáo cách hoàn hảo. Nó không phải chỉ là một
hình thức đạo đức bình thường mà ai nấy tùy ý thực hiện, như thể không có hiệu
quả gì hay bỏ qua một bên như là thua kém các việc đạo đức khác”[16]. Thật vậy, “việc tôn sùng
Thánh Tâm Chúa là một biểu hiện lớn lao lòng sùng mộ của Giáo Hội dành cho Chúa
Giêsu Kitô, vị Hôn phu và là Chúa của mình. Việc này bao gồm một thái độ căn bản
được tạo nên do sự hối cải và đền tạ, tình yêu và lòng biết ơn, việc dấn thân
làm tông đồ và tận hiến cho Đức Kitô và công trình cứu độ của Người”[17].
Chính vì thế các vị chủ chăn
trong Giáo Hội đã không ngớt đề cao việc tôn kính này, chân phước Phaolo VI đã
khẳng định: “Tôn sùng Thánh Tâm Chúa
Giêsu là việc rất cao quý và đặc biệt cần thiết cho thời đại này”[18]. Thánh Giáo Hoàng Gioan
Phaolô II hết sức khích lệ tín hữu
thi hành việc tôn kính Thánh tâm Chúa Giêsu khi nói: “Nhân loại ngày nay cần sứ
điệp phát xuất từ sự chiêm ngắm Thánh Tâm Chúa Kitô, nguồn mạch duy nhất, mà từ
đó, nhân loại có thể múc lấy những trữ lượng của đức khiêm nhượng và của sự tha
thứ cần thiết, để chữa lành những cuộc xung đột cam go đẫm máu”. Thánh Giáo
Hoàng nói tiếp, “Việc sùng kính Thánh tâm Chúa Giêsu có nghĩa là tiến vào tâm
điểm sâu xa nhất của con người Ðấng Cứu Thế, tòa ngự của tình yêu cứu chuộc thế
gian”, và ngài tiếp tục, “Nếu trái tim nhân loại biểu hiện một mầu nhiệm khôn
dò, một mầu nhiệm chỉ có một Thiên Chúa biết, thì Trái tim của Chúa Giêsu lại
càng không thể dò thấu; trong con tim ấy chính sự sống Ngôi Lời chuyển động, và
là nơi chứa đựng tất cả những kho tàng của sự khôn ngoan và hiểu biết, cũng như
tất cả sự viên mãn của thần tính”. Rồi ngài giải thích: “Ðể cứu chuộc con người,
Thiên Chúa đã muốn ban cho con người một trái tim mới, trái tim của Chúa Kitô,
kiệt tác Chúa thánh Thần, đã bắt đầu đập trong cung lòng trinh khiết của Mẹ
Maria và bị lưỡi đòng đâm thâu trên Thánh giá, do đó, trở nên nguồn mạch vô tận
của sự sống đời đời”[19].
2. Việc tôn kính Lòng Chúa Thương Xót
Qua việc tôn phong hiển thánh cho
Nữ Tu Faustina vào ngày 30-4-2000, thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đưa
phong trào sùng kính Lòng Chúa Thương Xót đạt tới điểm cực thịnh.
a. Mục đích việc tôn sùng Lòng Chúa Thương Xót
Xét về chiều dài lịch sử hình
thành phong trào sùng kính Lòng Chúa Thương Xót so với phong trào sùng kính Thánh
Tâm Chúa Giêsu thì thật ngắn ngủi[20], nhưng xét cho cùng việc
sùng kính Lòng Chúa Thương Xót đã được đâm rễ sâu trong việc tôn sùng Trái Tim
Chúa Giêsu. Trong cuốn nhật ký của thánh nữ Faustina, chúng ta sẽ thường xuyên
tìm thấy trong cuộc trò chuyện giữa thánh nữ và Chúa Giêsu, bao giờ Chúa cũng tỏ
ra cho biết Trái tim Chúa là nguồn mạch tuôn trào lòng thương xót:
- “Hỡi con nhỏ yêu dấu của Thầy, niềm vui của Trái Tim Ta, những lời
con nói còn dễ thương và làm thoả lòng Ta hơn cả ca đoàn các thiên thần. Tất cả
các bảo vật của Trái Tim Ta đều mở ra cho con. Con hãy chiếm lấy từ Trái Tim
này tất cả những thứ con cần, cho chính mình con cũng như cho cả thế giới. Vì
tình yêu của con, Ta cầm lại những trừng phạt công thẳng của Ta mà loài người
đáng chịu. Một tác động yêu thương thuần khiết làm Ta hài lòng hơn cả ngàn lời
cầu nguyện bất toàn. Chỉ một thủ thỉ của tình yêu cũng đủ làm tan đi nhiều tội
phạm mà kẻ vô thần chụp xuống trên Ta” (NK số 1489).
- “Ta sẽ tỏ cho con biết một bí mật của Trái Tim Ta: đó là điều các
linh hồn tuyển chọn làm Ta đau khổ. Lương thực liên lỉ của Trái Tim Ta là sự bội
bạc về phía linh hồn tuyển chọn đối với quá nhiều ơn Ta ban. Tình yêu của họ
ương ương dở dở làm cho Trái Tim Ta không sao chịu đựng được, những linh hồn
này buộc Ta ruồng bỏ họ... Con là vật chứa đựng của Lòng Thương Xót Ta, hãy nói
cho tất cả thế giới biết về lòng nhân lành của Ta, làm như thế, con sẽ an ủi
Trái Tim Ta”. (NK số 580)
- “Hỡi con gái của Thầy, hãy biết rằng Trái Tim Ta là chính Lòng Thương
Xót. Từ biển cả Lòng Thương Xót này mà các ơn lành tuôn trào xuống trên toàn thể
thế giới. Không một linh hồn nào tiến đến với Ta ra về mà không được ủi an. Tất
cả mọi khốn nạn được chôn táng trong đáy vực của Lòng Thương Xót Ta, rồi mọi ơn
cứu rỗi và thánh hoá tuôn ra từ nguồn mạch này. Con gái của Ta ơi, Cha mong sao
trái tim con là một chốn trú ngụ của Lòng Thương Xót Ta. Ta mong sao Lòng
Thương Xót này nhờ trái tim con mà tuôn tràn xuống trên cả thế giới. Đừng để
cho một người nào tiến đến với con ra về mà không tin tưởng vào Lòng Thương Xót
của Ta, một tình thương Ta thật nhiệt tình ước mong dành cho các linh hồn” (NK
số 1777).
Như thế chúng ta có thể nhận ra một
mối tương quan chặt chẽ giữa hai việc tôn sùng này. Cả hai đều quy về một dung
mạo Đức Giêsu Kitô, nhưng được trình bày dưới hai chiều kích khác nhau. Biểu tượng
của việc tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu là trái tim bị đâm thâu, và từ đó “nước
và máu chảy ra”. Các Giáo phụ đã nhìn thấy đó là hình ảnh của bí tích Rửa tội
và bí tích Thánh Thể; còn biểu tượng của Lòng Chúa Thương Xót là hình tượng
Chúa Giêsu phục sinh diễn tả Chúa phục sinh đem đến cho con người niềm an bình
với việc tha thứ các tội lỗi nhờ cuộc khổ nạn và cái chết của Người trên Thập
giá. Hình tượng có hai tia sáng nhạt và đỏ tỏa ra từ trái tim diễn tả nước
và máu vọt ra từ trái tim Chúa Giêsu bị lưỡi đòng đâm thâu. “Tia sáng nhạt diễn
tả nước, nhờ đó các linh hồn được nên công chính; tia sáng đỏ diễn tả máu, là sự
sống của các linh hồn. Phúc cho người sống dưới bóng chúng” (NK, tr. 235).
Việc tôn sùng Thánh tâm Chúa
Giêsu chính yếu hướng tới tình yêu của Thiên Chúa được biểu tỏ qua việc hiến tế
của Chúa Giêsu trên Thập Giá. Người chính là Con Thiên Chúa, là Đức khôn ngoan
tự hữu, là Tình Yêu vô biên, là Nguyên Lý cứu độ và thánh hóa toàn thể nhân loại.
Trong khi việc tôn sùng Trái Tim Chúa Giêsu hướng tới “chính bản thân Đức Kitô,
Ngôi Lời nhập thể. Trong Chúa Thánh Thần, Thánh Tâm Chúa Giêsu, tự bản chất đã
hướng về Chúa Cha và loài người, là anh em Người, bằng một tình yêu vô tận vừa
thuộc về thiên tính vừa thuộc về nhân tính”[21],
thì việc tôn kính Lòng Chúa Thương Xót “tập trung nơi bản thân Chúa Kitô chịu
chết và sống lại, nguồn ơn Chúa Thánh Thần, Đấng tha thứ tội lỗi và đem đến niềm
vui cứu độ”[22].
“Chính Đức Kitô Phục sinh là hiện
thân tỏ tường và dấu chỉ sống động của Lòng Chúa Thương Xót: dấu chỉ này vừa
mang tính lịch sử vừa mang tính cánh chung của ơn cứu độ”[23].
Có thể nói, việc tôn sùng Lòng Chúa Thương Xót hướng tới chiều kích cứu chuộc
con người qua sự tha thứ của Thiên Chúa phát xuất từ lòng thương xót của Ngài,
điều này được thực hiện qua việc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Đức
Kitô. Đức Phanxicô đã minh định: “Dung mạo lòng thương xót của Chúa Cha chính
là Đức Kitô Giêsu. Mầu nhiệm đức tin Kitô giáo như đã được tóm tắt đầy đủ trong
mệnh đề này. Nơi Đức Giêsu Nazareth, lòng thương xót đã trở nên sống động, hữu
hình, và đạt đến tột đỉnh. Chúa Cha, Đấng ‘giàu lòng thương xót’ (Ep 2,4), sau
khi đã mặc khải cho Môsê biết danh của Ngài là ‘Thiên Chúa thương xót và nhân hậu,
nhẫn nại, đầy lòng trắc ẩn và trung tín" (Xh 34,6) đã không ngừng mặc khải
thần tính của Ngài bằng nhiều cách thế và vào nhiều thời điểm khác nhau. ‘Lúc đến
thời gian viên mãn’ (Gl 4,4), khi mọi sự đã được sắp xếp đúng theo dự định cứu
độ, Ngài sai Người Con duy nhất của Ngài đến thế gian, được sinh ra bởi Trinh Nữ
Maria, để mặc khải cho chúng ta biết trọn vẹn tình yêu của Ngài. Ai thấy Đức
Giêsu là thấy Cha (x. Ga 14,9). Đức Giêsu Nazareth đã mặc khải lòng thương xót
của Thiên Chúa bằng lời nói, hành động và bằng cả bản thân Người”[24]. Việc thống hối, ăn năn trở
về để nhận được sự tha thứ của Thiên Chúa được coi như là tâm điểm của việc tôn
sùng Lòng Chúa Thương Xót. Trong cuốn nhật ký, thánh nữ Faustina đã ghi lại ý
muốn của Chúa: “Ta mong muốn ngày lễ Kính Lòng Chúa Thương Xót sẽ là nơi ẩn náu
và nương tựa cho tất cả các linh hồn và đặc biệt là những kẻ tội lỗi. Trong
ngày lễ này, Ta sẽ mở tận đáy lòng thương xót của Ta ra. Những linh hồn sốt sắng
đi xưng tội và rước Mình, Máu Thánh Chúa sẽ được nhận ơn tha thứ triệt để - cả
tội lỗi lẫn hình phạt” (NK số 699).
Thánh nữ Faustina đã cho chúng ta
thấy rõ mục đích của việc tôn kính Lòng Chúa Thương Xót trong cuốn Nhật ký của
ngài: trước tiên là gợi lại cho mọi người nhớ đến chân lý đức tin về lòng
thương xót của Thiên Chúa dành cho mỗi người, chân lý này đã được Thiên Chúa mặc
khải trong Kinh Thánh; kế đến là kêu cầu Lòng Chúa Thương Xót cho thế giới,
cách riêng cho các tội nhân bằng việc thực hiện một số hình thức sùng kính Lòng
Chúa Thương Xót như đã được chính Chúa Giêsu đã tỏ ra; sau cùng là cổ súy việc
tôn sùng Lòng Chúa Thương Xót nơi các tín hữu, để họ luôn khẩn nài Lòng Chúa
Thương Xót, xin ơn hoán cải và sự tha thứ cho các tội nhân trên toàn thế giới,
và cũng nhờ lòng sùng kính này, người tín hữu sẽ nỗ lực trở nên hoàn thiện hơn,
sống trọn vẹn tình con thảo qua việc hoàn toàn tín thác vào Chúa.
Thánh nữ còn cho biết việc loan
báo Lòng Chúa Thương Xót là nhiệm vụ khẩn thiết mà Chúa Giêsu đã ủy thác cho
thánh nữ. Trong bài giảng tại buổi lễ phong thánh cho thánh nữ, thánh Giáo
Hoàng Gioan Phaolô II đã nói: “Thực vậy, vào thời giữa hai cuộc Thế Chiến I và
II, Chúa Kitô đã ủy thác sứ điệp Lòng thương Xót của Người cho chị nữ tu này.
Những ai còn nhớ – những người đã chứng kiến và tham dự vào các biến cố của những
năm tháng ấy và những đau khổ kinh hoàng mà hai cuộc thế chiến đã gây ra cho
hàng triệu người – đều quá biết rằng sứ điệp Lòng Thương Xót khẩn thiết như thế
nào. Chúa Giêsu đã phán với nữ tu Faustina rằng: ‘Nhân loại sẽ không được bình
an cho đến khi nào quay về với Lòng Thương Xót của Cha với niềm tín thác (NK
300). Nhờ công việc của người nữ tu Ba Lan ấy, sứ điệp này đã mãi mãi được gắn
liền với thế kỷ XX, thế kỷ sau cùng của thiên niên kỷ II và cầu nối sang niên kỷ
thứ III. Đó không phải là sứ điệp mới mẻ, nhưng có thể được coi như một ân huệ
soi sáng đặc biệt giúp chúng ta sống Phúc Âm Phục Sinh một cách mãnh liệt hơn,
trình bày Phúc Âm ấy như một tia sáng cho những con người, nam cũng như nữ,
trong thời đại của chúng ta”[25].
b. Việc tôn sùng Lòng Chúa Thương Xót dưới hình thức
lòng đạo đức bình dân
Các thực hành tôn kính Lòng Chúa
Thương Xót dưới hình thức lòng đạo đức bình dân đều bắt nguồn từ cuốn nhật ký của
thánh nữ Faustina. Cuốn nhật ký này được thánh nữ viết trong bốn năm
(1931-1935)[26], nhằm ghi lại những sứ điệp
mà Chúa Giêsu trao cho chị trong các lần thị kiến. Ngày 6-3-1959 cuốn nhật ký
này bị Tòa thánh lên án, cấm phổ biến vì thấy có nhiều lệch lạc về tín lý.
Nguyên nhân dẫn đến điều này là do lỗi hai bản dịch từ tiếng Ba Lan sang tiếng
Pháp và tiếng Ý, gây ra hiểu lầm về sứ
điệp mà thánh nữ Faustina có nhiệm vụ phổ biến. Đến năm 1965, được sự chấp thuận
của Tòa Thánh, tổng Giám mục tổng giáo phận Kraków, Đức cha Karol
Wojtyła đã tiến hành nghiên cứu về đời sống và đức hạnh của thánh nữ
Faustina và phiên dịch lại cuốn nhật ký chuẩn xác hơn. Vào ngày 15-4-1978,
Thánh bộ Đạo lý Đức tin đã ban hành huấn thị mới, loại bỏ lệnh cấm và cho phép
phổ biến và quảng bá cuốn nhật ký cũng như phong trào tôn kính Lòng Chúa Thương
Xót[27]. Cuốn nhật ký được mang
tên: Divine Mercy in My Soul: The Diary of St. Faustina.
Tôn kính Dung mạo Lòng Chúa Thương Xót
Dung mạo Lòng Chúa Thương Xót được
trình bày qua hình vẽ Chúa Giêsu Phục sinh với hai luồng sáng từ Trái tim Chúa,
một luồng sáng màu trắng nhẹ, một luồng sáng màu đỏ. Mẫu của tấm hình này đã do
chính Chúa Giêsu cho chị Faustina thấy trong thị kiến ngày 22 tháng 2 năm 1931
trong phòng của tu viện tại Plock. Chị ghi lại trong nhật ký như sau: “Ban chiều
khi đang ở trong phòng của mình, tôi trông thấy Chúa Giêsu mặc chiếc áo trắng:
một tay giơ lên để chúc lành, trong khi tay kia chạm vào áo trên ngực, từ đó
nhích ra bên cạnh để cho hai luồng sáng lớn phát ra, một đỏ, một nhạt… Sau một
chút Chúa Giêsu nói với tôi: “Con hãy vẽ một hình giống mẫu con trông thấy, bên
dưới viết: “Giêsu, con tín thác nơi Chúa!” (Nhật ký, tr. 74). “Cha muốn tấm
hình này được làm phép một cách trọng thể vào ngày Chúa Nhật thứ nhất sau lễ Phục
Sinh, Chúa Nhật này phải là lễ của Lòng Thương Xót” (NK 75).
Năm 1934, nhờ cha linh hướng
Michal Sopócko của Thánh nữ giới thiệu, họa sĩ Eugeniusz Kazimirowski ở Wiln đã
vẽ tấm hình Lòng Chúa Thương Xót theo sự chỉ dẫn của thánh nữ Faustina. Hình dạng
Chúa Giêsu trong tấm hình được Chúa tỏ ra cho thánh nữ thấy trong thị kiến vào
ngày 22-02-1931, tại tu viện Plock, và vẽ lại theo ý Chúa muốn: “Con hãy vẽ một
bức hình, theo những gì con trông thấy đây, với lời ghi chú: Giêsu, con tín
thác vào Chúa”. Năm 1939, một năm sau cái chết của thánh nữ, Đức tổng giám mục Jałbrzykowski cho phép tôn kính bức ảnh này
cách công khai, nhờ đó phong trào tôn sùng Lòng Chúa Thương Xót được phát triển
cách mạnh mẽ, đặc biệt tại Balan. Vào năm 1943, một họa sĩ tên là Adolf Hyla đã
vẽ lại bức tranh Lòng Chúa Thương Xót, và đây là bức tranh chính thức thứ hai
(được treo trên mộ của Thánh nữ Maria Faustina trong tu viện Our Lady of Mercy ở
Cracow-Lagiewniki, Ba Lan), bức này được lan truyền và sao chép lại khá giống với
các bức hình mà ta thấy ngày nay. Vào ngày 24-6-1956, Đức Giáo hoàng Piô XII đã
làm phép bức ảnh này tại Roma. Vào năm 1955, Giám mục địa phận Gorzów đã thành lập hội dòng Chúa Giêsu Kitô,
Đấng cứu chuộc đầy lòng thương xót (the Most Holy Lord Jesus Christ, Merciful
Redeemer), nhằm phổ biến việc tôn sùng Lòng Chúa Thương Xót.
Bức hình diễn tả Chúa Kitô phục
sinh là niềm hoan lạc cho nhân loại. Sự Phục sinh của Chúa đã đem lại cho con
người niềm hy vọng lớn lao: sự chết đã bị hủy diệt, và sự sống nay được trao
ban cho mọi người, hai luồng sáng nói lên ơn cứu độ đến từ Lòng Chúa Thương
Xót, một vị Thiên Chúa đầy khoan dung và luôn sẵn lòng tha thứ mọi tội khiên.
Điều đó có được nhờ cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Giêsu trên Thập Giá.
Việc tôn kính dung mạo của Lòng
Chúa Thương Xót qua hình vẽ còn nhắc các tín hữu nhớ về thân phận nhỏ hèn của
mình, để luôn tín thác vào Chúa với trọn tình con thảo, để không kiêu ngạo hay
thất vọng, để không sống ích kỷ nhưng luôn biết thực thi đức ái. Chúa Giêsu đã
nói với thánh nữ: “Bức hình này nhắc nhớ các đòi buộc của lòng thương xót Cha,
bởi vì cả lòng tin mạnh mẽ nhất cũng không ích lợi gì, nếu không có các việc
làm” (NK 457).
Chúa Giêsu đã đưa ra các lời hứa
lớn lao cho những ai tôn kính dung mạo Chúa nơi đây: “Qua bức hình này Cha sẽ
ban nhiều ơn cho các linh hồn, vì thế mỗi linh hồn nên siêng năng tôn kính ảnh
này” (NK 379).
Lần chuỗi Lòng Chúa Thương Xót[28]
Trong cuốn nhật ký, thánh nữ kể lại:
vào ngày 13-9-1935, trong một thị kiến, thánh nữ thấy một thiên thần được Thiên
Chúa sai đến hủy diệt trái đất… Tôi thiết tha nài xin Chúa xót thương đến thế
giới với những lời cầu mà tôi nghe được tự đáy lòng. Khi tôi cầu nguyện như thế,
tôi thấy thiên thần Chúa như trở nên bất lực và không thể thi hành sự trừng phạt…
Lời cầu đó như sau: “Lạy Cha Hằng Hữu, con xin dâng lên Cha Mình và Máu, linh hồn
và Thiên Tính của con yêu dấu Cha là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con, để đền bù
tội lỗi chúng con và tội lỗi toàn thế giới” (NK 476). Những ngày kế tiếp, khi
vào nhà nguyện, thánh nữ lại nghe tiếng dạy chị cầu nguyện bằng các lời kinh đó giống như lần chuỗi hạt, hình
thức và cấu trúc của chuỗi hạt được hình thành từ sứ điệp của Chúa Giêsu.
Trong cuốn nhật ký, thánh nữ coi
việc lần chuỗi này là phương thế cầu nguyện cách hữu hiệu để cứu các tội nhân
khỏi bị rơi vào cảnh trầm luân đời đời theo như lời Chúa Giêsu dạy. Chúa nói:
“Con hãy thúc giục các linh hồn đọc chuỗi hạt Cha dạy cho con” (NK 1541). “Bất
cứ ai lần chuỗi này sẽ nhận được sự thương xót của Cha cách sung mãn vào giờ
lâm chung” (NK 687). “Khi các con cầu nguyện bằng chuỗi hạt này cho kẻ lâm
chung, Ta sẽ đứng giữa Cha Ta và kẻ lâm chung, không phải với tư cách Quan Toà,
nhưng với tư cách là vị cứu tinh tràn đầy lòng thương xót” (NK 1541). “Các linh
mục hãy giới thiệu chuỗi hạt này cho các tội nhân, vì đó là hy vọng cuối cùng của
họ. Cho dù tội nhân nào có cứng lòng cách mấy đi nữa, thì cũng sẽ nhận được ân
huệ từ lòng thương xót vô biên của Ta, nếu kẻ ấy chịu cầu nguyện bằng việc lần
chuỗi này chỉ một lần thôi” (NK 687). Thánh nữ còn khẳng định Chúa Giêsu hứa sẽ
ban cho kẻ kêu cầu bất cứ điều gì, nếu kẻ ấy cầu nguyện bằng việc lần chuỗi hạt
này, miễn điều kêu xin hợp ý muốn của Chúa (x. NK 1731). Ngoài ra Chúa Giêsu
còn hứa: “Lòng thương xót của Cha sẽ bao bọc các linh hồn lần chuỗi hạt này
trong khi sống và đặc biệt trong giờ chết” (NK 463).
Việc lần chuỗi này có thể đọc bất
cứ thời gian nào, nhưng đặc biệt vào Chúa nhật Lòng Chúa Thương Xót, và vào các
ngày thứ sáu hằng tuần lúc 3 giờ chiều. Đây là giờ Chúa Giêsu chịu chết trên
Thánh Giá, và được gọi là giờ của lòng thương xót. Chính Chúa Giêsu đã dạy
thánh nữ tôn kính giờ chết của Chúa: “Mỗi khi con nghe đồng hồ điểm ba giờ, hãy
nhớ dìm toàn thân mình con trong lòng thương xót của Cha, bằng cách thờ lạy và
chúc tụng Lòng Thương Xót này; hãy khẩn nài quyền năng của Lòng Thương Xót cho
toàn thế giới và đặc biệt cho các kẻ tội lỗi đáng thương, bởi vì chính trong giờ
đó lòng thương xót được mở toang ra cho mọi tâm hồn” (NK 820).
Tuần cửu nhật kính Lòng Chúa Thương Xót[29]
Để chuẩn bị mừng Lễ kính Lòng
Chúa Thương Xót, Chúa Giêsu dạy thánh nữ làm tuần cửu nhật, khởi đầu từ ngày thứ
Sáu Tuần Thánh. Chúa đã chỉ cho thánh nữ ý cầu nguyện của mỗi một ngày trong tuần
cửu nhật. Trong cuốn nhật ký thánh nữ cho biết Chúa Giêsu đã nói: “Mỗi ngày của
tuần cửu nhật con hãy mang về cho Trái tim Cha những linh hồn khác nhau và con
phải nhấn chìm họ trong đại dương bao la của lòng thương xót Cha… Mỗi một ngày
con phải cầu xin cùng Thiên Chúa Cha ban ân huệ cho các linh hồn này cậy dựa
vào cơn khổ nạn mà Cha đã chịu:
- Ngày thứ nhất: Cầu nguyện cho hết
mọi người, cách đặc biệt cho những kẻ tội lỗi;
- Ngày thứ hai: Cầu cho linh hồn
của các linh mục và các tu sĩ nam nữ;
- Ngày thứ ba: Cầu cho linh hồn của
những người đạo đức và trung tín;
- Ngày thứ tư: Cầu cho những người
không tin vào Chúa Giêsu và những người chưa nhận biết Chúa;
- Ngày thứ năm: Cầu cho linh hồn
của những người ly khai khỏi Giáo Hội Chúa;
- Ngày thứ sáu: Cầu cho linh hồn
những người hiền lành và khiêm nhường cùng linh hồn các trẻ thơ;
- Ngày thứ bảy: Cầu cho linh hồn
của những con người tôn kính và vinh danh Lòng Chúa Thương Xót cách đặc biệt;
- Ngày thứ tám: Cầu cho những
linh hồn đang bị giam cầm trong luyện ngục;
- Ngày thứ chín: Cầu cho linh hồn
của những người sống khô khan nguội lạnh.
3. Ảnh hưởng phong trào Lòng Chúa Thương Xót trong đời
sống Giáo Hội
Có thể nói phong trào tôn sùng
Lòng Chúa Thương Xót tạo ra nhiều ảnh hưởng tích cực cho đời sống của các tín hữu.
Đặc biệt, các sứ điệp mà Chúa mạc khải riêng cho thánh nữ Faustina đã mang lại
một ảnh hưởng rất lớn trên Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, ngài được gọi là vị
tông đồ cả của phong trào Lòng Chúa Thương Xót, bởi ngài đã nhận ra sức mạnh
canh tân và hoán cải con người qua việc tôn sùng Lòng Chúa Thương Xót. Ngài đã
minh nhiên tỏ lộ việc ngài dấn thân phát triển việc tôn sùng Lòng Chúa Thương
Xót qua giáo huấn cũng như đời sống cá nhân của ngài. Ngài đã thổ lộ sự nhiệt
thành của ngài đối với việc tôn sùng Lòng Chúa Thương Xót từ các sứ điệp được
thánh nữ Faustina trình bày trong cuốn nhật ký qua thông điệp cũng như qua các
giáo huấn của ngài. Ngài nói: “Quả thật,
khi bắt đầu nhiệm vụ của tôi trên ngai tòa Thánh Phêrô tại Rôma, tôi luôn
suy nghĩ về sứ điệp của Lòng Chúa Thương Xót trong các công việc đặc biệt của
tôi. Thiên Chúa quan phòng đã giao phó cho tôi trách nhiệm phục vụ Giáo Hội và
thế giới. Có thể nói được rằng, với nhiệm vụ này, trước mặt Thiên Chúa tôi có
trách nhiệm loan báo sứ điệp lòng thương xót trong các công việc của tôi”[30]. Trong các lá thư hay bài
giảng, ngài luôn trình bày về Lòng Chúa Thương Xót như là câu trả lời cho thế
giới về các vấn nạn đang gặp phải, và ngài coi các sứ điệp của Chúa Giêsu tỏ lộ
cho thánh nữ Faustina như là sứ điệp của thiên niên kỷ thứ ba. Ngài phong thánh
cho nữ tu Faustina, một con người gắn liền
với các sứ điệp được Chúa mạc khải riêng tư, không phải tại Ba Lan mà ngay tại
Rôma nhằm giới thiệu lòng thương xót của Chúa cho toàn thế giới.
Trong thông điệp “Thiên Chúa giàu
lòng thương xót”, có thể thấy ảnh hưởng của các sứ điệp được mạc khải cho thánh
nữ Faustina khi Thánh Giáo Hoàng khích lệ: “Giáo Hội công bố chân lý lòng
thương xót của Thiên Chúa, được mạc khải trong Đức Kitô chịu đóng đinh và đã Phục
sinh, và Giáo Hội tuyên xưng chân lý ấy bằng nhiều cách khác nhau. Ngoài ra
Giáo Hội cố gắng thực thi lòng thương xót đối với con người, vì thấy đó là một
điều kiện cần thiết cho mối quan tâm của mình về một thế giới tốt đẹp hơn và
“có tính nhân bản” hơn cho hôm nay và ngày mai. Tuy nhiên, không có lúc nào và
không một giai đoạn nào của lịch sử - nhất là ở một thời kỳ có tính quyết liệt
như thời chúng ta - mà Giáo Hội có thể quên lời cầu nguyện là một tiếng kêu cầu
tới lòng thương xót của Thiên Chúa khi đối diện với nhiều hình thức của sự dữ
đang đè nặng trên nhân loại và đe dọa nhân loại. Quyền và nghĩa vụ căn bản của
Giáo Hội, trong Đức Giêsu Kitô, là thế đó: chính là quyền và nghĩa vụ của Giáo
Hội đối với Thiên Chúa và đối với con người”[31].
Đặc biệt, khi phong thánh cho nữ
tu Faustina vào ngày 30-4-2000, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã công bố việc
tôn kính Lòng Chúa Thương Xót cách đặc biệt trên toàn thể Giáo Hội vào Chúa nhật
II Phục Sinh hằng năm, và ngày này được gọi là Chúa Nhật Lòng Chúa Thương Xót.
Khi công bố điều đó, Thánh Giáo Hoàng đã thực hiện điều mà thánh nữ Faustina
yêu cầu theo sự mong ước của Chúa Giêsu.
Khi nói về tông đồ của Lòng Chúa
Thương Xót, chúng ta không thể không nhắc tới Đức Thánh Cha Phanxicô. Có thể
nói triều đại của ngài là triều đại của Lòng Chúa Thương Xót. Với bầu nhiệt huyết
sẵn có, ngài đã trình bày không ngơi nghỉ về Lòng Chúa Thương Xót. Ngài luôn nhấn
mạnh: “Thiên Chúa là Thiên Chúa của lòng thương xót và trắc ẩn, Người luôn sẵn
sàng và quảng đại để tha thứ đồng thời giúp kẻ tội lỗi bắt đầu lại”[32]. Lòng thương xót Chúa là chủ
đề chính trong các bài giảng thuyết của Đức Phanxicô, và đó cũng là tiêu chuẩn
cho các mối tương giao với người khác.
Chắc chắn, hai vị thánh tông đồ của
Lòng Chúa Thương Xót,thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và thánh nữ Faustina,
cũng có ảnh hưởng rất nhiều trong triều đại của Đức Phanxicô. Đức Phanxicô
không phải vô tình đã chọn chiều ngày 11-4-2015 để ban hành tông sắc Misericordiae Vultus công bố khai mở Năm
thánh, vì chiều hôm đó là áp lễ Kính Lòng Chúa Thương Xót, một sự kiện liên hệ
đến hai vị thánh Gioan Phaolô II và Faustina. Trong tông sắc Đức Phanxicô đều
nhắc đến hai ngài:
- “Chúng ta không thể quên giáo
huấn sâu sắc của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II gửi cho chúng ta trong Thông
điệp thứ hai của ngài, Dives in
Misericordia, một Thông điệp được công bố ngoài mong đợi vào thời điểm ấy,
và đề tài được đưa ra cũng làm nhiều người kinh ngạc. […] Giáo huấn của ngài vẫn
còn giá trị và đáng để chúng ta học hỏi trong Năm Thánh này. Một lần nữa hãy
nghe ngài nói: “Giáo Hội có được đời sống chân thực khi tuyên xưng và phổ biến
lòng thương xót - thuộc tính kỳ diệu nhất của Đấng Tạo Thành và Cứu Chuộc -
cũng như khi đưa con người đến nguồn mạch của lòng thương xót nơi Đấng Cứu Thế,
lòng thương xót được giữ gìn và phân phát bởi chính Giáo Hội’ (Th. Gioan Phaolô
II, Thông điệp Dives in
Misericordia, 13)”[33].
- “Chúng ta đặc biệt nghĩ tới người
tông đồ vĩ đại của lòng thương xót, thánh nữ Faustina Kowalska. Thánh nữ được mời
gọi bước vào tận nơi sâu thẳm của Lòng Chúa Xót Thương, xin Thánh nữ chuyển cầu
và giúp chúng ta luôn sống và bước đi trong tình thương tha thứ của Thiên Chúa,
cũng như trong niềm tín thác kiên vững vào tình yêu của Ngài”[34].
Có thể nói được rằng việc sùng
kính Lòng Chúa Thương Xót đang mang lại nhiều kết quả tích cực trong đời sống của
người tín hữu. Phong trào tôn kính Lòng Chúa Thương Xót hiện nay được phổ biến
trong nhiều quốc gia trên khắp thế giới. Đặc biệt qua sự dấn thân hoạt động của
hàng triệu thành viên trong tổ chức "Tông đồ Lòng Chúa Thương Xót" gồm
các linh mục, tu sĩ và giáo dân, phong trào đã lớn mạnh ngoài sự mong đợi.
Phong trào không chỉ phát triển về con số, điều quan trọng là các thành viên của
phong trào nỗ lực thực thi điều mà Thánh nữ để lại: canh tân đời sống, siêng
năng lãnh nhận các bí tích, nhất là bí tích Hòa giải và Thánh Thể, siêng năng cầu
nguyện với chuỗi lòng thương xót để cầu nguyện cách đặc biệt cho kẻ có tội ăn
năn trở lại.
4. Nền tảng thần học cho việc phát triển phong trào
“Lòng Chúa Thương Xót”
Giáo Hội luôn khuyến khích người
tín hữu cố gắng thi hành những việc đạo đức, miễn sao việc thi hành luôn thích
hợp với các lề luật và quy tắc của Giáo Hội. Vì thế để phong trào “Lòng Chúa
Thương Xót” luôn đi đúng với đường lối của Giáo Hội, xin được đưa ra một vài
suy tư thần học nhằm hướng dẫn và thanh lọc việc sùng mộ “Lòng Chúa Thương Xót”
khỏi những hình thức mang sắc thái mê tín ngược lại với Giáo huấn của Giáo Hội:
(1) Tin Mừng là thước đo và là
tiêu chuẩn cho mọi hình thức của lòng đạo đức, vì thế, việc sùng mộ lòng Chúa
thương xót cũng không thể đi ra ngoài tiêu chí này. Qua các hình thức của việc
sùng mộ lòng Chúa thương xót đã trình bày ở trên chúng ta nhận ra một điểm
chung từ tấm ảnh Lòng Chúa Thương Xót, việc lần chuỗi và tuần cửu nhật đều được
xây dựng trên nền tảng Tin Mừng:
- Ảnh lòng Chúa thương xót diễn tả
mầu nhiệm Khổ nạn, chết và sự Phục sinh của Chúa Kitô. Thật vậy, Lòng Chúa
thương xót được diễn tả cách sâu đậm và tỏ tường nơi cuộc Khổ nạn và sự Phục
sinh của Chúa Giêsu. Tấm ảnh trình bày Chúa Kitô với chiếc áo dài trắng tinh
tuyền nói đến việc Chúa Phục sinh, một sự biến đổi đã được Chúa mạc khải qua cuộc
biến hình trên núi Tabor. Sự Phục sinh đó là niềm hy vọng của đức tin Kitô giáo,
niềm hy vọng được hình thành từ cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Giêsu trên Thập
Giá được trình bày qua hai tia sáng trắng nhạt và đỏ thẫm chiếu tỏa từ trái tim
Chúa, đó là ánh sáng của ơn cứu chuộc mà Chúa Kitô đã mang lại cho thế giới được
cụ thể hóa qua các bí tích: Rửa tội, Hòa giải và Thánh Thể. Chính qua các bí
tích này mà con người nhận được ơn cứu chuộc do bởi lòng Chúa thương xót.
Khi tỏ lòng sùng mộ trước tấm ảnh
này, người tín hữu được mời gọi sống điều mình tôn sùng, tức là phải thể hiện một
tấm lòng đạo đức đích thật qua việc siêng năng lãnh nhận Bí tích Hòa giải và
Thánh Thể. Đây là sứ điệp mà thánh nữ Faustina nhận từ nơi Đức Kitô. Việc tôn
sùng ảnh tượng lòng Chúa thương xót phải luôn là động lực thúc đẩy người tín hữu
canh tân cuộc sống qua việc siêng năng lãnh nhận các bí tích Hòa giải và Thánh
thể, qua đó người tín hữu luôn cảm nhận được sự thương xót của Chúa. Vì thế thật
là không thích hợp khi người tín hữu sử dụng tấm ảnh lòng Chúa thương xót như
“lá bùa hộ mệnh”, để tránh tai họa, để cầu may, cần phải loại bỏ việc tôn sùng
này, bởi cuộc Khổ nạn, cái chết và sự Phục sinh của Chúa là một biến cố của
lòng Chúa thương xót để cho chúng ta được sống đời đời, chứ không nhắm đến những
thực tại chóng qua này. Việc tôn sùng này phải đạt tới cùng đích của nó chính
là canh tân cuộc sống hướng tới việc siêng năng lãnh nhận các bí tích Hòa giải
và Thánh thể. Đó cũng hành vi mà thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhấn mạnh
trong Thông điệp “Thiên Chúa giàu lòng thương xót” khi cử hành việc sùng mộ lòng
Chúa thương xót[35].
Một trong những hành động của Năm
Thánh lòng Chúa thương xót chính là hành vi hối cải qua việc lãnh nhận bí tích
Hòa giải, bởi chính nơi đây tội nhân sẽ cảm nghiệm lòng Chúa xót thương. Đức
Phanxicô đã mời gọi: “Ước chi lời tha thứ sẽ chạm đến tất cả mọi người, và mong
đừng có ai dửng dưng trước lời mời gọi trải nghiệm lòng thương xót. Lời mời gọi
thống hối đó, tôi xin tha thiết gửi đến tất cả những ai vì lý do nào đó đang sống
xa rời ân sủng của Thiên Chúa. Tôi đặc biệt nghĩ đến những người nam, người nữ
đang tham gia vào một hình thức tổ chức tội phạm nào đó. Vì lợi ích của anh chị
em, tôi xin anh chị em hãy thay đổi lối sống. Tôi nài xin anh chị em điều đó,
nhân danh Con Thiên Chúa, Đấng kiên quyết loại trừ tội lỗi, nhưng không bao giờ
khước từ tội nhân”[36].
Theo sứ điệp mà Chúa Giêsu tỏ cho
thánh nữ Faustina, thì việc tôn sùng ảnh tượng Lòng Chúa thương xót chỉ mang lại
ơn ích thực sự khi mỗi người tín hữu biểu tỏ lòng thương xót qua các hành vi
bác ái, mà cụ thể là chia sẻ sự túng thiếu của người khác bằng sự giúp đỡ tận
tình của mình. Thánh nữ viết trong cuốn Nhật Ký: “Bức hình này nhắc nhớ các đòi
buộc của lòng thương xót Chúa Cha, bởi vì với lòng tin mạnh mẽ nhất cũng không
ích lợi gì, nếu không có các việc làm” (NK 457). Việc quyên góp của cải vật chất
để giúp đỡ người nghèo khó là hành vi đáng trân trọng của phong trào, thế nhưng
đừng để lòng tham chi phối việc đạo đức này. Đức Phanxicô đã nhắc nhở các tín hữu
phải thận trọng trong việc thực thi đức ái Kitô giáo, đừng để sự tham lam mặc lấy
dáng vẻ đạo đức nhằm trục lợi cho chính bản thân mình. Theo Đức Thánh Cha thì cội
rễ của các cuộc chiến, những chia rẽ trong gia đình, sự tranh chấp trong cộng
đoàn chính là lòng tham và việc lo tích lũy sự giàu có của chính bản thân[37].
(2) Việc lần chuỗi lòng Chúa
thương xót
Thánh bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí
tích đã chỉ dẫn: Lòng đạo đức bình dân phải có yếu tố “cảm hứng từ Phụng vụ, bởi
lẽ lòng đạo đức bình dân làm nổi bật hay ít ra phản ánh lại những mầu nhiệm được
cử hành trong những nghi thức Phụng vụ”[38].
Trong sứ điệp về chuỗi lòng Chúa thương xót chúng ta tìm thấy đầy đủ yếu tố “cảm
hứng từ Phụng vụ”: Khởi sự của việc lần
chuỗi là đọc “hạt lớn”: “Lạy Cha Hằng Hữu,
con xin dâng Cha Mình, Máu, Linh hồn, và Thiên tính của Con yêu dấu Cha là Đức
Giêsu Kitô, Chúa chúng con, để đền tạ tội lỗi chúng con và tội lỗi toàn thế giới”,
sau đó là 10 hạt nhỏ: “Vì cuộc tử nạn
đau thương của Chúa Giêsu, xin thương xót chúng con và toàn thế giới”. Và kết
thúc chuỗi hạt:”Lạy Cha Chí Thánh, Đấng
Toàn Năng, Đấng Hằng Hữu, xin thương xót chúng con và toàn thế giới”. Như vậy,
việc lần chuỗi “lòng thương xót” chính là kéo dài việc cử hành Thánh lễ trong
cuộc sống. Thật vậy, tâm điểm của Thánh Lễ chính là Hy tế Thập Giá Chúa Giêsu,
chính trong Hy tế này, chúng ta khám phá lòng thương xót của Thiên Chúa khi sẵn
sàng phó nộp người Con chí ái để cứu chuộc nhân loại. Quả thật, "Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến
nỗi" (Ga 3,16), "đã không
tha cho chính Con của Người, nhưng phó nộp Người vì chúng ta hết thảy."
(Rm 8,32). Chuỗi lòng thương xót minh định về lòng thương xót của Thiên Chúa, để
rồi cất tiếng khẩn cầu cho nhân loại đang đắm chìm trong tội lụy. Lời khẩn cầu
này không là lời vang vọng phát xuất từ con người, nhưng là lời học được từ lời
khẩn cầu của Chúa Giêsu trên Thập Giá, lời khẩn cầu bắt nguồn từ sự thương xót,
từ một vị Thiên Chúa đầy lòng khoan dung: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34).
Như vậy việc lần chuỗi lòng
thương xót không là lời lảm nhảm, nhưng phải là lời khẩn cầu của chúng ta được
vang lên từ một tấm lòng đạo đức thiết tha cầu xin lòng Chúa thương xót đoái
nhìn đến chúng ta là những kẻ có tội, để từ lời khẩn cầu này, chúng ta trở
thành thừa tác viên của lòng Chúa thương xót, qua việc chúng ta sống bao dung
và luôn tha thứ, điều mà Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nhắn nhủ: “Thế giới
loài người chỉ có thể ngày càng mang tính người hơn khi nào chúng ta đưa vào
trong mọi quan hệ hỗ tương giữa người với người sự tha thứ theo Tin Mừng. Sự
tha thứ cho thấy rằng trong thế giới tình thương mạnh hơn tội lỗi. Hơn nữa, tha
thứ là điều kiện trước tiên của sự hòa giải, chẳng những trong các tương quan
giữa Thiên Chúa với con người, mà còn trong những tương giao giữa người với người.
Một thế giới nếu trong đó người ta loại trừ sự tha thứ, thì sẽ chỉ là một thế
giới công bằng lạnh lùng và bất kính, để mỗi người nhân danh nó mà đòi hỏi những
tư lợi đối với kẻ khác; như thế, mọi ích kỷ tiềm tàng trong con người sẽ có thể
biến đổi đời sống và xã hội ấy thành một hệ thống: cá lớn nuốt cá bé, hoặc
thành một đấu trường cho người ta thường xuyên xung đột lẫn nhau”[39].
Đức Phanxicô vào Chúa nhật ngày
21-2-2016, tại buổi đọc kinh Truyền tin, khi phân phát 40.000 chuỗi Lòng thương
xót cũng nhấn mạnh: “Anh chị em hãy nhận lấy chuỗi Lòng Thương Xót như là một sự
trợ giúp tinh thần để phổ biến tình yêu thương, sự tha thứ và tình huynh đệ, đặc
biệt trong Năm Thánh Lòng Thương Xót này”[40].
Vì thế, việc lần chuỗi lòng
thương xót còn phải là lời van xin cho được ơn biết thứ tha, biết biểu lộ “tình
thương đến tất cả mọi người, không loại trừ hay kỳ thị ai cả, không phân biệt
chủng tộc, văn hóa, ngôn ngữ, vũ trụ quan, không phân biệt bạn và thù”[41], một tình thương biết chăm lo cho mọi người được điều thiện hảo
và quan tâm đến việc đẩy xa và trừ khử mọi sự dữ nơi mọi người. Thế nhưng, trong thực hành, các tín hữu khi lần chuỗi
lòng thương xót đôi khi dừng lại ở lời van xin ơn lành cho chính mình và những
nhu cầu trần thế, chẳng hạn ơn chữa lành bệnh tật thể xác. Và vì quá chú trọng
vào điều đó nên thường nảy sinh những lạm dụng gây ra hiểu lầm. Cần phải loại
trừ những hình thức tục hóa của lòng sùng mộ lòng Chúa thương xót như đặt tay
chữa bệnh, chứng nhân về ơn chữa lành… tất cả những điều đó đều không phù hợp với
sứ điệp của thánh nữ Faustina về lòng Chúa thương xót và các giáo huấn của Giáo
Hội.
(3) Khi khuyến khích thực hành
các hình thức đạo đức bình dân các Nghị phụ Công Đồng Vaticanô II đặc biệt lưu
ý: Phụng vụ vượt trổi hơn hẳn những thực hành thuộc lòng đạo đức bình
dân nói đến, nên phải tổ chức các việc đạo đức ấy tùy theo các mùa
phụng vụ để luôn hòa hợp với Phụng vụ thánh, được khởi nguồn từ
Phụng vụ và dẫn mọi người đến với Phụng vụ (SC số 13). Vì thế, đỉnh
cao của phong trào sùng mộ lòng Chúa thương xót phải hướng tới Thánh lễ Lòng Chúa
thương xót được cử hành vào Chúa Nhật II Phục Sinh. Không để bất cứ một hành vi
đạo đức nào vượt qua khỏi việc cử hành Phụng vụ Thánh này. Và để chuẩn bị cho
việc cử hành này, sứ điệp thánh nữ Faustina đã yêu cầu làm tuần cửu nhật theo ý
chỉ của từng ngày mà sứ điệp đề cập tới. Do đó không thể làm tuần cửu nhật mà
không kết thúc bằng Thánh Lễ kính Lòng Chúa thương xót vào Chúa nhật II Phục
sinh, bởi biến cố Phục sinh là đỉnh cao của Lòng Chúa Thương Xót. Cho nên phải
thanh luyện mọi hình thức sùng mộ được biểu tỏ qua các hành vi đạo đức để hướng
tới việc cử hành Phụng vụ, cũng không thể xen kẽ các việc đạo đức trong Thánh lễ,
bởi Phụng vụ chiếm vị thế ưu tiên tuyệt đối đối với các hình thức cầu nguyện
khác của tín hữu.
5. Kết
Mặc dầu “Phụng vụ là tột đỉnh quy
hướng mọi hoạt động của Giáo Hội, đồng thời là nguồn mạch tuôn trào mọi năng lực
của Giáo Hội” (SC, số 10), nhưng những việc đạo đức bình dân cũng đóng vai trò
không nhỏ trong việc thánh hóa đời sống của Dân Chúa. Nhờ phong trào tôn sùng
Trái tim Chúa, Giáo Hội mới thiết lập Lễ Thánh Tâm; nhờ có phong trào sùng kính
Lòng Chúa Thương Xót, trong Giáo Hội mới xuất hiện Lễ kính Lòng Chúa Thương
Xót. Rõ ràng, lòng đạo đức bình dân trong đời sống dân Chúa đã mang lại sự
phong phú trong việc tôn thờ Chúa và tăng thêm năng lực cho đoàn dân đang lữ
hành tiến về Nhà Cha. Xét cho cùng, chính lòng đạo đức bình dân đã nuôi dưỡng đời
sống thiêng liêng của Dân Chúa, nhờ đó đức tin của họ được củng cố. Bởi thế có
thể hiểu được rằng lòng đạo đức bình dân được hình thành cũng từ cảm thức đức
tin, một cảm thức bắt nguồn từ việc được xức dầu Thánh thần nơi các tín hữu,
“nhiều nguồn Kitô Giáo rất sớm đã chứng thực rằng tín hữu, nhờ được xức dầu đặc
biệt đã có khả năng biết và tuyên xưng sự thật của Tin Mừng (1 Ga 2,20.27) và
Giáo Hội, như một toàn thể, nhờ được Chúa Thánh Thần dạy dỗ, không thể lầm lẫn
trong các vấn đề thuộc đức tin (x. Ga 16,13; 1 Tm 3,15)”[42].
Tuy nhiên, trong bối cảnh một thế
giới đang có khuynh hướng tục hóa các vấn đề thuộc thánh thiêng, nhất là ở Việt
Nam, người tín hữu dễ bị xao động trước các lối sống thực dụng, nên cũng dễ bị
lôi cuốn vào vòng xoáy thực dụng hóa các hình thức biểu tỏ lòng đạo đức, vì thế,
các chủ chăn trong Giáo Hội cần lưu tâm hướng dẫn việc thực hành các hình thức
đạo đức bình dân cho phù hợp với Giáo lý Công Giáo.
Ở Việt Nam mỗi năm người ta tổ chức
khoảng 8.000 lễ hội, không chỉ để vui chơi nhưng tất cả được lồng vào đó các
hình thức thờ tự cúng vái với mục đích cầu lợi. Nhà báo Nguyễn Hoàng đã đưa ra
nhận định để nói lên tình trạng lễ hội ở Việt Nam:
“Ở chốn non thiêng Yên Tử, người
ta dùng tiền để "đánh bóng" cả chùa Đồng. Mỗi người dân cầm trên tay
một tờ tiền rồi thi nhau chạm vào chùa Đồng. Ở chùa Bái Đính, ngôi chùa to, đẹp
thuộc hàng nhất Việt Nam, năm nào người ta cũng bắt gặp hình ảnh du khách thập
phương nhét tiền vào tay tượng Phật. Còn ở lễ hội chùa Hương, việc chen lấn, xô
đẩy, cò mồi,… trở nên quá quen thuộc. Những việc này đã tồn tại qua nhiều
năm nhưng đến giờ vẫn chưa được giải quyết triệt để. Trong lễ khai ấn Đền Trần,
ngoài cảnh “cướp ấn” quen thuộc thì chúng ta còn bắt gặp hình ảnh những người
dân sẵn sàng trèo lên bàn thờ để cầu may hay thi nhau dùng tiền để “đánh bóng”
đồ thờ của đền. Chỉ cần đạt được mục đích của mình mà họ sẵn sàng làm những việc
vô cùng phản cảm”[43]. “Việc đổ xô đến các điểm
thờ tự đang mang tính phong trào và bị ‘thực dụng hoá’ khiến cho các điểm tâm
linh bị quá tải và hệ quả là hàng loạt các vấn nạn xảy ra làm cho nét văn hoá
đáng tự hào bỗng trở nên đáng sợ. Việc đổ xô đi lễ chùa bây giờ không đơn thuần
là vừa đi cầu bình an, vừa du xuân vãn cảnh nữa mà đã bị biến tướng thành “trào
lưu” đi giải hạn, đi cầu thăng quan tiến chức, đi ‘mua chuộc’ thần Phật… Một số
nhà nghiên cứu văn hoá tỏ ra thất vọng khi xã hội càng phát triển con người lại
càng mê muội và tham lam. Chính lòng tham đang hủy hoại dần những nét văn hoá
mà cha ông đã mất bao công sức gầy dựng”[44].
Các biểu hiệu đó cũng đang thâm
nhập dần vào các hình thức biểu tỏ lòng đạo đức của người tín hữu Việt Nam dưới
các hình thức tôn sùng Chúa, Đức Mẹ và các Thánh. Lòng sùng mộ đang biến dạng
và dễ trở thành những hình thức trục lợi, mua bán thần thánh, mê tín… Vì thế,
các chủ chăn trong Giáo Hội cần quan tâm điều chỉnh những biểu hiệu của lòng đạo
đức bình dân bị biến chất do các yếu tố không phù hợp với Giáo lý của Hội Thánh
Công Giáo; và Hội Đồng Giám Mục Việt Nam cũng cần đưa ra những chỉ dẫn để làm
sao tránh khỏi những thái độ trái ngược nhau đối với lòng đạo đức bình dân, chẳng
hạn: “thái độ xóa bỏ dứt khoát và hấp tấp những hình thức đạo đức kế thừa quá
khứ mà hệ quả là để lại những lỗ hổng thường không thể nào lấp đầy được; thái độ
bám chặt vào hình thức đạo đức khiếm khuyết và sai lệch, khiến cho các tín hữu
xa dần với mạc khải chân chính của Kinh Thánh và trở nên đố kỵ với nhiệm cục bí
tích; thái độ phê phán vô căn cứ đối với lòng đạo đức của người bình dân nhân
danh cái gọi là ‘sự thuần khiết’ của đức tin, thái độ đòi phải bảo vệ những mặt
phong phú của lòng đạo đức bình dân, vốn biểu hiện do cảm thức đạo đức sâu sắc
và chín chắn của tín hữu trong một không gian và một thời điểm nhất định…”[45].
Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 94 (Tháng
5 & 6 năm 2016)
[1] Đức Phanxicô,
Tông sắc Misericordiae vultus, ban
hành ngày 11 tháng 4 năm 2015 - Vọng Chúa Nhật II Phục Sinh - Chúa Nhật Lòng
Thương Xót, số 9.
[2] Thánh Giáo Hoàng
Gioan Phaolô II, Bài Giảng Chúa Nhật II Phục
Sinh, Lễ kính lòng thương xót, 23-4-1995, Roma.
[3] Đức Phanxicô,
Tông sắc Misericordiae vultus, ban
hành ngày 11 tháng 04 năm 2015- Vọng Chúa Nhật II Phục Sinh - Chúa Nhật Lòng
Thương Xót, số 11.
[4] Trích trong cuốn
Nhật Ký của Thánh nữ Maria Faustina Kowalska,
số 1142, nguồn: http://giesu.net/home/tieu-su-thanh-nu-faustina-kowalska/
[5] Ủy Ban Thần Học Quốc Tế, Cảm thức Đức tin trong đời sống Giáo Hội (Sensus fidei in the Life
of the Church) Công bố năm 2014, số 49, http://www.vatican.va/roman_curia/congregations/cfaith/cti_documents/rc_cti_20140610_sensus-fidei_en.htm
[6] Ủy Ban Thần Học
Quốc Tế, Cảm thức Đức tin trong đời sống
Giáo Hội (Sensus fidei in the Life of the Church), Công bố năm 2014, số
109.
[7] Thánh Bộ Phụng
tự và Kỷ luật Bí tích, Directory on
popular piety and the Liturgy principles and guidelines, ban hành ngày
17-12-2001, số 9, bản dịch Việt ngữ của
Ủy Ban Văn Hóa trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam năm 2003.
[8] Thánh Bộ Phụng
tự và Kỷ luật Bí tích, Directory on
popular piety and the Liturgy principles and guidelines, ban hành ngày
17-12-2001, số 167, bản dịch Việt ngữ
của Ủy Ban Văn Hóa trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam năm 2003.
[9] X. Thánh Bộ
Phụng tự và Kỷ luật Bí tích, Directory on
popular piety and the Liturgy principles and guidelines, ban hành ngày
17-12-2001, số 167, bản dịch Việt ngữ
của Ủy Ban Văn Hóa trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam năm 2003.
[10] X. Thánh Bộ
Phụng tự và Kỷ luật Bí tích, Directory on
popular piety and the Liturgy principles and guidelines, ban hành ngày
17-12-2001, số 169, bản dịch Việt ngữ
của Ủy Ban Văn Hóa trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam năm 2003.
[11] X. Thánh Bộ
Phụng tự và Kỷ luật Bí tích, Directory on
popular piety and the Liturgy principles and guidelines, ban hành ngày
17-12-2001, số 170, bản dịch Việt ngữ
của Ủy Ban Văn Hóa trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam năm 2003.
[12] Thánh Bộ Phụng
tự và Kỷ luật Bí tích, Directory on
popular piety and the Liturgy principles and guidelines, ban hành ngày
17-12-2001, số 171, bản dịch Việt ngữ
của Ủy Ban Văn Hóa trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam năm 2003.
[17] Thánh Bộ Phụng
tự và Kỷ luật Bí tích, Directory on popular
piety and the Liturgy principles and guidelines, số 172.
[18] Đức Chân phước Giáo Hoàng Phaolô VI,
Huấn dụ về "Tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu", ban hành ngày 06-02-1965
nhân kỷ niệm 200 năm thành lập Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu.
[19] Thánh Giáo Hoàng
Gioan Phaolô II, Diễn từ buổi đọc kinh
truyền tin tại quảng trường thánh Phêrô, ngày 23-06-2002.
[20] Việc tôn
sùng Lòng Chúa Thương Xót khởi sự từ việc tôn kính tấm hình Lòng Chúa Thương
Xót. Dung mạo mà
Chúa Giêsu tỏ cho thánh nữ Faustina thấy năm 1931, sau đó được họa sĩ Eugeniusz
Kazimirowski ở Wiln vẽ lại . Năm 1941 phong trào lan rộng tới Hoa kỳ với hàng
triệu tấm ảnh Lòng Chúa Thương Xót được in ấn và được phân phát nhiều nơi trên
thế giới. Vào năm 1951, sau cái chết của thánh nữ Faustina 13 năm, tại Balan có
150 trung tâm tôn sùng Lòng Chúa Thương Xót.
[21] Thánh Bộ Phụng
tự và Kỷ luật Bí tích, Directory on
popular piety and the Liturgy principles and guidelines, số 166.
[22] Thánh Bộ Phụng
tự và Kỷ luật Bí tích, Directory on
popular piety and the Liturgy principles and guidelines, số 154.
[25] Thánh Giáo Hoàng
Gioan Phaolô II, Bài giảng tại buổi lễ
phong thánh cho thánh nữ Faustina, ngày 30-4-2000, tại quảng trường thánh
Phêrô.
[30] Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Bài giảng tại đền thờ Merciful Love, ở Collevalenza, Italy vào ngày
22-11-1981.
[38] Thánh Bộ Phụng
tự và Kỷ luật Bí tích, Directory on
popular piety and the Liturgy principles and guidelines, số 12.
[40] Nguồn: https://gphaiphong.org/tin-giao-hoi/dtc-keu-goi-pho-bien-tinh-yeu-thuong-su-tha-thu-va-tinh-huynh-de-dac-biet-trong-nam-thanh-long-thuong-xot-1000.html
[42] Ủy Ban Thần Học
Quốc Tế, Cảm thức Đức tin trong đời sống
Giáo Hội (Sensus fidei in the Life of the Church) Công bố năm 2014, phần
giới thiệu tổng quát.
[43] Nguyễn Hoàng, 8.000 lễ hội mỗi năm khiến người Việt tụt hậu, nguồn: http://vnexpress.net/tin-tuc/cong-dong/8-000-le-hoi-moi-nam-khien-nguoi-viet-tut-hau-2952576.html
[44] Hà Tùng Long, Lòng tham của người Việt khiến đền, chùa quá tải vào đầu năm?,nguồn:
http://dantri.com.vn/van-hoa/long-tham-cua-nguoi-viet-khien-den-chua-qua-tai-vao-dau-nam-20160219070737265.htm
[45] Ủy Ban Thần Học
Quốc Tế, Cảm thức Đức tin trong đời sống
Giáo Hội (Sensus fidei in the Life of the Church), Công bố năm 2014, số 1.