PHÁI NGŨ TUẦN VÀ NHỮNG THÁCH ĐỐ CHO GIÁO HỘI
CÔNG GIÁO
Gm. Phêrô Nguyễn Văn Khảm
Một số thông tin
Phái
Ngũ Tuần hay còn được gọi là phong trào Hiện Xuống (Pentecostalism) mới chỉ
bùng nổ vào những năm 1906-1909 ở Azusa Street tại Los Angeles (Hoa Kỳ), thế mà
chỉ sau 100 năm, số tín đồ hiện tại (bao gồm cả phong trào canh tân đặc sủng của
Công giáo) đã lên tới 600 triệu người, nghĩa là trở thành cộng đồng Kitô hữu lớn
hàng thứ hai, chỉ sau Giáo hội Công giáo (1 tỷ 100 triệu) và lớn hơn các Giáo hội
Tin Lành khác. Riêng tại Á châu, con số tín đồ thuộc phong trào này đã lên tới
135 triệu, phần lớn ở Hàn quốc, Trung Hoa, An Độ, Indonesia, nhưng cũng khá mạnh
tại Philippines, Myanmar và Nhật Bản.
Sự phát triển của phong trào Hiện
Xuống đồng thời cũng là mối đe dọa nặng nề cho Giáo hội Công giáo, bởi lẽ khá
nhiều tín hữu công giáo đã rời bỏ Giáo hội để gia nhập phong trào này. Từ sheep-stealing (ăn cắp chiên) được sử dụng
nghe sao cay đắng và xót xa cho dẫu phản ánh khá trung thực cách thế mà phong
trào này áp dụng để lôi kéo tín đồ, những cách thế không mấy phù hợp với tinh
thần Kitô giáo. Tình hình này đã là nỗi băn khoăn mà các giám mục từ nhiều miền
trên thế giới đề cập với Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II và Bênêđictô XVI suốt 20
năm qua.
Ngoài ra, cũng nên ghi nhận phong
trào này đã có mặt tại Việt Nam nhưng xem ra người Công giáo Việt Nam không nắm
được tình hình. Theo phân tích của các chuyên viên thì phong trào này đã có mặt
tại nhiều nước trong khu vực Á châu nhưng ở những giai đoạn khác nhau: giai đoạn
ấu thơ, giai đoạn đang phát triển, và giai đoạn thành công rực rỡ. Theo đó, phong trào Hiện Xuống tại Việt Nam
được xếp vào giai đoạn ấu thơ, nghĩa là đã có sự hiện diện và đang tìm đường
phát triển. Từ khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO, cánh cửa đất nước mở rộng
cho tiến trình toàn cầu hoá, đây là cơ hội thuận tiện cho phong trào này phát
triển mạnh như tại Hàn quốc, Singapore, Malaysia, Philippines, và Indonesia.
Và những bài học
Những thông tin trên kéo theo những
nỗi e ngại khi tự hỏi: Giáo hội Công giáo tại Việt Nam đã biết đến tình hình
này chưa? Đối diện với tình hình đó, định hướng mục vụ nào có thể được coi là
thích hợp và hiệu quả nhất?
Có lẽ phản ứng tự nhiên là lên
án, lên án những sai lầm về mặt đức tin cũng như cách thế chiêu dụ tín đồ của
phong trào này. Thế nhưng nếu chỉ ngưng lại ở đó thì liệu có ích lợi gì ? Chính
ở đây, khá nhiều bài học có thể rút ra từ kinh nghiệm mục vụ của các Giáo hội
chị em tại châu Á.
Bài học đầu tiên là cần mang lấy
một lối nhìn tích cực hơn là tiêu cực, nghĩa là khám phá nơi đó sự hồi sinh tôn giáo. Chính Đức Gioan Phaolô II là
người đi bước trước về thái độ này. Trong thông điệp Redemptor hominis, Ngài đã nhìn vấn đề và những thách đố của nó
trong bối cảnh của một cuộc hồi sinh tôn giáo khi ngài viết: “Thời đại chúng ta
vừa vĩ đại vừa hấp dẫn. Một đàng, trong khi xem ra người ta đang theo đuổi sự
thịnh vượng vật chất và càng lúc càng chìm sâu trong chủ nghĩa tiêu thụ và duy
vật, đàng khác ta lại đang chứng kiến sự kiếm tìm ý nghĩa đời sống, nhu cầu đời
sống nội tâm, và một khát vọng học hỏi những hình thức và phương pháp mới giúp
suy niệm và cầu nguyện. Không chỉ trong các nền văn hoá vốn có những yếu tố mạnh
về tôn giáo nhưng ngay cả trong những xã hội tục hoá, người ta vẫn kiếm tìm chiều
kích thiêng liêng của đời sống như phương thuốc chống lại tình trạng phi nhân.
Hiện tượng này, cái được gọi là sự hồi sinh tôn giáo, không phải là không mơ hồ
nhưng cũng là một cơ may” (số 38). Là một cơ may bởi lẽ người môn đệ Chúa Giêsu
có thể giới thiệu cho thời đại này Tin Mừng như là lời đáp trả tuyệt hảo cho những
khát vọng căn bản và sâu xa nhất của con người. Thế nhưng vấn đề là tại sao người
ta không tìm thấy câu trả lời trong Giáo hội Công giáo mà lại đi tìm ở nơi
khác, kể cả người Công giáo cũng bỏ đạo mà đi theo họ?
Câu hỏi đó dẫn đến bài học thứ
hai mà hội nghị này muốn mọi tham dự viên quan tâm, ấy là thay vì trách người
thì phải trách mình, thay vì vội vã lên án thì phải tự tra vấn cung cách làm mục vụ của mình. Đức Hồng y Walter Kasper
đã nhấn mạnh đặc biệt điểm này khi ngài nói: Phản ứng đầu tiên của ta là phải
nghiêm túc xét lại cách làm mục vụ của mình. Phải tự hỏi xem tại sao một số người
Công giáo lại bỏ Giáo hội và trở thành những nạn nhân của các giáo phái và các
nhóm ngoài Công giáo? Chúng ta không nên chỉ dừng lại với câu hỏi: đâu là điểm
sai lầm của những giáo phái này, nhưng phải tự hỏi chính mình sai ở chỗ nào?
Trong lòng Giáo hội, tín hữu cảm thấy thiếu thốn điều gì đến nỗi phải bỏ Giáo hội
mà đi tìm trong những phong trào và giáo phái khác? Ta có thể học được điều gì
từ họ?
Phong trào Hiện Xuống nhấn mạnh đến
ba điểm, có thể được tóm tắt bằng ba từ tiếng Anh: believing, belonging, và behaving.
Believing là tin. Dĩ
nhiên cả người Công giáo cũng như tín đồ của phong trào Hiện Xuống đều nhấn mạnh
đến đức tin. Thế nhưng điều đáng nói là phong trào Hiện Xuống đề cao cảm nghiệm,
cảm nghiệm tình yêu Thiên Chúa, cảm nghiệm sự hiện diện và tác động của Thánh
Thần, được biểu hiện cách cụ thể qua các đặc sủng, việc nói tiếng lạ, chữa lành
bệnh tật thể xác cũng như tâm hồn... Những câu hỏi mà các tín đồ của phong trào
Hiện Xuống hay đặt ra cho người khác là: Bạn đã gặp Chúa chưa? Bạn đã nhận Chúa
Giêsu vào lòng bạn chưa? Bạn đã thực sự là Kitô hữu chưa? Bạn có cảm nghiệm được
tình yêu của Chúa chưa? Đồng thời những
buổi cầu nguyện của phong trào này thường đầy cảm xúc, tác động mạnh trên tình
cảm của người tham dự. Trong khi đó, xem
ra phía Công giáo nhấn mạnh nhiều đến chân lý về mặt tri thức và có vẻ coi nhẹ
cảm nghiệm vì cho rằng nó nặng cảm tính và dễ mang tính chủ quan. Câu hỏi có thể
đặt ra là phải chăng chúng ta đã quá nhấn mạnh đến ý tưởng hơn là tình cảm, đến
chân lý khách quan (objectivity) mà xem thường sự đáp ứng chủ quan của tín hữu
(subjectivity)? Chẳng hạn như trong công tác giảng dạy, ta nhấn mạnh nhiều đến
những lý luận mà không quan tâm xem những lý luận đó tác động trên tình cảm người
nghe ra sao và được đón nhận thế nào. Rồi cử hành phụng vụ của ta không biết có
tác động trên tâm hồn người tham dự không hay chỉ là những nghi thức máy móc,
vô hồn? Nếu khoa tâm lý ngày nay nói với ta rằng không phải những ý tưởng nhưng
chính tình cảm mới là cái gì sâu xa nhất nơi con người và có thể huy động sức mạnh
của toàn bộ con người, thì nhận xét đó lại chẳng nên quan tâm trong cung cách
làm mục vụ sao?
Thế rồi khi người Kitô hữu đặt niềm
tin vào Chúa Kitô, thì đồng thời họ thuộc về Giáo hội của Chúa, đó là belonging.
Nói về mặt lý thuyết là thế nhưng vấn đề là trong thực tế, người tín hữu có cảm
nhận được rằng họ đang thuộc về một cộng đoàn, và được cộng đoàn đó yêu thương,
quan tâm chăm sóc không. Không ít người cho rằng các cộng đoàn giáo xứ công
giáo thường rộng lớn với nhiều ngàn người, vì thế khi đến nhà thờ dâng Thánh lễ,
nhiều tín hữu cảm thấy mình như kẻ xa lạ và vô danh chứ không phải là thành
viên của một cộng đoàn. Ấy là chưa kể đến một vài người có trách nhiệm mục vụ lại
thích mang bộ mặt hình sự với giáo dân! Có vị giám mục Hồng Kông kể rằng có nhiều
người công giáo Philippines sang Hồng Kông làm việc, và mỗi Chúa nhật, họ đến dự
những buổi cầu nguyện của phong trào Hiện Xuống chứ không đi dâng lễ. Lý do là
vì ở đó họ gặp được sự đón tiếp rất nồng hậu và cảm thấy được thoát ra khỏi tâm
trạng cô đơn của những người phải làm việc xa nhà. Còn vị giám mục ở Mindanao,
Philippines thì chia sẻ rằng ngài không phải lo lắng gì về phong trào này trong
giáo phận của ngài, vì phần lớn các tín hữu thuộc về những cộng đoàn giáo hội
cơ bản rất gắn bó với nhau và quan tâm chăm sóc cho nhau những gì rất cụ thể
trong đời sống. Âu cũng là những kinh nghiệm quý báu cho các mục tử.
Cuối cùng, behaving là lối sống của
những ai tin vào Chúa Kitô. Ở đây không muốn nói đến chuyện luân lý đạo đức
nhưng chỉ liên tưởng đến điều mà Đức Hồng y Walter Kasper nhìn nhận rằng người
Công giáo nên học hỏi từ các tín đồ của phong trào Hiện Xuống, ấy là dám tuyên
xưng và làm chứng cho đức tin của mình. Cho dẫu không bằng lòng với cách thế
loan báo Tin Mừng và chiêu dụ tín đồ của phong trào này, ta vẫn không thể phủ
nhận sự nhiệt thành và lòng can đảm của họ trong việc giới thiệu Chúa Giêsu và
Tin Mừng của Ngài cho người khác. Họ sẵn sàng nói về Chúa ở bất cứ nơi đâu và
nói say sưa, nói với tất cả xác tín. Còn người Công giáo thì sao? Trong nghi thức
rửa tội, sau khi mời gọi người xin lãnh nhận Phép Rửa tuyên xưng đức tin, vị chủ
sự kết thúc “Đó là đức tin của chúng ta, đó là đức tin của Hội Thánh. Chúng ta
hãnh diện tuyên xưng đức tin đó trong Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta.” Thế nhưng
không biết người Công giáo có thực sự hãnh diện về đức tin của mình không? Có
trang báo nào đó kể rằng trong một lớp học, khi giáo sư hỏi sinh viên nào là
người Công giáo, chỉ có hai, ba cánh tay ngần ngại giơ lên đang khi có ít nhất
là 10 sinh viên Công giáo trong lớp! Hình như mỗi lần ngồi ăn trong nhà hàng
hay ngoài quán chợ, người Công giáo cũng cảm thấy ngại ngùng khi phải làm dấu
Thánh Giá trước bữa ăn. Nghe những nhận xét đó, có người giáo dân phản ứng ngược
lại: ngay cả các cha, khi ra ngoài đường, cũng không muốn cho người khác biết
mình là linh mục công giáo nữa là! Mà đã không hãnh diện về niềm tin của mình
thì còn nói gì đến chuyện giới thiệu cho người khác, có chăng cũng chỉ là nói
theo bổn phận thôi.
Như thế, khi thay đổi lối nhìn,
người Kitô hữu khám phá ra nhiều điều
mình có thể và cần học hỏi từ người khác. Cùng với những bài học đó, chúng ta
được nhắc nhớ về tầm quan trọng của việc dạy giáo lý. Theo các chuyên viên, hầu
hết những người Công giáo rời bỏ Giáo hội để gia nhập phong trào Hiện Xuống là
những người dân sống trong vùng nông thôn hoặc trong những khu ngoại ô nghèo.
Và lý do sâu xa khiến họ rời bỏ Giáo hội là do thiếu hiểu biết về giáo lý. Thiếu
hiểu biết về giáo lý nên dễ bị lung lạc trước những lời tố cáo Giáo hội không
trung thành với Chúa Giêsu và Tin Mừng của Chúa. Do đó, Giáo hội Công giáo cần
phải có nỗ lực mới trong việc giảng dạy giáo lý, đặc biệt là cho giới trẻ, để họ
thực sự hiểu biết niềm tin của mình và vững vàng trước những tấn công của bất cứ
ai. Theo Đức Hồng y Walter Kasper, để có thể làm công việc này cách hiệu quả,
bước đầu tiên mà các Giáo hội địa phương phải quan tâm là đào tạo đội ngũ giảng
viên giáo lý thật tốt, vì chính qua họ mà việc dạy giáo lý trong các giáo xứ và
các cộng đoàn mới có thể đạt hiệu quả. Đây chính là công việc mục vụ cần được
quan tâm đặc biệt trong Năm Đức Tin.
Kết luận
Phong trào Hiện Xuống là một
thách đố lớn vì gây ra nhiều khó khăn cho đời sống Giáo hội. Nhưng cũng lại là
cơ may vì không cho phép Giáo hội ngủ quên trong chiến thắng, đồng thời thúc
bách Giáo hội đào sâu đức tin cũng như đổi mới cung cách làm mục vụ của mình. Vấn
đề là làm sao biết vận dụng kairos
(thời điểm) này và biến thách đố thành cơ may, thành lễ Hiện Xuống mới. Câu trả
lời dĩ nhiên là của Chúa Thánh Thần nhưng cũng không loại trừ sự cộng tác của mỗi
người và mọi người trong Giáo hội, cách riêng là các vị lãnh đạo cộng đoàn Dân
Chúa.
WHĐ (28.02.2021)
Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 76 (Tháng 05 & 06 năm 2013)