NHỮNG ĐIỂM QUAN TRỌNG VỀ "ĐỜI SỐNG KINH TẾ"
TRONG GIÁO HUẤN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO
(Tóm lược Chương VII - Đời sống kinh tế trong cuốn “Học
thuyết xã hội của Giáo hội Công giáo”)
Tác giả: Linh mục Đaminh
Lê Đức Thiện, O.P.
I. CÁC KHÍA CẠNH THÁNH KINH
1. Con người, sự nghèo nàn và giàu có
Trong Kinh Thánh Cựu Ước, người
ta tìm thấy hai thái độ đối với của cải kinh tế và sự giàu có (Học thuyết xã hội
của Giáo hội Công giáo, số 323):
- Một đàng là thái độ quý trọng,
coi của cải vật chất là điều cần thiết cho cuộc sống.
- Đàng khác, của cải kinh tế và sự
giàu có tự chúng không bị lên án mà đúng hơn là việc lạm dụng chúng mới đáng bị
lên án.
Nhưng đặc biệt, với những ai nhìn
nhận mình “nghèo nàn” trước mặt Thiên Chúa, bất kể hoàn cảnh sống thế nào, sẽ
được Thiên Chúa quan tâm. Nói rõ hơn, nếu chủ trương tìm kiếm hay đón nhận với
tinh thần tôn giáo, người nghèo sẽ được mở mắt hầu có thể nhận biết trật tự
sáng tạo thể hiện qua đời sống xã hội theo một cung cách mới, trong công lý,
tình huynh đệ, sự liên đới và chia sẻ (324).
Như thế, các hoạt động kinh tế và
sự tăng trưởng vật chất, trong ánh sáng mạc khải, cần được xem xét và thực hiện
như một lời đáp trả với lòng tri ân ơn gọi mà Thiên Chúa đặt để trong mỗi cá
nhân, để phục vụ con người và xã hội. Đó thực sự là cách sống “giàu có” trước mặt
Thiên Chúa (325, 326).
Đặc biệt nhờ tin vào Đức Giêsu
Kitô, chúng ta sẽ hiểu đúng đắn sự phát triển xã hội dựa trên nền nhân bản toàn
diện và tình liên đới (327).
2. Của cải có là để chia sẻ
“Vì ham mê tiền bạc là cội rễ mọi
điều xấu xa; chính vì có sự thèm muốn ấy mà nhiều người đã lạc xa đức tin” (1
Tm 6,10), nên của cải, dù được sở hữu một cách chính đáng, luôn luôn có mục
tiêu phổ quát; bất cứ hình thức tích trữ nào không chính đáng đều trái đạo đức,
vì như thế là công khai đi ngược lại mục tiêu phổ quát đã được Tạo Hoá ấn định
cho mọi của cải (328).
Nói rõ hơn, của cải sẽ hoàn thành
chức năng phục vụ con người khi chúng được hướng tới việc đem lại ích lợi cho
người khác và cho xã hội. Như thế, chúng ta, cách riêng đối với những ai hoạt động
trong lĩnh vực kinh tế và có được của cải, cần ý thức mình chỉ là người quản lý
những tài sản Thiên Chúa đã giao (329, 328).
II. LUÂN LÝ VÀ KINH TẾ
“Hoạt động kinh tế” và “Cách ứng
xử có luân lý” có mối quan hệ tất yếu, hay thực ra là quan hệ nội tại: những mục
tiêu trước mắt phải lệ thuộc vào mục tiêu trên hết và sau hết của chúng ta. Nói
rõ hơn, trong lĩnh vực kinh tế và xã hội, chúng ta phải tôn trọng và phát huy
phẩm giá và ơn gọi đầy đủ của con người, cũng như sự an sinh của toàn xã hội,
vì con người là nguồn cội, là trung tâm và là mục tiêu của toàn bộ đời sống
kinh tế và xã hội (330, 331).
Nói cách khác, chiều hướng luân
lý của kinh tế cho chúng ta thấy rằng hiệu năng kinh tế và việc đẩy mạnh sự
phát triển của con người trong tình liên đới không phải là hai mục tiêu tách rời
nhau hay phải chọn một trong hai, mà chỉ là một mục tiêu không thể phân chia.
Nghĩa là khi thực hiện hoạt động kinh tế như là một điều chính đáng, chúng ta
không thể chấp nhận đạt được mức tăng trưởng kinh tế bằng cách hy sinh nhiều
con người, hy sinh cả một dân tộc hay một nhóm xã hội nào đó (332).
Như thế, nếu hoạt động kinh tế phải
có tính luân lý, thì hoạt động ấy phải hướng tới mọi người và mọi dân tộc
(333).
Việc nhận định “kinh tế lấy việc
phát triển sự giàu có và làm cho sự giàu có mỗi ngày một tăng lên, không chỉ về
lượng mà cả về chất, làm mục tiêu của mình” sẽ mang tính luân lý nếu nó giúp
con người được phát triển toàn diện trong sự liên đới và giúp xã hội (nơi mọi
người sinh sống và làm việc) cũng được phát triển như thế (334).
Bên cạnh đó, cần ý thức rằng tình
trạng mọi mặt hàng vật chất có sẵn tới mức thái quá nhằm phục vụ cho ích lợi của
một số tập thể trong xã hội sẽ làm cho dân chúng dễ dàng trở thành nô lệ cho sự
‘chiếm hữu’ và sự thoả mãn tức thời… Đây chính là cái được gọi là văn minh
“tiêu thụ” hay “chủ nghĩa tiêu thụ” (334).
Ngoài ra, khái niệm “chủ nghĩa tư
bản” cần được nhìn nhận theo hướng này: đó là một hệ thống kinh tế nhìn nhận
vai trò căn bản và tích cực của kinh doanh, nhìn nhận thị trường, quyền tư hữu
và trách nhiệm về hậu quả đối với các phương tiện sản xuất, cũng như sự sáng tạo
tự do của con người trong địa hạt kinh tế. Chủ nghĩa tư bản theo nghĩa trên có
thể được gọi bằng những từ ngữ khác: “kinh tế thương mại”, “kinh tế thị trường”,
hay đơn giản hơn là nền “kinh tế tự do” (335).
III. SÁNG KIẾN CÁ NHÂN VÀ SÁNG KIẾN KINH DOANH
Giáo hội ủng hộ và khuyến khích mỗi
cá nhân đưa ra sáng kiến cách tự do và có trách nhiệm trong lĩnh vực kinh tế nếu
đạt được sự hoà hợp giữa công ích đang theo đuổi với loại hình hoạt động kinh tế
do sáng kiến ấy đưa ra, vì điều này được xem như là hành vi phản ánh nhân tính
của con người, là những chủ thể sáng tạo và có tương quan (336).
Những sáng tạo trong chiều hướng
đó sẽ giúp nhân loại có thể khám phá ra tiềm năng sản xuất của trái đất và nhiều
phương cách khác nhau để thoả mãn các nhu cầu của con người (337).
1. Doanh nghiệp và các mục tiêu của doanh nghiệp
Doanh nghiệp, khi đã hội đủ điều
kiện về những điều khoản kinh tế và theo tiêu chuẩn kinh tế để tìm lợi nhuận
cách chính đáng, phải đảm bảo đồng thời hai việc (338):
- Phục vụ công
ích của xã hội thông qua việc sản xuất hàng hoá hữu ích và cung cấp các dịch vụ
(mục tiêu kinh tế)
- Tạo cơ hội gặp
gỡ, hợp tác và phát huy hơn nữa khả năng của những người cùng tham gia (mục
tiêu xã hội và luân lý).
Giáo Hội thừa nhận vai trò thích
đáng của lợi nhuận, coi đó như chỉ số đầu tiên cho biết một doanh nghiệp hoạt động
tốt (340). Tuy nhiên, doanh nghiệp được nhắc nhớ rằng:
- Phải bảo vệ
phẩm giá của những người đang làm việc ở những cấp khác nhau trong cùng một
doanh nghiệp (340, 344).
- Phải nhắm đến
lợi ích của hết mọi người. Không được chỉ thoả mãn những quyền lợi cá nhân của
riêng ai (339, 344).
- Phải hướng đến
sự “phát triển đích thực”: đó là sự phát triển mà mọi quốc gia trên thế giới đều
tham gia (342).
Giáo hội không chấp nhận tình trạng
cho vay nặng lãi, và tuyên bố đó là điều cần phải lên án về mặt luân lý (341).
2. Vai trò của các chủ doanh nghiệp và việc quản lý
Giáo hội nhắc nhớ các chủ doanh
nghiệp và quản lý doanh nghiệp cần:
- Có tinh thần
trách nhiệm, biết tạo sự hợp tác và sẵn sàng thúc đẩy sự sáng tạo (343) đối với
nhân viên.
- Cố gắng tổ
chức lao động thế nào để thăng tiến gia đình, đặc biệt là giúp các bà mẹ trong
việc chu toàn nghĩa vụ riêng của họ (345).
- Cố gắng đáp ứng
yêu cầu về chất lượng của các hàng hoá được sản xuất và tiêu thụ, chất lượng của
các dịch vụ cần cung ứng cho con người, chất lượng của môi trường và chất lượng
của đời sống nói chung (345).
IV. CÁC ĐỊNH CHẾ KINH TẾ PHỤC VỤ CON NGƯỜI
Giáo hội nhắc nhở mỗi chủ thể
kinh tế cá nhân cũng như xã hội, nhà sản xuất lẫn người tiêu thụ phải có trách
nhiệm và sự hợp lý trong việc sử dụng các nguồn lực (hàng hoá và dịch vụ), đặc
biệt đối với tài nguyên thiên nhiên đang trở nên khan hiếm về số lượng (346).
1. Vai trò của thị trường tự do
Giáo hội xác nhận một thị trường
tự do với đặc tính cạnh tranh lành mạnh là điều tích cực, thậm chí đó là một
công cụ không thể thay thế được để điều hoà các hoạt động bên trong của hệ thống
kinh tế (349), nên cần tạo những điều kiện cho phép các tiềm năng ấy được sử dụng
cách cụ thể (350). Thị trường hoạt động theo hướng trên thực sự chính là một
công cụ hữu hiệu để con người đạt được các mục tiêu quan trọng của công lý
(347).
Nhưng lợi nhuận riêng lẻ của một
tổ chức kinh tế, dù có hợp pháp đến đâu, cũng không bao giờ trở nên mục tiêu
duy nhất của thị trường. Tính cạnh tranh của thị trường có một mục tiêu khác,
thuộc về một trật tự cao hơn: sự hữu ích cho xã hội; là điều được hình thành dựa
trên lương tâm của mỗi cá nhân và trách nhiệm của chính quyền (348). Chính vì
thế, thị trường cần phải bám chặt vào các mục tiêu đạo đức của nó, nhằm bảo đảm
và quy định cách thích hợp không gian mà trong đó thị trường có thể hoạt động một
cách độc lập (349).
2. Hành động của Nhà nước
Không kể những tình huống ngoại lệ
mà Nhà nước phải thi hành “chức năng thay thế”, còn lại, hành động của Nhà nước
và các cơ quan công quyền khác phải ăn khớp với cả hai nguyên tắc: bổ trợ và
liên đới (351).
Điều trên nhằm bảo đảm chắc chắn
cho sự tự do cá nhân và quyền tư hữu, cũng như một hệ thống tiền tệ ổn định và
các dịch vụ công cộng hữu hiệu. Nói rõ hơn, thị trường tự do chỉ có thể tạo ảnh
hưởng có lợi trên toàn bộ công chúng (353) chỉ khi Nhà nước chấp nhận một nền
pháp chế thích hợp, đồng thời phải hướng dẫn các chính sách kinh tế và xã hội
sao cho Nhà Nước không can dự vào các hoạt động thị trường khác nhau, và sao
cho khi thực hiện các hoạt động ấy, người ta không bị và mãi mãi không bị khống
chế bởi các kiến trúc thượng tầng và các sự kiềm chế độc tài (352).
Để tránh tình trạng tước đoạt
tinh thần trách nhiệm khỏi công dân, cũng như tránh thói quan liêu của các cơ
quan chính quyền, cần phải luôn luôn quyết tâm bền bỉ tạo được một thế quân
bình thích đáng giữa sự tự do của cá nhân với hành động của chính quyền (vừa được
coi như một sự can thiệp trực tiếp vào các vấn đề kinh tế, vừa được đánh giá
như một cách hỗ trợ sự phát triển kinh tế) (354).
Nhà nước, với phẩm chất thanh
liêm và chính xác (công bằng - hợp lý), khi thực hiện việc quản lý và phân phối
lại các nguồn lợi chung có được từ thuế (được hình thành từ nghĩa vụ và sự liên
đới của mọi người), phải trở thành nhân tố bảo đảm cho hệ thống an sinh và bảo
vệ xã hội, đặc biệt phải nhắm đến mục đích trên hết là bảo vệ các gia đình và
những thành phần yếu kém nhất của xã hội (355).
3. Vai trò của các đoàn thể trung gian
Hệ thống kinh tế - xã hội khi được
yêu cầu nhắm đến công ích bằng những hoạt động công, hoạt động tư và những hoạt
động tư phi lợi nhuận, sẽ cần sự hỗ trợ và định hướng bởi nhiều đoàn thể trung
gian. Vì trên thực tế, có những trường hợp sẽ không thể phụ thuộc các cơ chế
máy móc của thị trường, thậm chí cũng không thể chỉ tuỳ thuộc thẩm quyền Nhà Nước.
Vai trò của những đoàn thể trung gian là giúp hoạt động kinh tế xã hội vừa đạt
hiệu quả, vừa hướng đến ích chung mà vẫn tôn trọng Nhà Nước và thị trường
(356).
Có những hoạt động kinh tế cần đến
sự hỗ trợ của những tổ chức tư nhân phi lợi nhuận. Nhà Nước được mời gọi hãy
tôn trọng các tổ chức ấy đúng với bản chất của chúng và sử dụng những nét khác
biệt của chúng (357).
4. Tiền tiết kiệm và hàng tiêu dùng
Những quyết định lựa chọn mua sắm,
tiết kiệm hay đầu tư (trong bối cảnh chủ nghĩa tiêu thụ đang bành trướng) sẽ
luôn ảnh hưởng đến tự nhiên và nhân loại (đặc biệt đối với người nghèo và các
thế hệ tương lai, là những người có nguy cơ phải sống trong một môi trường tự
nhiên đã bị chủ nghĩa tiêu thụ thái quá và vô trật tự tàn phá). Đó là lý do khiến
Giáo hội mời gọi (358, 359, 360):
Những người tiêu thụ có khả năng
mua sắm rộng rãi cần sử dụng sức mua sắm trong khuôn khổ những đòi hỏi luân lý
về công lý và liên đới, cũng như trong khuôn khổ các trách nhiệm xã hội cụ thể.
Các nhà đầu tư và sản xuất nên có
những lựa chọn mang tính luân lý và văn hoá.
Mọi người tiêu thụ nói chung, khi
chọn lựa sản phẩm, cần lưu ý đến điều kiện làm việc của các nhân công tạo nên sản
phẩm và mức độ bảo vệ môi trường tự nhiên tại nơi công ty hoạt động…
V. “NHỮNG ĐIỀU MỚI MẺ” TRONG LĨNH VỰC KINH TẾ
1. Toàn cầu hoá: những cơ may và rủi ro
Sự toàn cầu hoá về kinh tế và tài
chính có thể tạo ra những kết quả khả dĩ mang lại lợi ích cho toàn thể nhân loại
(tiến trình trao đổi thương mại, các giao dịch tài chính được tăng tốc và lan rộng
khắp thế giới), đồng thời cũng đem đến những rủi ro gắn liền với những chiều hướng
mới trong các quan hệ thương mại và tài chính (xu hướng bất bình đẳng ngày càng
tăng cao giữa các nước tiên tiến và các nước đang phát triển, cũng như ngay
trong chính các nước đã công nghiệp hoá, quyền lợi và nhu cầu của người nghèo dễ
bị làm lơ; “người giàu càng giàu hơn và người nghèo càng nghèo hơn”) (361, 362,
364).
Vì thế, thách đố đặt ra cho nhân
loại trong “kỷ nguyên toàn cầu hoá” là làm sao bảo đảm cho việc toàn cầu hoá diễn
ra trong sự liên đới để đạt đến công ích và mục tiêu phổ quát của của cải,
nghĩa là cố gắng không để ai (nhất là người nghèo) bị gạt ra ngoài, đồng thời
giảm sự bất bình đẳng giữa các quốc gia về sự phát triển kinh tế và xã hội
(363, 364).
Giáo hội khẳng định chỉ có thể
duy trì sự liên đới tương xứng trong kỷ nguyên toàn cầu hoá này khi người ta:
- Ý thức
bảo vệ các quyền của con người, bắt đầu từ những điều cốt lõi và cơ bản, như:
quyền có lương thực và nước sạch, quyền có nhà ở và được an toàn, quyền tự quyết
và độc lập, …, là những điều còn lâu lắm mới được bảo đảm và thực hiện (365).
- Tôn trọng sự
khác biệt giữa các nền văn hoá, tôn trọng các quyền của cá nhân và của các dân
tộc, cũng như bảo đảm có sự phân phối công bằng các nguồn lợi ngay trong một quốc
gia và giữa các quốc gia với nhau. Đặc biệt, không được lấy đi của người nghèo
những gì đối với họ vẫn còn quý giá, kể cả tín ngưỡng và thực hành tôn giáo của
họ, vì những niềm tin tôn giáo chân chính là biểu hiện rõ ràng nhất tự do của
con người (366, 367).
- Không để các thế hệ sau phải chịu
gánh nặng trang trải các phí tổn hiện nay, đặc biệt là trong lĩnh vực tài
nguyên và môi trường (368).
2. Hệ thống tài chính quốc tế
Lịch sử cho thấy nếu không có những
hệ thống tài chính tương xứng, thì sẽ không có sự tăng trưởng kinh tế.
Nhưng có những hệ thống tài chính
phạm sai lầm vì cho rằng chỉ có mình mới là điểm quy chiếu mà không liên kết với
những nền tảng thật của nền kinh tế, từ đó kéo theo nhiều quốc gia (đặc biệt những
quốc gia yếu kém) không chỉ bị loại khỏi các tiến trình, mà còn phải chịu các hậu
quả tiêu cực do sự bất ổn tài chính gây ra (369).
3. Vai trò của cộng đồng quốc tế trong kỷ nguyên
kinh tế toàn cầu
Trong tiến trình toàn cầu hoá,
Nhà nước của mỗi quốc gia mất dần hiệu năng trong việc điều khiển sự năng động
của các hệ thống tài chính và kinh tế của quốc gia (370). Khi ấy, cộng đồng quốc
tế (bằng các phương thế chính trị và pháp lý hữu hiệu, nhằm hướng dẫn các tiến
trình kinh tế của toàn thể nhân loại được tăng trưởng trên nền tảng về luân lý,
dân sự và văn hoá (372) phải dấn thân trong vai trò hướng dẫn để toàn thể gia
đình nhân loại (kể cả các dân tộc và các quốc gia không mấy quan trọng trong thị
trường quốc tế, nhưng lại đang bị đè nặng bởi các nhu cầu cấp thiết và đáng lo
nhất, và vì thế phải cậy nhờ vào sự giúp đỡ của các quốc gia khác để phát triển)
có thể cùng nhau đạt được công ích (371).
4. Một sự phát triển toàn diện trong tình liên đới
Thực tế đã cho thấy:
- Những bất
bình đẳng xã hội, thậm chí tới mức sống cơ cực và nghèo khổ, đều xuất hiện
trong cả các nước giàu lẫn trong các nước kém phát triển hơn.
- Nền văn hoá
cá nhân chủ nghĩa (kể cả ở mức độ quốc gia) sẽ không thể tồn tại lâu trước
khuynh hướng toàn cầu hoá trong hầu hết mọi chiều kích kinh tế xã hội nên Giáo
hội mời gọi nhân loại cùng hướng đến một sự phát triển toàn diện trong tình
liên đới, nghĩa là xây dựng một nếp sống thích đáng hơn thông qua việc lao động
chung, nâng cao phẩm giá và sự sáng tạo của mỗi người một cách cụ thể, cũng như
giúp mỗi người có khả năng đáp lại thiên chức riêng của mình, từ đó đáp lại lời
mời gọi của Thiên Chúa (373).
Thật vậy, sự phát triển nhân bản
hơn trong tình liên đới sẽ đem lại lợi ích cho không những các nước nghèo, mà đồng
thời cũng đem lại sự thăng tiến về nhiều mặt cho chính các nước giàu (374).
5. Nhu cầu cần phải được đào tạo nhiều hơn nữa về
giáo dục và văn hoá
Giáo hội khẳng định rằng: việc
“tăng cường nhận thức về Thiên Chúa và ý thức về bản thân mình nhiều hơn” chính
là cơ sở để “thực hiện bất cứ sự phát triển nào của xã hội loài người”
(375).
Thật vậy, vì các hệ thống kinh tế
(trong khi phát triển) không hề có các tiêu chuẩn để giúp con người có sự phân
biệt đúng đắn đối với những nhu cầu của mình, trong khi sự nhận thức về Thiên
Chúa và về bản thân sẽ hướng chúng ta đến tính toàn diện về con người, trong đó
mọi chiều hướng của hữu thể con người đều được tôn trọng, các chiều hướng vật
chất và tự nhiên phải tuỳ thuộc các chiều hướng nội tâm và tinh thần
(376).
Chính vì thế, công việc đào tạo về
giáo dục và văn hoá là hết sức cấp bách. Đó là việc giáo dục người tiêu thụ biết
sử dụng quyền lựa chọn của mình một cách có trách nhiệm, là việc đào tạo một ý
thức trách nhiệm mạnh mẽ nơi các nhà sản xuất và nơi dân chúng (cách riêng khi
sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng), là việc giúp các cơ quan chính
quyền ý thức đúng về vai trò của mình trong từng lĩnh vực và từng tình huống
(377).
VI. CÂU HỎI GỢI Ý HƯỚNG ĐẾN HÀNH ĐỘNG CỤ THỂ
1. Các hoạt động kinh tế và sự
tăng trưởng vật chất có thể được xem như công việc phục vụ hay đơn thuần chỉ nhắm
đích lợi nhuận và tiêu thụ?
2. Đâu là nguyên nhân dẫn đến hoạt
động kinh doanh các mặt hàng giả và các loại thực phẩm bẩn đang lan tràn như hiện
nay? Trách nhiệm thuộc về ai?
3. Đời sống kinh tế cần thiết
phải gắn liền với công bằng xã hội và sự phát triển con người toàn diện. Tình trạng
chênh lệch khủng khiếp giữa người giàu và người nghèo cũng như tội ác tham
nhũng đang rất phổ biến trong xã hội Việt Nam. Là Kitô hữu hay người thiện chí,
chúng ta có thể làm gì để đẩy lui vấn nạn này?
Nguồn: ubclhb.com
Website của Ủy ban Công lý và Hòa bình / HĐGMVN