Chi tiết từ "Đóng đinh Thánh Phêrô" (1601) của
Caravaggio
NHỮNG BÀI HỌC CHO MÙA CHAY
TỪ CUỘC HOÁN CẢI CỦA THÁNH PHÊRÔ
Douglas Bushman
WHĐ (05.4.2022) - Khi nhìn thấy mẻ lưới lớn, Simôn
Phêrô sấp mặt dưới chân Ðức Giêsu và nói: "Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!" (Lc 5,
8)
Phêrô đã chứng kiến việc Đức Giêsu chữa lành
bệnh cho mẹ vợ (Lc 4, 38–39). Giống như tất cả những ai chứng kiến mẻ cá lớn,
ông rất kinh ngạc (Lc 5, 9). Phêrô nhận ra rằng Thiên Chúa đang hành động thông
qua Đức Giêsu, và ông tôn vinh Thiên Chúa qua một hành động khiêm nhường, điều
này cho thấy văn hóa tôn giáo mà ông đã sống. Nền văn hóa đó cho rằng tội lỗi
là không xứng hợp với Thiên Chúa, Đấng thánh thiện. Nhận thức về sự thánh thiện
và sự hiện diện của Thiên Chúa làm cho con người ý thức được tội lỗi của mình,
và sau đó con người trở nên căng thẳng, thậm chí không thể nuốt trôi nước miếng
trước sự hiện diện của Thiên Chúa (G 7, 19). Kinh thánh truyền đạt điều này bằng
cách miêu tả Ađam và Êva sợ hãi che chắn thân mình khỏi cái nhìn xuyên thấu của
Thiên Chúa bằng cách che thân, và sau đó cố gắng trốn khỏi Ngài. Gióp đã cất
thành lời: “Xin cứ để mặc con” (G 7,
16). Phêrô cho thấy rằng ông đã thừa hưởng nền thần học và tu đức này khi nói với
Chúa Giêsu, “Xin tránh xa con, vì con là
kẻ tội lỗi”.
Liệu có điều gì có thể đối lập trực tiếp hơn với
sứ mệnh của Chúa Giêsu, Đấng đã nói: “Tôi
đến để kêu gọi những người tội lỗi” (Mt 9, 13); “Này con, cứ yên tâm, con đã được tha tội rồi!” (Mt 9, 2); “Tôi nói cho ông hay: tội của chị rất nhiều,
nhưng đã được tha” (Lc 7, 47); “đây
là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội” (Mt 26, 28)
chăng? Trong cuộc gặp gỡ này với Chúa Giêsu, Phêrô đã cho thấy mình là người mà
Chúa Giêsu sẽ nói sau này, tức là “người
cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là
của loài người” (Mt 16, 23); tuy nhiên Chúa nói điều đó vẫn trong bối cảnh
sứ mệnh của Ngài là tha tội. Nhưng Chúa Giêsu không quở trách Phêrô vào lúc
đánh bắt được nhiều cá. Người biết rằng Phêrô có rất nhiều điều cần học hỏi!
Trái ngược với Phêrô, “những người thu thuế và những người tội lỗi thường đến gần Ðức Giêsu mà
nghe Người” (Lc 15, 1). Trên thực tế, Chúa Giêsu — chính Thiên Chúa trở
thành người — bắt đầu sứ vụ công khai bằng cách đến gần cuộc tập hợp lớn nhất của
những người tự nhận mình là tội nhân: “Mọi
người từ khắp miền Giuđê và thành Giêrusalem kéo đến với ông. Họ thú tội, và
ông làm phép rửa cho họ trong sông Giođan” (Mc 1, 5). Trong Đức Kitô, Thiên
Chúa đang tìm kiếm tội nhân. “Trong Đức
Kitô, tôn giáo không còn là 'sự tìm kiếm Thiên Chúa một cách mù quáng' (x. Cv
17, 27) mà là sự đáp lại của đức tin đối với Thiên Chúa [Đấng] đi tìm kiếm con
người… vì Ngài yêu thương con người đời đời trong Ngôi Lời” (Gioan Phaolo
II, Tertio millennio adosysteme,
6–7). Phêrô sẽ đạt đến đức tin trọn vẹn này, nhưng chỉ sau khi ông phát hiện ra
rằng tội lỗi của mình không khiến cho Thiên Chúa ngừng tìm kiếm ông.
Bằng cách nói: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi”, Phêrô cho thấy
ông cần một cách sâu xa như thế nào về sự “đổi
mới tâm thần” tuyệt vời mà đức tin mang lại (Rm 12, 2; Ep 4, 23). Trong Đức Giêsu Kitô, chính Thiên Chúa sẽ chịu đau khổ
và chịu chết để mang lại sự đổi mới tâm thần này liên quan đến việc Thiên Chúa
đến gần tội nhân — chính xác là để tha thứ cho họ và hoà giải họ với chính
Ngài. Mầu nhiệm là Ngài đến gần tội nhân trong sự đau khổ của họ qua sự đau khổ
của chính Ngài.
Ông Phêrô theo Người xa xa. (Mt
26, 58)
Matthêu, Marco và Luca đều ghi lại rằng khi
Chúa Giêsu bị bắt, Phêrô đi theo Ngài, nhưng
ở một khoảng cách xa xa. Khi bước theo Ngài, Phêrô thể hiện tình yêu của mình đối với Chúa Giêsu, như ông đã tuyên bố
trước đó: “Dầu tất cả có vấp ngã vì Thầy
đi nữa, thì con đây cũng chẳng bao giờ vấp ngã. […] Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy” (Mt 26,
33–35). Không có lý do gì để nghi ngờ sự chân thành của Phêrô. Tuy nhiên, không
lâu sau, Phêrô vẫn giữ một khoảng cách kín đáo. Theo cách này, Phêrô thể hiện
tình yêu của mình dành cho bản thân. Ông đang giữ an toàn, đề phòng cho mình một
lối thoát khi hữu sự. Sự căng thẳng này giữa tình yêu bản thân và tình yêu của
Phêrô dành cho Chúa Giêsu sẽ bộc lộ rõ ràng khi ông có 3 cơ hội để tuyên xưng
tình yêu của mình dành cho Chúa Giêsu, nhưng lại thất bại trong cuộc thử thách.
Mùa Chay là mùa đền tội trong đó các môn đệ của
Đức Kitô cố gắng để xác định những cách thức
chúng ta vẫn theo Chúa Giêsu nhưng xa xa — để chúng ta có thể theo Ngài cách hoàn
hảo hơn trong mầu nhiệm Vượt qua của Ngài trong Tam nhật thánh. Chúng ta sẽ
khôn ngoan một cách khiêm tốn làm theo lời của Vua Đavít, sau khi vua hoán cải:
“Nhưng nào ai thấy rõ các lầm lỗi của
mình? Xin Ngài tha các tội con phạm mà chẳng hay” (Tv 19, 13). Ai có thể cầu
nguyện những lời như vậy? Ai nhận ra rằng có những tội lỗi tiềm ẩn? Thưa đó là
người giống như Đavít, bất ngờ khám phá ra mình bị giam cầm bởi một dục vọng
đáng lẽ phải được thanh tẩy trước đó rồi; vì, nó luôn ở đó, chờ thời, như thể ở
chế độ ẩn, chờ đợi cơ hội đến giữa Đavít và Thiên Chúa của Đavít. Một người nào đó, giống như Đavít, người đã cảm
nghiệm được lòng thương xót của Thiên Chúa và do đó được khuyến khích không còn
che giấu tội lỗi của mình nữa mà muốn săn lùng chúng, giống như một con chó săn
lao vào con chim cút đang ẩn nấp.
Trên thực tế, một trong những hoa quả tuyệt vời
của sự hoán cải và đức tin vào lòng thương xót của Thiên Chúa chính là nỗi sợ
hãi rằng tội lỗi của mình không được kiểm soát. Như nhà thông thái đã nói:
Tư tưởng
con, ai sẽ lấy roi sửa trị, tâm can con, ai sẽ dùng khôn ngoan dạy dỗ, để đừng
dung thứ những lầm lỗi của con, cũng đừng làm ngơ trước tội con đã phạm? Bằng
không, lỗi lầm của con cứ gia tăng mãi, tội lỗi của con chồng chất thêm nhiều,
con sẽ quỵ ngã trước mặt đối phương và kẻ thù con đắc chí nhạo cười (Hc 23, 2–3).
Vì điều này, chúng ta cần phải được lời Chúa đối
chất, như Nathan đối chất với Đavít, như Phêrô
được Lời của Chúa đối chất, khi gà gáy sáng, ông nhớ lại những lời của Chúa
Giêsu tiên báo sự chối Thầy của ông. Nhưng trên tất cả, chúng ta cần đối chất với
lời của tình yêu thương xót của Thiên Chúa, vốn là điều
duy nhất mang lại hy vọng rằng tội lỗi không có lời nói cuối cùng. Đây là sự thật
hai mặt về tội lỗi và về lòng thương xót của Thiên Chúa, mà Giáo Hội đặt trên
môi chúng ta ngay trước khi rước Mình Thánh: “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một
lời, thì linh hồn con sẽ lành mạnh”.
Mùa Chay là mùa để tìm kiếm sự đối chất hữu
ích một cách có chủ ý hơn với lời Chúa. Đó là thời gian để hợp tác với Lời
xuyên thấu và tách bạch của Thiên Chúa; một thời gian có chủ đích là trở nên trần
trụi và phơi bày về mặt thiêng liêng trước Lời Chúa, phù hợp với những lời của
Sách Giáo Lý nói về mục tiêu của việc suy niệm “là để cho điều đã suy tư trong đức tin trở nên của riêng mình, qua việc
đối chiếu với thực trạng cuộc đời của mình”(GLCG, 2723).
Và Chúa quay lại và nhìn Phêrô. Và Phêrô nhớ lại lời của Đức
Chúa, lời mà Người đã nói với ông ra sao: “Hôm nay, gà chưa kịp gáy, thì anh đã chối Thầy
ba lần” (Lc 22, 61).
Thật khó để tưởng tượng khoảnh khắc mãnh liệt
hơn về sự trần trụi và phơi bày trước sự thật! Phêrô đã 2 lần nói: “Tôi không biết người ấy” (Mt 26, 72.
74). Động từ Hy Lạp ở đây mời chúng ta dịch điều này là: "Ông ấy chẳng có nghĩa lý gì đối với tôi".
Với điều này, Phêrô phải chịu trách nhiệm về cùng tội danh mà Nathan đã đưa ra
để chống lại Đavit “Tại sao ngươi lại khinh
dể lời Ðức Chúa?” (2Sm 12, 9). Thiên
Chúa đúng khi hỏi: Sau tất cả những gì Ta đã làm cho ngươi, làm sao ngươi có thể
gạt ký ức về những hành động yêu thương tuyệt vời của Ta sang một bên bằng sự
khinh miệt như vậy?
Đavít và Phêrô nhân cách hóa tội lỗi của
Israel, khi dân chúng không lắng nghe tiếng Chúa “dù đã thấy những việc Ngài làm” (Tv 95, 9). Trong Cựu ước, những
công việc này là những việc làm vĩ đại của Thiên Chúa: mười bệnh dịch; sự rẽ nước biển; nước từ tảng đá; con rắn đồng;
manna. Tuy nhiên, sứ mệnh của các ngôn sứ là buộc tội dân chúng thường xuyên
quên những hành động vĩ đại này của tình yêu thương cứu độ của Thiên Chúa và sa ngã vào tội lỗi. Trong mọi tội, có sự khinh miệt ý thức
hoặc vô thức đối với lời nói và hành động mặc khải của Thiên Chúa. Trong mọi tội, kẻ phạm tội nói: Lời nói của Ngài, những việc
làm vĩ đại và những hành động yêu thương của Ngài chẳng có nghĩa lý gì đối với
tôi cả.
Nhưng có một sự khác biệt lớn giữa tội lỗi của
Israel và Đavít, những người tỏ ra khinh thường lời của Thiên Chúa, và sự khinh
miệt của Phêrô, vốn dành cho Lời
Nhập thể của Thiên Chúa. Thư gửi Do
thái mô tả một cách sâu sắc sức mạnh của Lời Thiên Chúa và việc Lời Chúa đối chất
một người với sự thật:
Lời
Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu
chỗ phân cách tâm linh, cốt với tủy; lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng
của lòng người. Vì không có loài thọ tạo nào mà không hiện rõ trước Lời
Chúa, nhưng tất cả đều trần trụi và phơi bày trước mặt Ðấng có quyền đòi chúng
ta trả lẽ. (Dt 4, 12–13)
Cái nhìn của Chúa Giêsu đối với Phêrô là cái nhìn của sự thật và của tình yêu, vì Chúa Giêsu vừa là sự
thật vừa là tình yêu. Sự thật phơi bày tội lỗi của Phêrô, trong khi tình yêu khiến ông có thể rơi lệ ăn năn.
"Này anh Simon, con ông Gioan, anh có mến Thầy
hơn các anh em này không?" (Ga 21, 16)
Chúa Giêsu đặt câu hỏi này với Phêrô 3 lần. Các Giáo phụ và Tiến sĩ Giáo hội nhận thấy sự phù hợp về
điều này; vì Phêrô đã chối Chúa Giêsu
3 lần, và do đó đã không yêu mến Người, nên Chúa Giêsu muốn đem điều tốt lành từ
điều xấu xa, và Người muốn sự hợp tác của Phêrô bằng việc thể hiện một lời
tuyên xưng gấp 3 lần về tình yêu của mình dành cho Người. Đó là những gì lòng
thương xót thể hiện: lấp đầy khoảng trống của tình yêu bằng tình yêu.
Chúa Giêsu thể hiện sự kiên nhẫn, thận trọng
và thương xót tuyệt vời trong thời điểm của câu hỏi này. Chúa Giêsu là Thiên Chúa và Thiên Chúa là “sự trao đổi tình yêu vĩnh cửu: Chúa Cha,
Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (GLCG, 221). Điều Thiên Chúa Con đã sống đời đời,
Người hằng ao ước được sống như một phàm nhân trên thế gian này. Chúa Giêsu
kiên nhẫn biết bao khi Người chờ đợi rất lâu trước khi nghe Phêrô nói: “Con yêu mến Thầy”!
Không phải ngẫu nhiên mà Chúa Giêsu không đặt
ra câu hỏi về tình yêu của Phêrô trước 3 lần chối Thầy của ông và trước cuộc khổ
nạn, cái chết và sự phục sinh của Người. Vì, Người biết rằng nếu làm điều đó
trước thì sẽ là một câu hỏi không công bằng. Chúa Giêsu biết Phêrô đã đặt sự tự
tin sai chỗ vào tình yêu của ông dành cho Chúa Giêsu, điều mà ông thể hiện qua
lời tuyên bố tự tin rằng ông sẵn sàng chết với Chúa Giêsu: “Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối
Thầy” (Mt 26, 35). Chúa Giêsu đã biết sự thật, khi Người nói với Phêrô: “Nơi Thầy đi, bây giờ anh không thể theo đến
được” (Ga 13, 36).
Vì vậy, Chúa Giêsu không hỏi Phêrô về tình yêu
của ông đối với Người cho đến khi lời tuyên xưng về tình yêu của ông phù hợp với
sự thật. Và Người biết rằng điều này không thể xảy ra cho đến khi Phêrô cảm
nghiệm được sự tha thứ tội lỗi của mình. Chúa Giêsu biết rằng trước mầu nhiệm
vượt qua, Phêrô sẽ bày tỏ sự kiêu căng của một người mới bắt đầu trước những
đêm đen. Xét cho cùng, Phêrô đã bỏ tất cả để theo Chúa Giêsu. Ông đã chứng kiến
những phép lạ của Người, tiếp thu những giáo huấn của Người, tuyên xưng đức
tin của mình, quan sát sự khôn ngoan của Người khi tiếp xúc với những người
Pharisiêu và Kinh sư, và thấy những người tin vào Chúa Giêsu ngày càng đông.
Trong thực tế, mối tương quan của Phêrô với Chúa Giêsu phần lớn vẫn dựa trên những
niềm an ủi này, vốn là sự tự hiến một phần và có tính chuẩn bị của Chúa Giêsu.
Trái ngược với Phêrô, tại một thời điểm nào đó, Chúa Giêsu để lại thời gian của
những an ủi lại đàng sau, khi Người kiên quyết đón nhận sự cần thiết huyền nhiệm
theo sự khôn ngoan của Chúa Cha, là Đấng
Kitô phải chịu đau khổ và chịu chết, để hoàn thành sứ mệnh của Người: “Người đang đi về hướng Giêrusalem” (Lc
9, 53).
Vào thời điểm mà Phêrô tuyên bố rằng ông sẵn
sàng chết vì Chúa Giêsu, Phêrô nghĩ rằng ông “toàn tâm toàn ý”. Nhưng Phêrô
chưa hoàn toàn chấp nhận ý tưởng về một Đấng Mêsia đau khổ. Trước mầu nhiệm vượt
qua và trước khi hoán cải, Phêrô rất giống Đavít, khi ông mô tả sự chuyển đổi từ
niềm an ủi khi thịnh vượng sang sự hoang tàn vì dường như bị Thiên Chúa bỏ rơi:
Trong sự
thịnh vượng, tôi đã tự nhủ:
"Mình
sẽ chẳng bao giờ nao núng!
Lạy
CHÚA, vì yêu thương, Ngài đã đặt con trên núi an toàn.
Nhưng
khi Ngài vừa ẩn mặt đi, con liền thấy bàng hoàng sợ hãi" (Tv 30, 6–7).
Thánh Tôma Aquinô nhận xét rằng những lời
trong câu 6 được nói với một “tâm hồn tự phụ”, nghĩa là “sự tự phụ của một người
tin tưởng vào chính mình.”[1]
Tự phụ là một tội ngược lại niềm trông cậy. Nó “hệ tại ở chỗ trở lại với Thiên
Chúa nhưng là sự trở lại vô trật tự”[2]
— vô trật tự vì nó dựa vào quyết tâm của con người hơn là dựa vào ân sủng của Thiên Chúa. Đó là “niềm hy vọng thiếu chừng mực… theo đó người ta dựa
vào sức riêng mình… khi hướng đến điều tốt lành như thể mình có thể đạt được,
trong khi nó vượt quá năng lực của mình.”[3]
Phêrô không hề hai mặt khi tuyên bố sẵn sàng
chết vì Chúa Giêsu như là dấu chỉ tình yêu của ông dành cho Ngài. Phêrô chỉ đơn
thuần là người ngây thơ về mặt thiêng liêng, không nhận thức được “những tội lỗi tiềm ẩn” (Tv 19, 12) vốn
chưa được thanh luyện. Nghĩa là Phêrô không ý thức được chiều sâu của sự vô trật
tự vì yêu mình đến mức khinh dể Thiên Chúa (Augustinô). Nhưng, còn hơn thế. Việc
Phêrô khăng khăng rằng ông sẵn sàng chết vì Chúa Giêsu xuất hiện trong bối cảnh
Chúa Giêsu đã tiên báo: “Ðêm nay tất cả
anh em sẽ vấp ngã vì Thầy” (Mt 26, 31), và Phêrô thẳng thừng phủ nhận điều
này: “Dầu tất cả có vấp ngã vì Thầy đi nữa,
thì con đây cũng chẳng bao giờ vấp ngã” (Mt 26, 33).
Phân tích của thánh Tôma Aquinô về sự tự phụ bắt
nguồn từ hư vinh là điều thích hợp: “Sự tự
phụ như vậy rõ ràng xuất phát từ hư vinh; vì người ta có lòng ham muốn vinh
quang lớn lao, nên người ta cố gắng những việc vượt quá khả năng của mình, và
nhất là những điều mới lạ đòi hỏi sự ngưỡng mộ nhiều hơn”[4].
Phêrô có thể chấp nhận rằng các tông đồ khác sẽ xa lìa Chúa Giêsu. Ông không thể
chấp nhận là mình ông sẽ làm như thế. Điều này sẽ khiến ông khác biệt với những
người khác. Phêrô sẽ học biết rằng trong mắt Thiên Chúa, điều đáng được ngưỡng mộ hơn chính là sự hoán cải lớn hơn.
Có một thực tế thật là buồn cười, thậm chí siêu phàm, trớ trêu là lời tuyên bố
đầy tự phụ về tình yêu của Phêrô dành cho Chúa Giêsu sẽ khiến ông trở nên khác
biệt với những người khác, những người đã không chối Chúa Giêsu một cách tự phụ
như ông đã làm. Chỉ có Phêrô đã công khai chối Chúa 3 lần!
“Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy”
(Ga 21, 15. 16).
Cách trả lời của Phêrô trước câu hỏi của Chúa Giêsu, "Anh có yêu mến Thầy không?" nhằm thu hút sự chú ý của chúng
ta. Câu trả lời của Phêrô cho lần thứ ba mà Chúa Giêsu hỏi, "Anh có yêu mến Thầy không?" xác nhận
rằng điều đó có ý nghĩa đối với Thánh sử Gioan, “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy” (Ga 21,
17). Thánh Tôma Aquinô nhận xét rằng sự chất vấn gấp ba của Chúa Giêsu về tình
yêu của Phêrô khiến ông nhớ lại rằng trước đó “ông đã nhanh nhẹn khẳng định rằng ông yêu Ngài”. Thấy rõ mình đã tự
phụ thế nào khi chối Chúa, “ông sợ mình sẽ
bị quở trách một lần nữa và trở nên buồn bã”.
Vì vậy, Phêrô nói, "Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy".
Phêrô thực sự đang nói: “Con yêu mến Thầy,
trong chừng mực mà con có thể biết được tình yêu của con dành cho Thầy. Nhưng
Thầy biết mọi sự, và có lẽ Thầy biết điều gì đó khác sẽ xảy ra”.[5]
Tội lỗi của Phêrô đã dạy ông tin tưởng vào những
gì Chúa Giêsu biết hơn là những gì ông biết về tình yêu của mình dành cho Người.
Với điều này, sự tự phụ của Phêrô hoàn toàn bị trừ diệt. Nơi Phêrô, tiên đề của
Thánh Gioan, “Chúng ta yêu vì Thiên Chúa
đã yêu thương chúng ta trước” (1Ga 4, 19), đã được xác minh. Điều này củng
cố quan điểm trước đó về sự khôn ngoan của Chúa Giêsu trong việc không hỏi
Phêrô về tình yêu của ông dành cho Người trước mầu nhiệm vượt qua. Bởi vì, chỉ
khi tình yêu đối với Chúa Giêsu là sự đáp lại việc Ngài đã yêu chúng ta “cho đến cùng” (Ga 13, 1) - không chỉ dựa
trên tình yêu mà Người thể hiện qua các phép lạ và giáo huấn của Người - thì
tình yêu của chúng ta dành cho Người mới đủ mạnh để làm một cuộc hành trình
qua đêm đen.
Chỉ sau khi cảm nghiện được sự tha thứ tội lỗi
Phêrô mới có thể tuyên xưng tình yêu của mình đối với Chúa Giêsu với sự tự tin
được bén rễ từ những lời của Chúa Giêsu về tình yêu của Maria Mađalêna (Người
phụ nữ sám hối): “Vì vậy, tôi nói cho ông
hay: tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều.
Còn ai được tha ít thì yêu mến ít" (Lc 7, 47). Yêu mến Chúa Giêsu vì
được Người tha tội là yêu mến Người trong sự thật của mầu nhiệm vượt qua của
Người. Chỉ có một tình yêu như thế mới là nền tảng vững chắc cho việc sùng kính
Thánh Thể như là nguồn mạch và chóp đỉnh của đời sống Kitô hữu. Chỉ sau cuộc khổ
nạn, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu và sự hoán cải của Phêrô, thì những
lời của Chúa Giêsu mới được ứng nghiệm: “nhưng
sau này anh sẽ đi theo” (Ga 13, 36).
"Hãy chăm sóc chiên của Thầy”. (Ga
21, 17)
Tương ứng với 3 lời tuyên xưng về tình yêu của
Phêrô dành cho Người, Chúa Giêsu đưa ra một mệnh lệnh gấp ba, “Hãy chăm sóc chiên con của Thầy… Hãy chăn dắt
chiên của Thầy… Hãy chăm sóc chiên của Thầy” (Ga 21, 15. 16. 17). Thánh
Tôma Aquinô nhận xét: “Theo cách này, cuối cùng Giáo hội được trao phó cho một
Phêrô khiêm nhường.”[6]
Một cách trau chuốt hơn:
“Đức Chúa của chúng ta đã cho phép Phêrô chối
bỏ Người vì Người muốn chính vị đứng đầu toàn thể Giáo hội biết thương cảm hơn
đối với những người yếu đuối và tội lỗi, vì đã trải nghiệm sự yếu đuối của
chính mình khi đối diện với tội lỗi: “Vị
Thượng Tế của chúng ta không phải là Ðấng không biết cảm thương những nỗi yếu
hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, chỉ trừ
tội lỗi” (Dt 4, 15). Điều này đúng về Đức Kitô, và điều này cũng có thể được nói về Phêrô, với những tội lỗi
của ông”[7].
Phêrô xứng đáng được Chúa trao cho Giáo hội của
các tội nhân vì đức tin, tình yêu và sự khiêm nhường của ngài là kết quả của
kinh nghiệm về tội lỗi và lòng thương xót của Thiên Chúa đối với ngài. Tại thời
điểm này, cách duy nhất để Phêrô hoàn thành luật mới để yêu thương người khác
như ngài đã được Chúa Kitô yêu thương (Ga 13, 34) đó là thi hành “chức vụ hòa giải” (2Cr 5, 18). Không còn
một Phêrô khác nữa, một Phêrô vẫn giữ phần nào đó trong đời cho một ý nghĩa
khác. Cuộc tử đạo của Phêrô sẽ xác nhận điều đó. Phêrô đã trở thành một Đức
Kitô khác nhờ kinh nghiệm của ngài về lòng thương xót của Thiên Chúa được mặc
khải cách dứt khoát trong mầu nhiệm vượt qua của Chúa Giêsu Kitô.
Tất cả những điều này đều đúng cho tất cả những
ai mà Đức Chúa kêu gọi nhận Chức Thánh để tiếp tục sứ mệnh thương xót của Người.
Một lần nữa, Thánh Tôma Aquinô diễn giải một cách trung thực ý định của Chúa
Giêsu khi hỏi Phêrô về tình yêu của ông đối với Người.
Cách đặt câu hỏi này cũng phù hợp với chức vụ
vì nhiều người đảm nhận chức vụ mục vụ nhưng lại sử dụng nó như những người chỉ
yêu bản thân. “Vào những ngày sau hết sẽ
có những lúc gay go. Quả thế, người ta sẽ ra ích kỷ” (2Tm 3, 1). Ai
không yêu mến Chúa thì không phù hợp để làm giám mục. Một giám mục phù hợp là
người không tìm kiếm lợi ích riêng mình, nhưng tìm lợi ích của Đức Kitô; và làm
điều này vì tình yêu: “Tình yêu Ðức Kitô
thôi thúc chúng tôi” (2Cr 5, 14). Tình yêu cũng trở thành tác vụ vì nó mang
lại lợi ích cho người khác: vì tình yêu dồi dào mà những ai yêu mến Chúa Giêsu
sẽ có lúc từ bỏ sự tìm kiếm chiêm niệm của riêng mình để giúp đỡ người lân cận.
Mặc dù vị Tông đồ nói, “cho dầu là sự chết
hay sự sống, … không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa”
(Rm 8, 39), ông nói thêm, “giả như vì anh
em đồng bào của tôi theo huyết thống, mà tôi có bị nguyền rủa và xa lìa Ðức
Kitô, thì tôi cũng cam lòng” (Rm 9, 3). Vì vậy, một giám mục nên tự vấn về
tình yêu của mình.[8]
Hành động giao phó Giáo hội của Chúa Giêsu cho
Phêrô sẽ không có cơ sở, sẽ không hoàn toàn nhân bản và hợp lý, nếu ngài đã
không sống điều có thể được coi là Lời Tuyên xưng Đức tin và Lời thề Trung
thành đầu tiên — mỗi điều mà Phêrô chấp nhận trong sự khiêm nhường và tình yêu
đó là kết quả của sự hoán cải của ngài.
"Hãy theo Thầy" (Ga 21, 19)
Ngay sau lời tuyên xưng về tình yêu lần thứ ba
của Phêrô và sự uỷ thác lần thứ ba của Chúa Giêsu là chăm sóc chiên của Người,
Chúa Giêsu nói với Phêrô: “Thật, Thầy bảo
thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tùy ý.
Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải giang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn
anh đến nơi anh chẳng muốn". Thánh sử Gioan cho chúng ta biết những lời
này có nghĩa là gì: “Người nói vậy, có ý
ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa”. Tất nhiên, điều
này đề cập đến sự tử đạo của Phêrô. “Thế
rồi, Người bảo ông: ‘Hãy theo Thầy’" (Ga 21, 18–19). Giờ đây, Phêrô biết
rằng sự thật đầy đủ về ơn gọi theo Chúa Giêsu của ông là để ông tiếp tục sứ mệnh
thương xót của Đức Kitô bằng cách tham dự vào mầu nhiệm vượt qua của Người.
Một sự đối xứng giờ đây đã rõ giữa một đàng là
những lời khích lệ “Hãy theo Thầy” và
đàng khác là cảm giác tội lỗi của Phêrô trước Vượt qua và sau Vượt qua. Trong
biến cố bắt được mẻ cá thần kỳ, Phêrô đã thú nhận tội lỗi của mình. Ông cho rằng
mình không đủ tư cách để được gần gũi với Chúa Giêsu. Nhưng đối với Chúa Giêsu,
việc người ta nhận thức về tội lỗi của mình là một điều kiện cần thiết, và do
đó Chúa Giêsu đưa ra lời mời gọi hãy theo Người và tham gia vào sứ mệnh của Người:
“Ðừng sợ, từ nay anh sẽ bắt người như bắt
cá” (Lc 5, 10). Chắc chắn, Chúa Giêsu biết rằng Phêrô có nhiều điều để học về
tội lỗi của ông và về lòng thương xót của Thiên Chúa. Người biết rằng cảm thức về tội lỗi và sự hiểu biết của
Phêrô về độ dài mà tình yêu của Thiên Chúa sẽ đi thì
không sâu thẳm như Ngài, và vì lý do này Phêrô chưa thể hiểu được sự khôn ngoan
về “sự cần thiết mầu nhiệm là Đức Kitô phải
chịu đau khổ và chết để đi vào vinh quang của Người”. Nhưng, Chúa Giêsu
cũng có một kế hoạch để đưa Phêrô đến đó bằng cách mạc khải bản chất vượt qua của
tình yêu của Người như sự hoàn thành kế hoạch của Thiên Chúa để tha thứ tội lỗi. Cuối cùng, tội lỗi là sự phủ nhận tình
yêu Thiên Chúa được mạc khải trọn vẹn qua hy lễ vượt qua của Đức Kitô, điều này
cho thấy Thiên Chúa yêu thương “cho đến
cùng” (Ga 13,1), nghĩa là, đến sự hoàn hảo tuyệt đối của tình yêu mà không
có tình yêu nào lớn hơn, bằng cách thí mạng sống vì bạn hữu (Ga 15, 13).
Phêrô xưng thú tội lỗi trước Vượt qua bằng lời
nói mà không có nước mắt, lời thú tội sau Vượt qua bằng nước mắt mà không cần lời
nói. Nếu Phêrô đặt lời cho sự xưng thú, chắc chắn sẽ là những lời giống như của
thánh Phaolô, người đã gọi Đức Giêsu Kitô là “Con Thiên Chúa, Ðấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2,
20). Các Giáo Phụ gọi lời xưng thú sau Vượt qua bằng nước mắt của Phêrô như một
phép rửa lần thứ hai hoặc “phép rửa trong
nước mắt” (Thánh Clement thành Alexandria). Thánh Éphraim Syria nói về đôi
mắt khóc trong sự sám hối thánh thiện như “hai
nguồn của sự xá tội”. St. Ambrose
nói về hai cuộc hoán cải trong Giáo Hội, “có
nước và nước mắt: nước của Phép Rửa và nước mắt của sự ăn năn” (GLCG,
1429). Qua những giọt nước mắt sám hối của mình, Phêrô tham dự vào chức tư tế
và những giọt nước mắt của Chúa Kitô, Đấng đã khóc thương thành Giêrusalem (Lc
19, 41) và với “những tiếng kêu van và những
giọt nước mắt” của Người (Dt 5, 7), được nên thập toàn như một tư tế qua
đau khổ. (Dt 2, 10).
Sự đối xứng giữa việc xưng thú tội lỗi của
Phêrô trước và sau Vượt qua kéo theo một sự đối xứng khác, sự đối xứng này giữa
việc Chúa Giêsu giao phó Giáo hội lần đầu cho Phêrô trước Vượt qua, và sự giao
phó cuối cùng, sau Vượt qua của Người. Lần đầu là để đáp lại lời tuyên xưng đức
tin của Phêrô vào Chúa Giêsu: “Thầy là Ðấng
Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16, 16). Lần thứ hai, mà Thánh Tôma
Aquinô gọi là “sự giao phó Giáo hội cuối
cùng” lần Chúa Kitô “thực hiện cho một
Phêrô khiêm nhường” là để đáp lại lời tuyên xưng tình yêu của Phêrô dành
cho Người. Với nền tảng đức tin và tình yêu của Phêrô này, chúng ta có thể hiểu
được đầy đủ về độ vững chắc gấp đôi của tảng đá mà trên đó Chúa Giêsu tiếp tục
xây dựng Giáo hội của Người.
Để có thể xứng
đáng được giao phó Giáo hội cuối cùng, Phêrô phải học, không phải như một bài học
trên lớp nhưng về mặt hiện sinh, cá nhân, rằng tội lỗi là sự chối bỏ tình yêu của
Thiên Chúa được mạc khải trọn vẹn trong Chúa
Giêsu Kitô. Tương tự, Phêrô sẽ học được rằng hy lễ vượt qua của Chúa Giêsu Kitô
để tha thứ tội lỗi là sự hoàn thành mọi lời hứa của Thiên Chúa. Giờ đây, với sự đào tạo của Phêrô đã hoàn tất như là kết quả
của sự hoán cải, như được minh chứng trong lời tuyên xưng sau Vượt qua về tình
yêu của ông đối với Người, Chúa Giêsu nhắc lại lời kêu gọi đi theo Người. Với
điều này, lời của Chúa Giêsu, “Nơi Thầy
đi, bây giờ anh không thể theo đến được; nhưng sau này anh sẽ đi theo” (Ga
13, 36), được ứng nghiệm.
Với mỗi giai đoạn mới của hành trình thiêng
liêng, những lời này của Chúa Giêsu cũng được ứng nghiệm trong đời sống của mỗi
người môn đệ. Những ân sủng của việc theo Chúa Giêsu hôm nay là lời hứa về những
ân sủng trong tương lai mà qua đó chúng ta có thể theo Người ngày càng gần hơn,
giúp giảm bớt khoảng cách giữa chúng ta và Người cách chính xác thông qua nhận
thức sâu sắc hơn về khoảng cách đó và sự ăn năn và hoán cải sâu hơn tương ứng,
nghĩa là tham gia đầy đủ hơn vào mầu nhiệm vượt qua của Người. Với mỗi lần hoán
cải khỏi tội lỗi, tức là trải nghiệm của việc không theo Chúa Giêsu bây giờ, rồi
sau đó chúng ta theo Người, và do đó chúng ta sẵn sàng đáp lại như Phêrô đã làm
khi Chúa lặp lại câu hỏi, “Anh có mến Thầy
không?” và trả lời, thành thật hơn, có ý nghĩa hơn trước, "Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy!"
Nt. Anna Ngọc Diệp,
OP
Dòng Đa Minh Thánh Tâm
Chuyển ngữ từ: The Catholic
World Report (27. 3. 2022)