NGƯỜI GIÁO DÂN DI DÂN: NHỮNG THAO THỨC VÀ
NGUYỆN VỌNG
Bạch Vân – Minh Huy
WHĐ (11.8.2020) –
“Từ vài thập kỷ nay rất nhiều bạn trẻ đã có mặt ở Sài Gòn để học tập và lao động,
họ đang ngày đêm cố gắng trau dồi kiến thức và kinh nghiệm, để có thể lập thân,
lập nghiệp tại thành phố này. Động cơ vào Sài Gòn của đa số những người trẻ là
được đổi đời, được thoát cảnh con trâu đi
trước cái cày theo sau, nhất là được khám phá và phát huy những khả năng của
mình tại một thành phố năng động, giàu tiềm năng, có thị trường công nghiệp lớn,
là đầu tàu của cả nước về kinh tế. Tuy nhiên, sống xa mái ấm, gia đình, xa quê
hương, họ cũng gặp không ít những khó khăn, chịu nhiều áp lực, nhiều thiệt thòi
về mọi mặt...” (trích video “Một thoáng
Phát Diệm giữa lòng Sài Gòn” – thầy Giuse Vũ Văn Được – DCCT).
Hòa chung trong
dòng người di dân đang cư ngụ tại Sài Gòn, chúng tôi những người con của đất mẹ
Phát Diệm, đã bước đi với mong ước thoát khỏi cái nghèo, cái khổ của vùng quê
mà chỉ có một nghề làm nông bao đời nay. Chúng tôi mang theo mơ ước, hành trang
của tuổi trẻ để ra đi với bao dự định, với bao viễn tưởng về nơi thành thị phồn
hoa sẽ cho chúng tôi cơ hội đổi đời, thoát nghèo. Nhưng trong một môi trường mới,
một không gian sống mới với những thách đố, rủi ro và sức ép về mọi mặt của đời
sống đô thị, tất cả đè nặng trên vai chúng tôi trong hành trình đi tìm tương
lai cho chính mình. Nó cũng không khỏi làm cho chúng tôi có thể vững vàng bước
đi trong hành trình đức Tin của mình ở thành thị này.
1. MƯU SINH NƠI MẢNH ĐẤT XA LẠ
Người di dân
chúng tôi luôn được nhìn như những thành phần “vô xứ”, những kẻ làm cho thành
phố lộn xộn, những kẻ mang theo tệ nạn, là gánh nặng cho thành phố... Những định
kiến này đã làm cho chúng tôi không khỏi tự ti với thân phận vô xứ của mình.
Nhưng ít ai lại biết chúng tôi có một đời sống không mấy dễ dàng nó luôn đầy rẫy
những rủi ro, thử thách. Nơi mảnh đất xa lạ này chúng tôi đôi khi không được
chào đón nhưng quyết định ra đi cũng là phương cách duy nhất còn lại chúng tôi
có thể lựa chọn, đôi khi còn là sự đánh cuộc của số phận mình trong dòng mưu
sinh.
Trước những áp lực
về kinh tế đè nặng trên vai, chúng tôi cũng không có nhiều lựa chọn để phát triển
bản thân và được tiếp cận với những phúc lợi xã hội. Vì điều kiện kinh tế mà
nhiều người di dân trong chúng tôi phải chấp nhận sống trong các khu nhà trọ chật
hẹp, đôi khi một căn phòng nhỏ nhưng là nơi sinh hoạt của cả gia đình với 5 – 6
thành viên. Những khu chợ không đủ điều kiện an toàn thực phẩm, những bữa ăn
không đủ dinh dưỡng vẫn làm cho chúng tôi băn khoăn và lo lắng nhưng lại không
thể có lựa chọn khác. Áp lực bởi kinh tế, bởi những trách nhiệm ở quê nhà, bởi
sự bất công của xã hội... tất cả làm cho chúng tôi chơi vơi nơi thành thị.
Chúng tôi cũng có
những ước mơ được đổi đời, những dự tính cho tương lai nhưng không phải tất cả
đều có thể làm được, có biết bao anh chị em của chúng tôi vì không chịu nổi sức
ép của thành thị đành bỏ về quê tiếp tục cuộc sống với đồng ruộng hay chuyển
sang làm những ngành nghề khác. Vì trình độ thấp, thiếu những nguồn vốn xã hội
cần thiết và vì thiếu hiểu biết nên đã đẩy biết bao anh chị di dân vào cảnh lầm
than ở đô thị dù họ vẫn ao ước tìm kiếm một tương lai cho mình.
2. ĐỨC TIN TRONG BƯỚC ĐƯỜNG TÌM KIẾM TƯƠNG LAI
Bước đến thành thị
người di dân cũng phải đứng trước những thách đố của cuộc sống và phải đối mặt
với sự đảo lộn về văn hóa – xã hội. Ở vùng đất mới này chúng tôi luôn phải cố gắng
để thích nghi bởi những khác biệt về môi trường sống, những khó khăn và những cạm
bẫy luôn rình rập. Trong một xã hội gắn liền với sự “đa nguyên về thực tại” và
“đa nguyên về căn cước”[1], xã hội mà truyền thông ngày càng chi phối mạnh mẽ tới
mọi cá nhân trong xã hội. Những điều này tác động mạnh mẽ đến đời sống của người
di dân, đặc biệt với những người giáo dân di dân như chúng tôi, bởi chúng tôi
còn mang trong mình căn tính tôn giáo đã được định hình và chi phối tới mọi mặt
trong đời sống.
Thay đổi môi trường,
thay đổi không gian sống làm cho đời sống đạo của những người di dân cũng bị
thay đổi, từ đó dẫn đến thay đổi về nhận thức đời sống đạo, thay đổi về “căn
tính” trong đời sống đức Tin của người di dân, nó tạo nên những cách ứng xử mới
của họ trong việc thực hành các lễ nghi và tham gia các sinh hoạt của họ. Trước
những áp lực, những gánh nặng của cuộc đời người giáo dân di dân dễ bị phân mảnh,
vụn vỡ trong tâm hồn, trong nhận thức của mình để rồi chính họ phải suy ngẫm
khác về cuộc đời. Chỉ trong các hoàn cảnh sống riêng của chính mình thì họ mới
hiểu và chọn lựa cho mình một phương cách sống riêng.
Nếu trong môi trường
giáo xứ quê hương truyền thống mang tính chất đồng đạo cùng nằm trong một qui
chuẩn nhất định, yếu tố cộng đồng tác động đến mọi khía cạnh của đời sống của
người giáo dân vì vậy xây dựng một lãnh vực riêng tư là điều khó khăn. Khi những
người giáo dân di dân này rời khỏi cộng đồng họ bước vào tiến trình trải nghiệm
cá nhân trong một môi trường mới. Bước chuyển từ xã hội đơn văn hóa sang xã hội
đa văn hóa sẽ cho người giáo dân di dân có một nhận thức mới về đời sống đạo bằng
chính trải nghiệm của cá nhân mà còn gọi là “sự trưởng thành về đức Tin”.
Người giáo dân di
dân không phải luôn mang trong mình sự giảm sút trong việc thực hành các nghi lễ
tôn giáo mà chính họ cũng tạo nên sự phong phú và phát triển cho giáo xứ nơi họ
đến. Chính bản thân họ được trải nghiệm đức Tin và hình thành nên những nhãn
quan mới trong nhận thức về đức Tin tôn giáo của mình từ đó dẫn đến những cách
hành xử mới. Nó có thể chính là sự “trưởng thành về đức Tin” nhưng cũng có thể
là những khủng hoảng trong đời sống đạo, họ bị khủng hoảng trong việc chọn lựa
những chiến lược sống, có những xung đột nội tâm giữa niềm tin tín ngưỡng và
nhu cầu riêng tư bản thân. Vì vậy, việc lựa chọn lối sống của người giáo dân
Công giáo để làm sao vừa duy trì bản sắc cộng đồng truyền thống, vừa đáp ứng
nhu cầu riêng tư bản thân là một thách thức nội tâm đối với người di dân trong
đời sống xã hội hiện nay.
Bằng sự trải nghiệm
của chính bản thân với đức Tin của mình người giáo dân di dân đang kiến tạo nên
những nhận thức mới về đời sống đạo. Trong tiềm thức của chúng tôi việc: đọc
kinh, tham dự thánh lễ, học hỏi giáo lý... vẫn là những yếu tố đứng hàng đầu
trong đời sống đạo của mình và chúng tôi luôn cố gắng gìn giữ và tham gia. Những
buổi tối ở sân các nhà thờ hay ở các khu nhà trọ vẫn có những lời kinh mân côi
vang lên. Chúng tôi quy tụ lại với nhau cùng dâng lên lời kinh, tiếng hát để tạ
ơn Chúa và Mẹ trong suốt một ngày làm việc. Suốt bao năm nay những giờ kinh tối
cùng nhau vẫn luôn diễn ra và nó đã trở thành một điều không thể thiếu và đã trở
thành một nét riêng của những người giáo dân di dân nơi những khu nhà trọ chật
hẹp của thành thị này.
3. CÁC NHÓM ĐỒNG ĐẠO ĐỒNG HƯƠNG – CHIẾN LƯỢC ỨNG
XỬ CỦA NGƯỜI GIÁO DÂN DI DÂN
Giữa một thành phố
năng động, xe cộ ngày đêm nối đuôi nhau vội vã ngược xuôi, chúng tôi nhận thấy
có một “thoáng” người di dân Công giáo giữa lòng thành phố sôi động này. Vì cuộc
sống mưu sinh mà đã bỏ cuộc sống quê hương, gia đình, xóm làng vào đây làm ăn
sinh sống. Họ thường tìm một khu vực sinh sống có những người cùng quê hương,
cùng những xứ đạo quê nhà để trở thành một xóm trọ có làng xóm, có người thân
quen để nâng đỡ nhau những lúc tối lửa tắt đèn, những cơn gian nan túng quẫn.
Các khu nhà trọ này tập trung nhiều trên địa bàn đường Phạm Thế Hiển quận 8, hoặc
khu vực cách giáo xứ Bến Hải, Bến Cát thuộc quận Gò Vấp, hay khu vực đường Lê Đức
Thọ là khu ở trọ tập trung nhiều anh chị em di dân đến từ GP. Phát Diệm, Bùi
Chu, Thái Bình, riêng GP. Phát Diệm đa số họ làm nghề đúc bê tông, chở xà bần
hoặc bán thực phẩm... Hay những người con của Giáo phận Vinh thuộc các tỉnh Nghệ
An, Hà Tĩnh, Quảng Bình,... thì thường tập trung gần các giáo xứ Xuân Hiệp, Khiết
Tâm, Tam Hải và khu vực Dĩ An, Bến Cát của tỉnh Bình Dương, họ chủ yếu là những
người công nhân làm việc trong các khu công nghiệp, khu chế xuất.
Trước những rủi
ro, những thách thức của đời sống mới chúng tôi cũng phải đưa ra những lựa chọn
dành cho mình để giảm thiểu những khó khăn đó. Chúng tôi tham gia vào nhóm đồng
hương của mình nơi quy tụ các bạn trẻ xa quê Phát Diệm trong Nhóm giới trẻ Công
giáo Phát Diệm tại miền Nam. Nơi đây chúng tôi được cùng nhau chia sẻ những
gánh nặng của cuộc sống, những thách đố của đời sống đức Tin để rồi cùng nâng đỡ
nhau trong hành trình đức Tin của mình. Những buổi sinh hoạt cùng nhau giúp
chúng tôi được trưởng thành về đức Tin và như một bệ đỡ tinh thần cho chúng tôi
ngay ở thành thị.
Cùng với Nhóm giới
trẻ Công giáo Phát Diệm tại miền Nam cũng có rất nhiều các nhóm đồng hương, đồng
đạo của các anh chị em di dân với những tên gọi: Nhóm đồng hương giáo xứ Quang
Lạng, Nhóm đồng hương giáo hạt Minh Cầm, Nhóm đồng hương giáo xứ Làng Truông...
Với các bạn sinh viên xa quê ở Sài Gòn có rất nhiều nhóm quy tụ các bạn cùng
quê hương lại với nhau như: Nhóm sinh viên Công giáo Bùi Chu tại miền Nam, Nhóm
sinh viên Công giáo Vinh tại miền Nam,... Các nhóm này không chỉ hỗ trợ về vật chất
bằng việc tương trợ giúp đỡ nhau khi khó khăn, mà còn giúp đỡ cả về mặt tinh thần
đặc biệt là những sinh hoạt tôn giáo với nhau.
Cùng với các nhóm
đông đảo những người đồng hương với nhau thì các ngày gặp mặt di dân tại Sài
Gòn cũng được tổ chức như: Ngày họp mặt di dân giáo phận Phát Diệm, Ngày họp mặt
di dân giáo phận Thái Bình, Ngày họp mặt di dân giáo phận Vinh... đây là dịp
cho chúng tôi được gặp gỡ các vị chủ chăn quê hương của mình và cũng là dịp
nâng đỡ về tinh thần cho chúng tôi, cho những người con xa quê được thỏa niềm
mong ước với quê hương mình. Nhưng đến rồi đi, chúng tôi vẫn lạc lõng trong
dòng đời xô bồ, những đứa con xa quê vẫn luôn mong ước về với quê hương mình
nhưng đó không phải là điều dễ dàng. Bởi các ngày họp mặt anh chị em di dân chỉ
diễn ra một ngày, nó chỉ mang tính chất gặp gỡ mà chưa có sự đồng hành liên tục
và giúp đỡ chúng tôi. Chúng tôi luôn mong ước một sự thấu hiểu từ các vị chủ
chăn trong những thách đố mà những người con di dân như chúng tôi đang đối mặt.
Việc tham gia vào
các nhóm Công giáo giúp chúng tôi định vị lại căn tính của mình trong cộng đồng,
đặc biệt nơi đây có thể giúp chúng tôi có những cơ hội gặp gỡ các anh chị em
cùng tôn giáo với mình để có thể có những cơ hội lựa chọn một người bạn đời
cùng chung niềm tin tôn giáo với mình. Qua gặp gỡ, chia sẻ và đồng hành của các
linh mục, tu sĩ và cùng các thành viên chúng tôi được nâng đỡ và trưởng thành
trong đức Tin của mình. Trong không gian khác, thế giới khác chúng tôi bước đi
với những sự lạc lõng nhưng nhờ vào các mạng lưới hỗ trợ của Giáo Hội mà chúng
tôi bước đi vững vàng hơn. Nhưng cũng còn biết bao anh chị em di dân như chúng
tôi không có cơ hội tham gia được vào các nhóm bởi những hoàn cảnh, những khó
khăn riêng của từng người. Và cũng một phần bởi những yếu tố từ chính tổ chức của
các nhóm tạo nên sự cản trở cho việc tham gia của người di dân, những nhóm chỉ
quy tụ những người cùng một vùng hay một vài giáo xứ lại với nhau, chính những
điều này làm cho những người anh chị em di dân khác khó có thể hòa nhập và tham
gia được. Chính những sự cản trở này làm cho nhiều anh chị em di dân vẫn lạc
lõng, đơn độc trong đời sống đức Tin của mình. Đặc biệt là những người giáo dân
di dân mới, bởi giai đoạn ban đầu với những sự thay đổi và khủng hoảng sẽ rất dễ
làm cho họ mất đi căn tính tôn giáo truyền thống của mình nếu không được nâng đỡ
và đồng hành.
4. AO ƯỚC, THAO THỨC VÀ NGUYỆN VỌNG
Người giáo dân di
dân có một nhu cầu về đời sống vật chất, tinh thần và đặc biệt là nhu cầu tâm
linh một cách mạnh mẽ nhưng nhiều mạng lưới hỗ trợ dành cho người di dân vẫn
còn hạn chế. Các nhóm đồng hương được thành lập nhưng vẫn mang tính quy tụ với
nhau mà không có tính đồng hành liên tục với người di dân trong suốt hành trình
họ thích nghi với đời sống mới ở đô thị.
Chúng tôi cũng
luôn ao ước có được những sự thấu hiểu đúng đắn và quan tâm của các vị chủ chăn
cho những người con xa quê như chúng tôi. Việc không ổn định nơi ở, cùng những
thách đố của cuộc sống làm cho chúng tôi cảm thấy lạc lõng trên bước đường mưu
sinh của mình, cùng những mặc cảm, tự ti với thân phận “vô xứ” tất cả khiến
chúng tôi khó có thể hòa nhập vào với đời sống của giáo xứ sở tại một cách trọn
vẹn. Cùng những sự hiểu biết ít ỏi của chúng tôi về những giáo lý, giáo luật của
Hội Thánh về người di dân chúng tôi nên việc thực hiện nhập xứ, hay tham gia
sinh hoạt với các giáo xứ sở tại là một khó khăn của chúng tôi.
Chúng tôi ao ước có những chương trình chuẩn bị cho các bạn trẻ trước
khi rời khỏi quê hương để họ có thể có những chuẩn bị để bước vào một đời sống xa
lạ nhưng có thể tránh được những khủng hoảng đức Tin, những khủng hoảng của cuộc
sống ban đầu. Cùng những việc phổ biến giáo luật hay quy định để cho chính những
người di dân như chúng tôi được học hỏi và thực hiện. Chúng tôi cũng ước mong
các tổ chức của Giáo Hội có thể chú trọng đến nhu cầu của người giáo dân di dân
trong những hoàn cảnh phù hợp bởi đôi khi những chuẩn mực hay những quy định
giáo lý lại là trở ngại cho chính cuộc sống của người di dân khiến cuộc sống
nơi đô thị đã vốn không dễ dàng nay lại càng không dễ dàng hơn và sẽ có nguy cơ
làm mất đi căn tính tôn giáo của mình nhiều hơn.
__________
[1] Quan điểm về
hiện đại hóa trong tác phẩm “Sự kiến tạo
xã hội về thực tại” của Peter L. Berger và Thomas Luckman – Trần Hữu Quang
(chủ biên dịch thuật, giới thiệu và chú giải), NXB Tri Thức, 2015.
Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGM VN, số 97 (tháng 11
& 12 năm 2016)