Nên hiểu và áp dụng
tự sắc Summorum Pontificum về việc dùng “phụng vụ La-tinh cũ” thế nào cho đúng?
Chỉnh Trần, SJ.
Manila 23/08/2020
Ngày 07/07/2007, Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đic-tô XVI đã công bố thư gửi
các Giám Mục Công Giáo toàn thế giới để giới thiệu Tự Sắc Summorum Pontificum[1] về việc sử dụng Lễ Quy Rôma do Đức Giáo
Hoàng Pi-ô V ban hành và sau được Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII tái công bố vào
năm 1962 (về sau xin tạm gọi tắt là Lễ Quy 1962) trước khi có cuộc cải tổ năm
1970 (về sau xin tạm gọi tắt là Lễ Quy 1970). Nhiều năm đã trôi qua kể từ khi Tự
Sắc được ban hành, những thắc mắc xoay quanh việc hiểu và áp dụng Tự Sắc này
như thế nào trong sinh hoạt phụng vụ của Giáo Hội tại nhiều Giáo Hội địa phương
khác nhau vẫn chưa được giải đáp thoả đáng. Dưới đây là trả lời cho một số câu
hỏi thường được đặt ra:
Nguồn ảnh: Catholic National Register
1. Tại sao có Tự Sắc Summorum Pontificum?
Trước hết, Tự Sắc Summorum
Pontificum được ban hành nhằm thể hiện mối quan tâm mục vụ cho các tín
hữu ở một số miền “đã và đang gắn bó
với lòng yêu mến cao độ những hình thức phụng vụ trước đây, vốn ăn sâu trong
văn hóa và tinh thần của họ.”[2] Thứ đến, tuy Huynh Đoàn Pi-ô X của Tổng
Giám mục Marcel Lefevre không được nhắc đến trong Tự Sắc nhưng ai cũng hiểu rằng
Tự Sắc này được xem như một trong những nỗ lực đưa Huynh Đoàn này trở về hiệp
thông với Giáo Hội Công Giáo Rôma. Huynh đoàn Pi-ô X do TGM Lefevre thành lập
năm 1970. Huynh đoàn này mạnh mẽ bảo vệ Thánh lễ Tridentine truyền thống, khước
từ Lễ Quy 1970, và có nhiều quan điểm đối lập với Giáo Hội Công Giáo, đặc biệt
là một số giáo huấn của Công Đồng Vatican II. Năm 1988, TGM Lefevre tấn phong
giám mục bất hợp pháp cho 4 linh mục thuộc Huynh đoàn mà không có uỷ nhiệm của
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Kết quả là TGM Lefevre và 4 giám mục này đều bị
Vatican vạ tuyệt thông.
2. Tại sao cử hành Thánh Lễ theo Lễ Quy 1962 được
xem là “một hình thức ngoại thường” trong phụng vụ của Giáo Hội?
Theo Điều 1 của Tự
Sắc Summorum Pontificum, Lễ Quy
1970 được xem là diễn đạt thông thường của luật cầu nguyện (lex orandi) trong Nghi lễ La-tinh của
Giáo Hội Công Giáo, trong khi Lễ Quy 1962 được xem là diễn đạt ngoại thường của
luật cầu nguyện (lex orandi). Tự Sắc
cũng khẳng định rằng hai lễ quy là hai cách dùng của cùng một Nghi lễ Rôma chứ
không phải là hai “lễ nghi” khác nhau. Lễ Quy 1962 được gọi “ngoại thường” vì Lễ
Quy này không phải là Lễ Quy được dùng phổ biến trong Giáo Hội Công Giáo Rôma
sau khi Lễ Quy 1970 được ĐGH Phaolô VI đưa vào áp dụng cho Giáo Hội hoàn vũ. Thẩm
quyền Giáo hội chưa bao giờ bãi bỏ Lễ Quy 1962. Trước khi có Tự Sắc Summorum Pontificum, ai muốn cử hành
Thánh Lễ theo Lễ Quy 1962 thì phải xin phép Đấng Bản quyền.
3. Linh mục có được “toàn quyền” cử hành Lễ Quy
1962 hay không?
Để trả lời cho
câu hỏi này chúng ta cần bám sát vào nội dung của Tự Sắc. Trước hết một linh mục
(dù là linh mục triều hay linh mục dòng) cử hành Thánh lễ (trừ Tam Nhật Thánh)
KHÔNG CÓ GIÁO DÂN THAM DỰ thì không cần phải có phép, dù của Toà Thánh hay của
Đấng Bản quyền. Thứ đến, theo điều 5 triệt 1 của Tự Sắc, nếu trong “những giáo
xứ nơi có một nhóm tín hữu GẮN BÓ VỚI TRUYỀN THỐNG TRƯỚC ĐÂY TỒN TẠI CÁCH ỔN ĐỊNH,”
họ cũng được cử hành Thánh lễ theo Lễ Quy 1962.
Huấn thị Ecclesiae
Universae[3] (EU) của Ủy Ban Toà Thánh Ecclesia Dei (Giáo Hội của
Chúa) được Phòng báo chí Tòa Thánh công bố ngày 13/5/2011, giải thích thêm về
điều 5 triệt 1 của Tự Sắc rằng “nhóm tín hữu gắn bó với truyền thống trước đây
tồn tại cách ổn định” gồm “các tín hữu
của cùng một giáo xứ, ngay cả sau khi công bố Tự sắc, qui tụ lại vì sự kính trọng
phụng vụ được cử hành theo cách sử dụng lại nghi lễ Roma, và xin cử hành thánh
lễ trong nhà thờ giáo xứ, một nhà nguyện hoặc nguyện đường; nhóm này cũng có thể
bao gồm những người từ nhiều giáo xứ hoặc giáo phận khác nhau, qui tụ với mục
đích trên trong một nhà thờ giáo xứ nào đó, một nhà nguyện hoặc nguyện đường.”[4]
Như vậy dựa vào Tự
Sắc và Huấn thị giải thích Tự Sắc, nhóm tín hữu được phép cử hành Lễ Quy 1962
bao gồm những tín hữu đã quen cử
hành Thánh lễ La-tinh và cả những tín hữu có lòng “kính trọng phụng vụ”
La-tinh mới làm quen với Thánh lễ
La-tinh ngay cả sau khi Tự Sắc được công bố.
Tuy nhiên, cũng
liên quan đến điều 5, Tự Sắc nhấn mạnh rằng: “Cha xứ nên xem xét xem lợi ích của những giáo dân này có hòa hợp thuận
thảo được với việc chăm sóc mục vụ bình thường của giáo xứ, dưới quyền cai quản
của Đức Giám Mục theo như giáo luật 392 hay không, trong khi tránh bất hòa và
nuôi dưỡng sự hiệp nhất trong toàn Giáo Hội.” Như thế, việc một nhóm
tín hữu “gắn bó với truyền thống trước đây [tức Lễ Quy 1962] tồn tại cách ổn định”
hay một nhóm tín hữu mới làm quen với Thánh lễ La-tinh muốn cử hành Thánh Lễ
La-tinh, họ cần lưu ý:
● Thỉnh nguyện cử
hành Thánh Lễ La-tinh của họ sẽ được cha xứ xem xét xem có hoà hợp với việc
chăm sóc mục của bình thường của giáo xứ hay không. Nghĩa là, nếu việc cử hành
Thánh lễ La-tinh của nhóm người này tạo nên những xáo trộn hay chia rẽ trong cộng đồng giáo xứ, cha xứ có quyền
từ chối thỉnh nguyện của họ.
● Những xáo trộn
hay chia rẽ này có thể là: nhóm dâng Lễ La-tinh tự tách mình ra khỏi sinh hoạt
mục vụ của giáo xứ, xem Lễ Quy 1962 là trổi vượt hơn Lễ Quy 1970 dẫn đến sự so
sánh giữa hai Lễ Quy hay các tín hữu trong giáo xứ (vì chưa có cái nhìn đúng đắn
về Thánh lễ La-tinh) xem nhóm dâng lễ La-tinh như một dạng chống đối phụng vụ
chung của Giáo Hội, bảo thủ cực đoan…
● Sự hiệp nhất trong toàn Giáo Hội cần phải được xem là yếu tố cốt lõi để phân
định trước khi quyết định có nên cử hành Thánh lễ theo hình thức ngoại thường
hay không.
4. Đâu là thẩm quyền của Giám mục giáo phận?
Điều 5 của Tự Sắc
có nhắc đến Giáo Luật số 392:
● l. Vì phải bảo vệ sự hiệp nhất của Giáo Hội phổ
quát, Giám Mục buộc phải cổ vũ kỷ luật chung của toàn thể Giáo Hội, và vì thế,
ngài phải thúc bách việc tuân giữ tất cả mọi luật của Giáo Hội (LG 23 ; CD 16).
● 2. Ngài phải liệu sao để cho kỷ luật của Giáo Hội
không bị lạm dụng, nhất là trong những điều liên quan đến tác vụ Lời Chúa, đến
việc cử hành các bí tích và các á bí tích, đến việc tôn thờ Thiên Chúa và việc
tôn kính các thánh, cũng như đến việc quản trị tài sản.
Như thế, Tự Sắc
không mặc nhiên trao cho linh mục hay nhóm tín hữu “toàn quyền” cử hành Thánh lễ
La-tinh theo Lễ Quy 1962 nhưng đặt thỉnh nguyện cử hành phụng vụ ngoại thường
này dưới sự hướng dẫn của Giám mục giáo phận. “Bảo vệ sự hiệp nhất của giáo hội phổ quát… kỷ luật chung của toàn thể
giáo hội… liên quan đến tác vụ Lời Chúa, đến việc cử hành các bí tích và á bí
tích, đến việc tôn thờ Thiên Chúa và việc tôn kính các thánh, cũng như việc quản
trị tài sản” (Trích GL 392). Đây là những yếu tố quan trọng để Giám mục
giáo phận xem xét và phân định liệu ngài có nên cho phép cử hành Thánh lễ
La-tinh trong phạm vi giáo phận của ngài hay không.
Tự Sắc có nhắc đến
việc nhóm tín hữu không xin được phép của cha xứ phải thông báo cho Giám mục bản
quyền và trình Ủy Ban Giáo Hoàng Ecclesia Dei (Lưu ý: Uỷ Ban này đã được giải
tán bởi ĐGH Phanxicô. Các nhiệm vụ của Uỷ ban được chuyển giao hoàn toàn cho Bộ
Giáo Lý Đức Tin) khi thỉnh nguyện không được Giám mục bản quyền cho phép. Tự Sắc
có nhắc đến việc Uỷ Ban Giáo Hoàng Ecclesia Dei “phải cho ngài [Giám mục
giáo phận] ý kiến và trợ giúp.” Cho “ý kiến và trợ giúp” ở đây nên được hiểu là
Uỷ Ban giúp Giám mục giáo phận có thêm những soi sáng và hướng dẫn cần thiết để
ngài xem xét và phân định. Quyết định cuối cùng vẫn thuộc về Giám mục giáo phận.
5. Vài nhận định của người viết
Một số người cho rằng qua Tự Sắc này, Đức Giáo Hoàng muốn khôi phục lại
Thánh lễ bằng tiếng La-tinh, vốn “đã bị quên lãng” sau Công Đồng Vatican II. Thực
ra Giáo hội chưa bao giờ bãi bỏ Lễ Quy 1962 mà chỉ xem Lễ Quy này như một “hình
thức ngoại thường.” Tiếng La-tinh không gắn liền với sách lễ của ĐGH Pi-ô V hay
sách lễ của ĐGH Phaolô VI. Nhưng tiếng La-tinh là ngôn ngữ chính thức của phụng
vụ Rôma. Vì thế, cả sách lễ của ĐGH Phaolô VI ban hành năm 1970 và 1975 và sách
lễ của ĐGH Gioan Phaolô II ban hành năm 2002, đều bằng tiếng La-tinh. Tiếng
La-tinh cũng không hề bị Giáo hội quên lãng vì ngôn ngữ này cho đến nay vẫn là
ngôn ngữ chính thức trong các văn bản của Giáo Hội. Tiếng La-tinh cũng không phải
là ngôn ngữ “độc quyền” của Lễ Quy 1962. Cha Manlio Sodi, giáo sư Phụng Vụ đại
học Salesian Roma cho rằng: “Việc nhớ
nhung tiếng La-tinh hay lòng mộ mến nhạc bình ca La-tinh, tự nó, không phải là
lý do có giá trị để bỏ Thánh lễ hậu công đồng. Thánh lễ sau thời Công Đồng
có thể và thực ra được cử hành bằng cả tiếng La-tinh và với nhạc bình ca bằng
tiếng La-tinh nữa.”[5]
Công Đồng Vatican
II đã quyết định “bỏ thế độc quyền của tiếng La-tinh trong phụng vụ” bằng cách
cho phép cử hành Thánh Lễ bằng các ngôn ngữ địa phương. Cũng vậy, khi một nhóm
cử hành Thánh lễ La-tinh, bài giảng lễ hay thậm chí cả các bài đọc Kinh Thánh
cũng được sử dụng các ngôn ngữ địa phương. Tiếng La-tinh không phải là “tội đồ”
sau khi các ngôn ngữ khác được phép dùng trong phụng vụ. Tiếng La-tinh cũng
không phải là “ngôn ngữ thánh” cao trọng và trổi vượt hơn các ngôn ngữ khác.
Trong khoa học hay triết học có thể có ngôn ngữ này “tiện dùng hơn” ngôn
ngữ kia. Tuy nhiên, Thiên Chúa không bao giờ phân loại và đánh giá con
người dựa trên ngôn ngữ mà họ sử dụng. Thiên Chúa giao tiếp với con người bằng
ngôn ngữ của trái tim. Cuộc canh tân của Công Đồng Vatican II không chỉ đơn giản
là việc chủ tế được phép quay xuống cộng đoàn khi dâng Lễ hay việc sử dụng các
ngôn ngữ địa phương. Cả hai điều này chỉ là kết quả của cả một cuộc canh tân lớn
lao về Thần học, Truyền giáo học, Kitô học, Giáo Hội học… mà giới hạn của bài
viết này chưa thể bàn hết.
Như đã nói ở những phần trên, sự HIỆP NHẤT và KỶ LUẬT của Giáo Hội phổ
quát là điều hết sức quan trọng. Thế nên, người thích dâng Lễ La-tinh truyền thống
và người thích dâng Lễ cải tổ cần tránh những chỉ trích và kết án lẫn nhau. Bởi
lẽ, cả hai Lễ Quy đều có giá trị như nhau trong phụng vụ vì cả hai đều là hy tế
của Chúa Kitô dâng lên Thiên Chúa Cha. Dĩ nhiên, yếu tố KỶ LUẬT của Giáo hội
cũng là điều cần lưu tâm để tránh điều mà chuyên gia phụng vụ và thần học gia
Andrea Grillo từng cảnh báo: “Khi
cho các linh mục được tuỳ nghi lựa chọn nghi thức, Tự sắc đã làm suy yếu tính
thống nhất phụng vụ của Giáo hội và đôi khi tạo ra hai Giáo hội song song trong
các giáo xứ. Đó là một sự phá vỡ truyền thống”.[6]
Giáo Hội không
hoàn toàn cấm hay cản trở các tín hữu có lòng mộ mến Thánh lễ truyền thống và
muốn cử hành Thánh lễ này. Tuy nhiên, mỗi giáo hội địa phương ở từng quốc gia
có bối cảnh, truyền thống, và mục vụ riêng. Thế nên, nhóm tín hữu nào muốn cử
hành Thánh lễ La-tinh cần gặp gỡ và trao đổi với Đấng Bản quyền giáo phận để
trình bày thỉnh nguyện của mình, trong khi sẵn sàng chờ đợi với lòng kiên nhẫn,
cũng như sẵn sàng chấp nhận bất cứ quyết định nào của Bản quyền với lòng khiêm
tốn vâng phục như con thảo đối với vị cha chung của giáo phận.
[1] Bản dịch
của LM Trần Công Nghị và Đặng Minh An đăng trên website Trung Tâm Học Vấn Đa
Minh: catechesis.net
[2] Trích từ Tự Sắc Summorum
Pontificum
[3] Bản dịch của Nguyễn Trọng Đa đăng trên website Cựu Chủng Sinh
Huế: cuucshuehn.net
[5] Linh Tiến Khải, “Quan Điểm Của Một Chuyên Gia Phục Vụ Về Tự Sắc
‘Summorum Pontificum,’” Đài Vatican,
24/07/2007, archivioradiovaticana.va (truy cập ngày 23/08/2020).
[6] Minh Đức, “Đức Thánh Cha Phanxicô Đang Xem Xét Lại Tự Sắc
Summorum Pontificum,” Hội Đồng Giám
Mục Việt Nam, 10/07/2017, https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/duc-thanh-cha-phanxico-dang-xem-xet-lai-tu-sac-summorum-pontificum-29814 (truy cập ngày 23/08/2020)
Nguồn: dongten.net