LỜI KHUYÊN DÀNH CHO CÁC LINH MỤC TRẺ TỪ MỘT 'NGƯỜI ANH'
Tác giả: Lm.
Louis Cameli (*)
WGPVL (01.10.2021) - Vào ngày 19 tháng 12 năm 1969, tôi đã phủ phục trong lúc hát Kinh Cầu Các
Thánh trước Bàn thờ Chủ tế ở Vương cung Thánh đường Thánh Phêrô trước khi được
thụ phong linh mục. Run lên vì cái lạnh của ngôi nhà thờ không được sưởi ấm,
tôi không biết điều gì sẽ xảy ra trong 52 năm tới. Bất chấp những thất bại của
chính mình - và đã có quá đủ - thời gian thi hành sứ vụ linh mục của tôi quả là
một hồng ân vô bờ. Tôi có thể dễ dàng nói lên một tiếng "Amen" tuyệt
vời với tất cả những gì đã qua.
Các linh mục đặt tay lên đầu các tân chức trong Thánh lễ Truyền chức do
Đức Thánh Cha Phanxicô cử hành ngày 12 tháng 5 năm 2019, tại Vương cung Thánh
đường Thánh Phêrô ở Vatican. (CNS / Reuters / Yara Nardi)
Khi tua nhanh đến
năm 2021, tôi nhận thấy có một Giáo Hội cùng với thiên chức linh mục đang phải
đối mặt với những thách thức to lớn. Mặc dù mọi so sánh đều khập khiễng, nhưng
tôi dám chắc rằng các linh mục ngày nay đang đứng trước nhiều thách thức chưa từng
có. Những thách thức này bắt nguồn từ nền văn hóa và các vấn đề nội bộ trong đời
sống Giáo Hội của chúng ta. Dù nguyên nhân của chúng là gì đi nữa, những thách thức
này vẫn diễn ra trong đời sống của các linh mục.
Giáo Hội không chỉ là một tổ chức hay một cơ quan. Dĩ nhiên,
đó là thân thể của Chúa Kitô và là dân Thiên Chúa được Chúa Thánh Thần quy tụ.
Tuy nhiên, Giáo Hội cũng là một tổ chức, và đó là bộ mặt mà thế giới nhìn thấy
trước tiên. Các linh mục không chỉ là những người đại diện cho tổ chức. Chúng
ta là những người công bố Lời Chúa và là những người quản lý các mầu nhiệm của
Thiên Chúa. Tuy nhiên, chúng ta cũng là những người đại diện và lãnh đạo của
Giáo Hội trong tư cách là một thực thể có tổ chức. Và sự thật này trở thành một
thách thức to lớn dành cho sứ vụ của chúng ta.
Trong nền văn hóa
của chúng ta, tất cả các tổ chức (chẳng hạn như chính phủ, ngân hàng và giáo dục)
đều bị nghi ngờ vì không cung cấp những thứ theo như mong đợi và vì thường
xuyên làm tổn hại đến lợi ích chung. Trong tư duy của công chúng, Giáo Hội phải
chịu một đánh giá tiêu cực đặc biệt khắt khe về mặt tổ chức. Vì một số thành kiến
nhưng cũng vì một số sai lầm đáng buồn mà chính Giáo Hội đã mắc phải, nên việc
giới thiệu công khai về Giáo Hội trên các phương tiện truyền thông gần như thường
mang tính tiêu cực.
Giáo Hội thường bị
mô tả là theo chủ nghĩa phân biệt chủng tộc trong lịch sử của mình, đồng lõa
trong cuộc khai thác thuộc địa của các dân tộc bản xứ, theo chủ nghĩa kỳ thị nữ
giới, kỳ thị đồng tính, nuôi dưỡng và tiếp tay cho việc lạm dụng trẻ em và thiếu
niên, can dự một cách không thích đáng vào hoạt động chính trị của quốc gia, chỉ
lo làm giàu, và nói chung là cố chấp và cứng rắn. Dưới hình thức cực đoan của họ,
những chỉ trích chung chung như thế vốn không công bằng và thiếu chính xác. Tuy
nhiên, chúng ta phải thẳng thắn thừa nhận rằng những chỉ trích như thế không phải
là không có cơ sở. Chúng liên quan đến những gì một số người trong Giáo Hội đã
làm hay đã không làm khi sống theo lý tưởng của Phúc Âm. Và vì vậy, các linh mục,
những người đại diện cho Giáo Hội trong tư cách là một tổ chức, dường như phải
đối mặt với một hoàn cảnh thực sự đáng buồn, mà trong đó họ phải cố gắng phục vụ
và chu toàn sứ vụ của mình.
Một thách thức
khác đối với các linh mục bắt nguồn từ những xu hướng lớn hơn trong đời sống
Giáo Hội. Có những cộng đoàn đức tin sôi động và đáng hoan nghênh. Tuy nhiên, tổng
số thành viên của Giáo Hội ở Hoa Kỳ và Châu Âu vẫn tiếp tục giảm sút. Không có
lý do nào là duy nhất cho việc tại sao mọi người rời bỏ hay hờ hững với Giáo Hội,
hay tại sao những người trẻ lại không gắn bó với Giáo Hội, hay tại sao việc lên
kế hoạch của Giáo Hội cho tương lai lại chắc hẳn có nghĩa là lập kế hoạch cho
những sự suy thoái - giống như việc cắt giảm và pha trộn mà chúng ta đang làm ở
Chicago. Dường như không ai có cách khắc phục rõ ràng cho tình trạng này hay có
được một cách hiệu quả để giải quyết nó. Và đó quả thực là một thách thức rất lớn
đối với các linh mục.
Cuối cùng, có những
điều mà tôi gọi là "những thách thức vĩnh viễn." Xuyên suốt lịch sử,
các linh mục đã phải đối mặt với tính quan quyền nơi Giáo Hội, với các giám mục
thiếu đi sự thấu hiểu và đôi khi vô tình, với các linh mục khác cạnh tranh hơn
là cộng tác, và với những giáo dân dường như luôn bất di bất dịch theo cách của
họ. Và vì vậy, đó chính là vấn đề của ngày hôm nay.
Tổng hợp lại, những
thách thức này tạo nên một bối cảnh rất ảm đạm cho sứ vụ linh mục của chúng ta.
Nhưng những thách thức này có đồng nghĩa với việc tinh thần của các linh mục
đang đi xuống hay không? Nghe có vẻ là như vậy. Nhưng đây là một bức tranh phức
hợp.
Kể từ khi Công đồng
Vaticanô II kết thúc, nhiều cuộc nghiên cứu về tinh thần của các linh mục nói
chung đều đi đến cùng một kết luận: Các linh mục đã bày tỏ nhiều nỗi thất vọng
và lời than phiền về cơ cấu Giáo Hội và về bối cảnh sứ vụ của họ. Họ nghĩ rằng
các linh mục khác cũng có vấn đề về tinh thần như vậy. Nhưng khi đặt ra các câu
hỏi trong phạm vi cá nhân - "Còn bạn thì sao? Bạn có hạnh phúc và mãn nguyện
khi thi hành những gì mà linh mục phải làm không?" - thì các linh mục lại
cho thấy mặt tích cực về sứ vụ cũng như về ý thức đối với sứ mạng và mục đích của
họ. So với những nam lao động người Mỹ khác, thì các linh mục luôn có cảm giác
hài lòng ở mức cao hơn trung bình khi thi hành những gì họ phải làm.
Vì vậy, tất cả những
điều này đưa chúng ta đến đâu? Dù cho tất cả những thách thức không làm tổn hại
đáng kể đến tinh thần của chúng ta, nhưng chúng vẫn làm chúng ta nản lòng.
Chúng có thể gây khó chịu cho chúng ta và khiến chúng ta tự hỏi chính xác chúng
ta nên định hình sứ vụ của mình như thế nào. Chúng ta có thể làm gì đây?
Bước đầu tiên là
thành thật thừa nhận những thách thức mà chúng ta phải đối mặt. Chúng có thật,
và chúng sẽ không biến mất. Sau đó, khi tiến hành phân định cá nhân về việc định
hình và định hướng cho sứ vụ của mình trong bối cảnh phức tạp này, thì hơn bao
giờ hết, chúng ta cần sử dụng các nguồn lực thiêng liêng đúng đắn có sẵn dành cho
chúng ta, chẳng hạn như việc linh hướng, các nhóm cầu nguyện, các cuộc tĩnh tâm
và những mối quan hệ bạn bè mang tính trợ lực. Sự ủng hộ về mặt tinh thần lúc
này là cần thiết hơn bao giờ hết.
Các bước khác cũng có thể làm cho chúng ta tiến bộ. Đức Thánh Cha Phanxicô và những vị tiền nhiệm của ngài đã làm cho tôi phải nhìn đến sự đổi mới của Công đồng Vatican II. Hãy xem xét bốn bước và đường hướng sau đây, những điều vang vọng tiếng của Công đồng và các Đức Giáo Hoàng trong sáu thập kỷ đã qua.
Một linh mục nâng cao Mình
Thánh Chúa trong Thánh lễ tại Nhà thờ Thánh Patrick ở Thành phố New York vào
năm 2020. (CNS / Gregory A. Shemitz)
1. Trước khi rao giảng, hãy đặt câu hỏi và lắng nghe.
Khi nói về sứ vụ mục tử, Đức Thánh Cha Phanxicô muốn nói đến
từ "cercania" trong tiếng
Tây Ban Nha, hay trong tiếng Ý là "vicinanza", mà chúng ta có
thể dịch là "sự gần gũi". Tôi sẽ gọi nó là "sự gần gũi
mục tử" (pastoral intimacy). Và đối với Đức Thánh Cha Phanxicô, sự gần
gũi này là nền tảng thiết yếu cho tất cả mối quan tâm mà chúng ta dành cho mọi
người. Ngài nói, chúng ta là các linh mục, cần phải có mùi chiên. Đó là sự gần
gũi! Hãy để tôi gợi ý một cách để nắm bắt được điều này.
Đặt câu hỏi là một cách thức cần thiết để xây dựng sự gần
gũi. Vì vậy, đây cũng là cách thức mà Chúa Giêsu đã dùng trong khi thi hành sứ
vụ của mình. Người đặt ra nhiều câu hỏi: Anh muốn tôi làm gì cho anh? (Mc
10,51) Sao anh em lại sợ hãi? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin? (Mc
4,40) Các anh tìm gì? (Ga 1,38) Cả anh em nữa, anh em
cũng muốn bỏ đi hay sao? (Ga 6,67) Anh có yêu mến Thầy không? (Ga
21,17) Những câu hỏi của Chúa Giêsu cho phép Người kết nối với những người
khác. Đây là một điểm trong cuốn sách xuất sắc của Michael Buckley, Các
anh tìm gì? Những câu hỏi mang tính thử thách và hứa hẹn của Chúa Giêsu (What
Do You Seek? The Questions of Jesus as Challenge and Promise).
Các câu hỏi thể hiện sự quan tâm của chúng ta đến những người
khác và mong muốn làm quen với họ. Làm cách nào để bộc lộ những câu hỏi này
cũng rất quan trọng. Đặt câu hỏi nhưng cũng phải lắng nghe cách cẩn thận. Dẫn dắt
bằng những câu hỏi không chỉ để rút ra nỗi đau và sự giằng co mà còn là cả ân sủng
và hy vọng.
2. Sau khi lắng nghe và đến gần, hãy rao giảng như Chúa
Giêsu đã làm và dĩ nhiên, hãy rao giảng về Người.
Lời rao giảng của Chúa Giêsu bắt đầu bằng: "Nước
Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng." (Mc
1,15) Rao truyền về sự gần kề của Nước Thiên Chúa chính là việc tuyên bố rằng
Thiên Chúa đang cải biến cái thế giới hư hoại này cùng với cuộc sống đau thương
của chúng ta. Niềm hy vọng cần thiết này cho phép chúng ta điều hướng bất cứ điều
gì xảy ra theo cách của chúng ta. Và kêu gọi mọi người sám hối có nghĩa là mời
gọi họ đến với lời đầu tiên và cũng là lời cuối cùng của Thiên Chúa - chính là
lòng thương xót. Nói một cách đơn giản, rao giảng như Chúa Giêsu đã làm nghĩa
là rao truyền niềm hy vọng và lòng thương xót.
Chúng ta cũng phải rao giảng về Chúa Giêsu, không chỉ như một
chủ đề khác. Chúa Giêsu, Đấng chịu đóng đinh và đã sống lại, chính là niềm hy vọng
và lòng thương xót nhập thể dành cho chúng ta. Nhưng chúng ta thực hiện lời rao
giảng này như thế nào? Tôi có thể chia sẻ kinh nghiệm của riêng tôi về điều
này. Đó không phải là con đường duy nhất, nhưng tôi biết nó phù hợp với tôi.
Trước tiên, tôi cần phải đi vào Lời Chúa, ở lại đó và để cho
sức mạnh của Lời Chúa hoạt động trên tôi. Sau đó, tôi có thể nói về Chúa Giêsu,
Đấng của niềm hy vọng và lòng thương xót. Nếu tôi làm vậy, một quá trình sẽ bắt
đầu vận hành. Tôi bắt đầu bộc lộ bản thân và thực sự chia sẻ trạng thái của tâm
hồn mình. Nếu hiểu biết về con người là bước đầu tiên của sự gần gũi mục tử,
thì việc rao giảng theo cách này là bước thứ hai.
Giáo dân có thể nhận thấy liệu rằng chúng ta có tin những gì
chúng ta nói hay không. Họ cũng biết liệu rằng chúng ta có đang nói về Chúa
Giêsu từ kinh nghiệm của mình hay không. Họ không bị lừa dối bởi những lời hùng
biện hoa mỹ hay những câu chuyện khéo léo. Vậy bất cứ khi nào chúng ta rao giảng,
chúng ta cần để tâm hồn mình mở ra với tất cả những nhược điểm của nó. Điều đó
thật đáng sợ và nhạt nhẽo. Nhưng điều đó cũng khích lệ chúng ta thực sự dấn
thân vào Lời Chúa trước khi cố gắng rao truyền những lời đó.
Trong bức ảnh năm
2015 này, một linh mục chúc lành cho một sinh viên tham gia Chương trình Học bổng
Sinh viên Đại học Công giáo nơi một nhà thờ trong khuôn viên của Đại học Texas ở
Austin tại Trung tâm Công giáo của Đại học. (CNS / Được phép của FOCUS)
3. Hãy phục vụ cho sự hiệp nhất, để trong mọi việc bạn
làm, bạn có thể mang và giữ giáo dân của mình gần lại với nhau và với Thiên
Chúa.
Lời từ biệt của Chúa Giêsu bắt đầu trong Tin Mừng theo Thánh
Gioan ở chương 13 khi Người phục vụ các môn đệ bằng cách rửa chân cho họ và
tiên báo về sự tự hiến của mình vào ngày hôm sau. Lời từ biệt của Người kết
thúc bằng lời cầu nguyện của Người dành cho các môn đệ cùng với cái điệp khúc
không lay chuyển của nó, "Lạy Cha, xin hãy cho tất cả nên một, như Cha ở
trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta." (Ga 17,21)
Sự phục vụ của Chúa Giêsu không phải là để làm ơn cho người
khác. Sự phục vụ của Chúa Giêsu là tình yêu tự hiến của Người để đưa chúng ta đến
chỗ hiệp nhất với Thiên Chúa Ba Ngôi và với nhau. Bất cứ khi nào và theo bất kỳ
cách nào mà chúng ta phục vụ, chúng ta đều có khuôn mẫu cho mình nơi Người.
Sự dữ to lớn đang hoạt động trong thế giới của chúng ta
chính là sự chia rẽ vốn rõ ràng theo rất nhiều cách. Chúng ta thường bị chia rẽ
và mâu thuẫn bên trong chính mình. Chúng ta cũng bị chia rẽ trong các mối tương
quan gần gũi nhất của mình. Hãy nghĩ về Ađam và Êva, Cain và Aben. Các cộng
đoàn có thể bị rạn nứt. Một thế giới tổng thể có thể xảy ra chiến tranh bên
trong chính nó. Chúng ta cũng bị chia rẽ ngay cả với cái môi trường đang nâng đỡ
chúng ta.
Điều này có nghĩa là bất kể hành động phục vụ cụ thể của chúng ta là gì đi nữa, thì chúng vẫn luôn luôn cần hướng đến sự hòa giải, thúc đẩy sự hiệp nhất và khám phá ra sự thật rằng chúng ta là fratelli tutti, tất cả đều là anh chị em của nhau.
Cha Mark Searles, một linh mục thường trú tại Nhà thờ Công giáo Thánh Thomas
More ở Allentown, Pennsylvania, đeo khẩu trang khi trao Mình Thánh Chúa cho một
giáo dân sau Thánh lễ được cử hành vào ngày 2 tháng 10 năm 2020 tại bãi đậu xe
của giáo xứ. (CNS / Chaz Muth)
4. Hãy cầu nguyện trong tư cách những người chuyển cầu
Tất nhiên, cầu nguyện là trọng tâm của sứ vụ linh mục của
chúng ta. Chúng ta hướng dẫn cầu nguyện, chúng ta là chủ sự nơi Bí tích Thánh
Thể, chúng ta cử hành các bí tích khác. Cũng có một cách cầu nguyện khác dành
cho chúng ta. Dân Thiên Chúa giao phó cho chúng ta trách nhiệm cầu nguyện cho họ.
Chúng ta là những người chuyển cầu.
Chuyển cầu là đặt con người và hoàn cảnh vào tay Chúa. Chúng
ta đón nhận những điều đó, cầm lấy chúng và giao phó chúng về cho Thiên Chúa.
Và điều đó thật đặc biệt.
Cách đây một thời gian, tôi nhớ đã đọc một đoạn văn của
Marguerite Yourcenar, một nhà văn người Pháp chuyên về một số ghi chép và không
phải là một người theo tôn giáo riêng biệt nào cả. Tuy nhiên, cô ấy có một sự
thấu hiểu thiêng liêng mà tôi chưa bao giờ có được. Cô ấy viết rằng nếu chúng
ta cầu nguyện cho mọi người, thì theo thời gian, họ sẽ xuất hiện trước mắt
chúng ta với một diện mạo khác. Cô ấy ngụ ý rằng chúng ta sẽ bắt đầu nhìn thấy
họ như Thiên Chúa nhìn thấy.
Khi các linh mục chúng ta chuyển cầu cho con người và cho thế
giới nói chung, khi chúng ta không ngừng đặt tất cả những điều đó vào trong tay
Thiên Chúa, thì điều gì đó sẽ xảy đến đối với chúng ta. Chúng ta sẽ bắt đầu
nhìn mọi người theo một cách khác biệt. Và khi suy xét về tất cả những thách thức
mà chúng ta đã ghi nhận được, chúng ta cần có một tầm nhìn cao hơn, cái nhìn
thánh thiêng sẽ cho phép chúng ta trở thành những người quản lý khôn ngoan.
Đây không phải là chuyện đơn giản. Nó là một cách để hiện diện,
và theo lời của Mẹ Têrêsa, thì cuối cùng, chúng ta sẽ quan tâm đến việc trở nên
trung thành, hơn là trở nên thành công. Điều đó không hề là chuyện nhỏ nhặt.
Phil. M. Nguyễn
Hoàng Nguyên chuyển ngữ từ ncronline.org
(25.9.2021)
Nguồn: giaophanvinhlong.net
(*) Lm. Louis Cameli là đại diện của Đức Hồng y Blase
Cupich về đào tạo và truyền giáo. Cha là một linh mục thuộc Tổng Giáo phận
Chicago. Cha cũng là tác giả của một số đầu sách về thần học và thiêng liêng.