A. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
Bài đọc 1: Ds 6,22-27
Khi chúng kêu cầu danh Ta cho con cái Ít-ra-en, Ta sẽ ban phúc lành.
Bài trích sách Dân số.
22 Đức Chúa phán với ông Mô-sê : 23 “Hãy nói với A-ha-ron và các con nó rằng : Khi chúc lành cho con cái Ít-ra-en, anh em hãy nói thế này :
24 ‘Nguyện Đức Chúa chúc lành và gìn giữ anh em !
25 Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh em, và dủ lòng thương anh em !
26 Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn, và ban bình an cho anh em !’
27 Chúc như thế là đặt con cái Ít-ra-en dưới quyền bảo trợ của danh Ta, và Ta, Ta sẽ chúc lành cho chúng.”
Đó là lời Chúa.
Đáp ca Tv 66,2-3.5.6 và 8 (Đ. c.2a)
Đ. Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc cho chúng con.
2 Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc,
xin toả ánh Tôn Nhan rạng ngời trên chúng con,
3 cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa,
và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài. Đ.
5 Ước gì muôn nước reo hò mừng rỡ,
vì Chúa cai trị cả hoàn cầu theo lẽ công minh,
Người cai trị muôn nước theo đường chính trực
và lãnh đạo muôn dân trên mặt đất này. Đ.
6 Ước gì chư dân cảm tạ Ngài, lạy Thiên Chúa, chư dân phải đồng thanh cảm tạ Ngài.
8 Nguyện Chúa Trời ban phúc lộc cho ta !
Ước chi toàn cõi đất kính sợ Người ! Đ.
5 Người ấy sẽ được Chúa ban phúc lành,
được Thiên Chúa cứu độ thưởng công xứng đáng.
6 Đây chính là dòng dõi những kẻ kiếm tìm Người,
tìm thánh nhan Thiên Chúa nhà Gia-cóp. Đ.
Bài đọc 2: Gl 4,4-7
Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người phụ nữ.
Bài trích thư của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Ga-lát.
4 Thưa anh em, khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người phụ nữ, và sống dưới Lề Luật, 5 để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử. 6 Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên : “Áp-ba, Cha ơi !” 7 Vậy anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa.
Đó là lời Chúa.
Tung hô Tin Mừng Hr 1,1-2
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử. Ha-lê-lui-a.
Tin Mừng Lc 2,16-21
Các người chăn chiên gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se và Hài Nhi.
Được đủ tám ngày, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giê-su.
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.
16 Khi ấy, các người chăn chiên hối hả ra đi đến Bê-lem. Họ gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. 17 Thấy thế, họ kể lại điều họ đã được nghe nói về Hài Nhi này. 18 Tất cả những ai nghe đều ngạc nhiên về những gì các người chăn chiên nói cho biết. 19 Còn bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng. 20 Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được tai nghe mắt thấy theo như họ đã được loan báo.
21 Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giê-su ; đó là tên mà sứ thần đã đặt cho Người trước khi Người được thụ thai trong lòng mẹ.
Đó là lời Chúa.
B. CHIA SẺ LỜI CHÚA
Bài chia sẻ 1
*Hôm nay, ngày đầu năm dương lịch, Giáo Hội mời gọi chúng ta cử hành trọng thể lễ Đức Ma-ri-a, Mẹ Thiên Chúa. Giáo Hội gửi đến chúng ta những lời chúc phúc dịp năm mới và cũng tha thiết kêu mời chúng ta cầu nguyện cho hoà bình thế giới. Những yếu tố này tạo nên một sự hài hoà tuyệt vời : Đức Ma-ri-a, Mẹ Thiên Chúa là Nữ Vương hoà bình, Nữ Vương ban sự bình an. Đức Ma-ri-a, Mẹ Thiên Chúa gửi đến chúng ta những lời chúc phúc của Thiên Chúa và ban cho chúng ta bình an, niềm vui, thanh thản, và trên hết là tình yêu.
Bài đọc 1 trích từ sách Dân số được chọn để gửi những lời chúc năm mới đến tất cả các Ki-tô hữu trên toàn thế giới. Đức Chúa phán với ông Mô-sê : “Hãy nói với A-ha-ron và các con của ông này về lời chúc phúc của hàng tư tế.” Một lời chúc phúc là một lời chúc đem lại điều tốt lành cho người được chúc. Lời chúc phúc của hàng tư tế là một lời chúc tuyệt đẹp vì hoàn toàn dựa vào mối liên hệ với Thiên Chúa. Trong Cựu Ước và Tân Ước, chúc phúc hay chúc lành không gì khác hơn là mong cho một người nào đó có được mối liên hệ mật thiết với Thiên Chúa. Một khi mối liên hệ đã được thiết lập, thì đương sự luôn hướng về điều thiện. Trái lại, nếu mối liên hệ thân tình này không có, thì con người ta dễ có những hành động sai trái, và nhiều khi dẫn đến thảm kịch. Trong Cựu Ước, lời chúc phúc luôn nhân danh Chúa gửi đến cho một người nào đó, lời chúc phúc của hàng tư tế hệ tại việc kêu cầu danh Chúa cho dân Do-thái. Bài đọc 1 hôm nay kêu xin ba lần danh Đức Chúa : “Nguyện Đức Chúa chúc lành và gìn giữ anh em ! Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh em và dủ lòng thương anh em ! Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em ! Và bản văn kết luận : “Chúc như thế là đặt con cái Ít-ra-en dưới quyền bảo trợ của danh Ta, và Ta, Ta sẽ chúc lành cho chúng.” Điều đó giúp chúng ta hiểu rõ tầm quan trọng của mối liên hệ với Thiên Chúa, vì mối liên hệ đó sẽ đem lại cho chúng ta hạnh phúc, bình an và niềm vui trong năm mới đang về. Chúng ta phải mong ước Danh Chúa luôn phù trợ chúng ta và chúng ta luôn gắn bó với Danh Người, và không ngừng thi hành thánh ý Người. Đức Ma-ri-a luôn được Chúa chúc lành vì Đức Mẹ luôn là nữ tỳ khiêm hạ của Chúa, một con người luôn vâng theo ý Chúa. Đức Mẹ nói với tất cả chúng ta, như đã nói với các gia nhân trong tiệc cưới Ca-na ngày xưa : “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo !” (Ga 2,5). Đức Mẹ dạy chúng ta phải luôn làm theo thánh ý Chúa. Vì thế, Người là Mẹ thiêng liêng của tất cả chúng ta.
Bài đọc 2 là bản văn duy nhất trong đó thánh Phao-lô đề cập đến Đức Ma-ri-a, Đấng đã hạ sinh Con Thiên Chúa trong thế gian. Thánh Phao-lô sử dụng một kiểu nói thật long trọng : “Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con của mình tới, sinh làm con một người đàn bà, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử.” Ở đây mầu nhiệm Nhập Thể được diễn tả qua nhiệm vụ chính yếu của một người phụ nữ là Đức Ma-ri-a. Để chúng ta có thể nhận được ơn làm nghĩa tử, điều cần thiết là Thiên Chúa sai Con của Người đến trong thế gian, sinh làm con một người phụ nữ. Mối liên hệ cha con đối với Thiên Chúa được biểu lộ qua sự hiện diện của Thần Khí của Chúa Con kêu lên : “Áp-ba, Cha ơi !” Đức Ma-ri-a là Mẹ Thiên Chúa vì Đức Mẹ đã thụ thai bởi phép Đức Chúa Thánh Thần. Nhờ tình mẫu tử của Mẹ mà chúng ta nhận được ơn Thánh Thần giúp chúng ta trở nên những người con đích thực của Thiên Chúa Cha. Thánh Phao-lô kết luận : “Vậy anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa.” Ước chi đường hướng này đồng hành cùng chúng ta suốt năm mới này.
Bài Tin Mừng hôm nay, trừ câu cuối cùng giống như bài Tin Mừng lễ Rạng Đông của ngày lễ Giáng Sinh, kể lại việc các người chăn chiên hối hả ra đi đến Bê-lem. Họ gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. Cuộc gặp gỡ giữa các người chăn chiên với Đức Ma-ri-a và Hài Nhi làm sáng tỏ ý nghĩa sâu xa về tình mẫu tử của Đức Mẹ. Người hạ sinh con của Người cũng là Con Thiên Chúa, chào đời trong khung cảnh nghèo khổ tột độ, nằm trong máng cỏ.
Đám đông ngạc nhiên về câu chuyện của các người chăn chiên. Trái lại, Đức Mẹ ghi nhớ tất cả mọi việc và suy đi nghĩ lại trong lòng, Đức Mẹ đón nhận tất cả mọi sự từ Thiên Chúa, không chỉ là Lời của Thiên Chúa mà còn tất cả các biến cố, Đức Mẹ đón nhận tất cả với tình con thảo trong ngập tràn yêu thương. Bài Tin Mừng kết thúc với việc gợi lại phép cắt bì của Hài Nhi. Tám ngày sau khi chào đời, một bé trai phải được cắt bì và được đặt tên : “Khi Hài Nhi đã được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giê-su ; đó là tên mà sứ thần đã đặt cho Người trước khi Người được thụ thai trong lòng mẹ” (Lc 2,21). Đức Ma-ri-a là Mẹ của Đức Giê-su, nghĩa là Mẹ của Đấng Cứu Thế, Mẹ của Đức Ki-tô. Chúng ta tin tưởng Mẹ của Đức Giê-su, Thiên Chúa biết bao ! Nhưng Đức Giê-su không phải là một người như những người khác, nhưng là Ngôi Lời của Thiên Chúa, một nhân vật thần linh, là Con Thiên Chúa. Vì thế Giáo Hội gọi Đức Mẹ là “Theotokos”, là “Mẹ Thiên Chúa”.
*Hôm nay chúng ta dâng thánh lễ kính trọng thể Đức Ma-ri-a, Mẹ Thiên Chúa, tâm hồn chúng ta ngập tràn niềm vui, tin tưởng và bình an. Chúng ta xin Đức Mẹ là Nữ Vương Hoà Bình, Nữ Vương ban sự bình an chuyển cầu cùng Chúa ban bình an cho những vùng còn khói lửa chiến tranh trên thế giới, để mọi người được sống trong hoà bình, hạnh phúc và an vui.
Kể thêm về việc hình thành tín điều Đức Ma-ri-a, Mẹ Thiên Chúa, và phần kết của kinh Kính Mừng.
Bài chia sẻ 2: LỄ ĐỨC MA-RI-A, MẸ THIÊN CHÚA
1. Về tước hiệu Đức Ma-ri-a là Mẹ Thiên Chúa
Ngày 22 tháng 6 năm 431, 160 giám mục Ai-cập, Pa-lét-tin và Tiểu Á (Thổ Nhĩ Kỳ) khai mạc Công Đồng Chung tại Ê-phê-xô, một thị trấn thuộc lãnh thổ nước Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay. Chỉ sau một ngày tranh luận, Công Đồng đã tuyên bố cách chức Nestoriô, Thượng phụ thành Constantinople, kèm theo 12 đề tài tuyên vạ tuyệt thông do thánh Cyrillô, giám mục thành A-lê-xan-ri-a bên Ai-cập đề nghị, vì Nestoriô đã phủ nhận Đức Ma-ri-a không phải là Mẹ Thiên Chúa, nhưng chỉ là Mẹ Đức Ki-tô.
Chính đêm đó, toàn thể giáo dân Ê-phê-xô chào mừng Công Đồng Chung bằng một cuộc rước đèn vĩ đại tung hô Mẹ Thiên Chúa : “Thánh Ma-ri-a, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi này và trong giờ lâm tử. A-men.” Kinh đó đã được soạn ra trong dịp này, rồi được tháp vào kinh Kính Mừng như chúng ta vẫn đọc ngày nay. Đức Giáo Hoàng Cêlestinô thứ nhất đã phê chuẩn việc này.
Công Đồng Ê-phê-xô xác quyết rằng trong Chúa Ki-tô có hai bản tính Thiên Chúa và nhân loại, cả hai kết hợp với nhau trong một ngôi vị duy nhất, như mặc khải đã dạy và truyền thống Ki-tô giáo đã tin và đã quả quyết. Công Đồng tuyên dạy rằng : Chúa Ki-tô cũng chính là Ngôi Hai Thiên Chúa có tự đời đời, là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, Người được Chúa Cha “sinh ra” từ thuở đời đời ; trong tư cách là phàm nhân, Người được Đức Trinh Nữ Ma-ri-a sinh ra trong thời gian. Và bởi ý Chúa Ki-tô là một chủ thể duy nhất, nên Đức Ma-ri-a có toàn quyền được gọi bằng tước hiệu “Mẹ Thiên Chúa”.
2. Suy niệm bài Tin Mừng Lc 2,16-21
Chúng ta suy niệm năm điểm trong bài Tin Mừng vừa nghe :
2.1. Các người chăn chiên đến “xem”
Bài Tin Mừng lễ Đêm Giáng Sinh kết thúc với lời sứ thần báo tin cho các người chăn chiên : “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô, là Đức Chúa. Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ.” Đó là những tước hiệu của Đấng Phục Sinh mà sứ thần công bố trước : Đấng Cứu Độ, Đấng Ki-tô, Đức Chúa. Thánh Lu-ca đề cao các người chăn chiên. Ngài cố ý dùng hai hình ảnh. Một đàng, các người chăn chiên thuộc về một giai cấp xã hội mà các kinh sư thường khinh dể. Trước hết, đó là những người nghèo, những người khiêm tốn, mà sứ điệp cứu độ được trao ban. Nhưng, đàng khác, các người chăn chiên là những mục tử, như các vị vua và các ngôn sứ, và vào thời tác giả Tin Mừng, họ là những người rao giảng Tin Mừng.
Mặc dầu đón nhận niềm vui Giáng Sinh, nhưng các người chăn chiên không mang quà đến cho Hài Nhi mới sinh. Họ đến để xác nhận dấu chỉ sứ thần đã báo cho họ và loan báo sứ điệp đã nhận từ trời. Lúc ấy, ca-mê-ra Tin Mừng liên kết hai sự việc cùng một lúc.
2.2. Các người chăn chiên, những vị thừa sai của Tin Mừng
Các người chăn chiên kể lại những gì họ đã thấy tại Bê-lem và đã nghe từ trời. Thánh Lu-ca báo trước điều mà các Tông Đồ sẽ nói trước Thượng Hội Đồng, sau khi Chúa Giê-su sống lại từ cõi chết : “Phần chúng tôi, những gì tai đã nghe, mắt đã thấy, chúng tôi không thể không nói ra” (Cv 4,20). Lúc đó, những ai nghe các người chăn chiên thuật lại mọi việc đều rất đỗi ngạc nhiên. Trong ngôn ngữ của Lu-ca, động từ “ngạc nhiên” diễn tả một sự ngạc nhiên thú vị khiến người nghe bối rối.
2.3. Đức Ma-ri-a
Ca-mê-ra trở lại hình ảnh Đức Ma-ri-a. Nếu các thính giả của những người chăn chiên vừa thán phục vừa bối rối, thì Đức Ma-ri-a “hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng”. Như thế Người giống với những ai đã được Thiên Chúa mặc khải các mầu nhiệm : “Tôi, Đa-ni-en, tôi giữ những sự ấy trong lòng” (Đn 7,28). Vậy Đức Ma-ri-a suy niệm những biến cố nào ? Ngay lúc đó là câu chuyện về các người chăn chiên, nhưng cũng là biến cố Truyền Tin, trong đó sứ thần Gáp-ri-en cho Đức Mẹ biết là Người sẽ trao cho thế gian “Con của Đấng Tối Cao”. Đó là cuộc thăm viếng của Cựu Ước (bà Ê-li-sa-bét) chào Giáo Hội non trẻ (Đức Ma-ri-a), người mẹ Chúa của bà. Bởi vì, đối với Lu-ca, Đức Mẹ đại diện cho Giáo Hội, khi tiếp nhận Tin Mừng do các mục tử rao giảng, đã quy tụ “những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (x. Lc 8,19-20).
2.4. Kết thúc sứ vụ của các người chăn chiên
Khi kết thúc sứ vụ, các người chăn chiên trở lại cuộc sống thường ngày. Niềm vui tột cùng của họ báo trước niềm vui của các môn đệ. Khi Đức Giê-su vào thành Giê-ru-sa-lem, họ ca tụng Thiên Chúa “vì tất cả những phép lạ mà họ đã thấy” và lặp lại sứ điệp lễ Giáng Sinh : “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.”
2.5. Cắt bì
Cắt bì là cắt bỏ da quy đầu của người con trai. Tập tục này được thực hành nơi nhiều dân tộc, nhất là nơi các dân Sêmita (trong đó có dân Do-thái). Nơi các dân tộc khác, nghi thức được cử hành lúc người thiếu niên đến tuổi dậy thì hoặc lúc lập gia đình.
Từ khi tổ phụ Áp-ra-ham nhận nghi thức này như là dấu chỉ của Giao ước (x. St 17,9-14), người Ít-ra-en coi phép cắt bì là dấu chỉ thuộc về Dân Thiên Chúa. Phép cắt bì được thực hiện vào lúc đứa bé được tám ngày tuổi (x. Lv 12,3). Tuy nhiên, Kinh Thánh cũng cho thấy việc cắt bì ngoài thể xác tự nó không có giá trị (x. Gr 9,24) ; nhưng cắt bì trong tâm hồn mới làm cho người ta được hưởng lời hứa của Giao ước (x. Gr 4,4 ; Lv 26,40-42). Thánh Phao-lô cho thấy đức tin đã làm cho nghi thức cắt bì trở nên vô ích, bởi vì chỉ Đức Ki-tô mới ban ơn cứu độ. Do đó, thánh Phao-lô chỉ rõ ông Áp-ra-ham được kể là người công chính không phải nhờ cắt bì mà nhờ lòng tin vào Thiên Chúa (x. Rm 4,2-3 ; Gl 5,6). Phép cắt bì đích thực là ở bên trong tâm hồn, không do tay con người thực hiện ; hoán cải về với Đức Ki-tô chính là chịu phép cắt bì (x. Pl 3,3 ; Cl 2,11).
3. Cầu cho hoà bình thế giới
Ngày đầu năm mới dương lịch cũng là ngày cầu cho hoà bình thế giới. Như tất cả mọi người đang sống trên trái đất này, tất cả chúng ta đều mong cho thế giới được hoà bình, vì có hoà bình thì con người mới có thể sống hạnh phúc như mình mong muốn. Không một người nào đang sống trên hành tinh này mà muốn chiến tranh cả, vì chiến tranh chỉ đem đến chết chóc, tang thương, đổ nát và huỷ diệt. Nhưng đáng tiếc thay, trên thế giới hôm nay, chiến tranh vẫn còn, gây ra biết bao đau khổ cho con người. Vì thế, trong thánh lễ hôm nay, chúng ta cùng tha thiết khẩn cầu Thiên Chúa là Vua Hoà Bình ban cho thế giới ơn bình an, cho chiến tranh sớm chấm dứt để con người không còn đau khổ nữa nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Thiên Chúa, Nữ Vương Hoà Bình.
Cầu nguyện :
Lạy Đức Trinh Nữ Ma-ri-a là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ là Nữ Vương ban sự bình an, xin Mẹ thương ban cho tất cả chúng con được bình an, mạnh khoẻ và sống đẹp lòng Chúa trong suốt năm mới này.
Tự vấn :
Trong đời sống đức tin thường ngày, chúng ta có phải là những người xây dựng hoà bình, đem lại bình an cho những ai chúng ta gặp gỡ không ?
C. BÀI ĐỌC THÊM
1. “Đức Ma-ri-a, kiểu mẫu của Giáo Hội, tiên khởi của các kẻ tin”
(N. Quesson, trong “Parole de Dieu pour chaque dimanche. Năm A”, Droguet et Ardant, tr. 41).
Theo thánh Lu-ca, việc đặt tên này là một cơ hội phụ để làm nổi bật vai trò của Đức Ma-ri-a ; tác giả nhấn mạnh rằng Đức Ma-ri-a, Mẹ Hài Nhi đã nhận cho con tên này, tên mà sứ thần đã đặt cho “trước khi Hài Nhi được thụ thai trong lòng mẹ …”.
Công Đồng Va-ti-ca-nô II sau một truyền thống lâu dài của Giáo Hội, đã giới thiệu Đức Ma-ri-a là “kiểu mẫu của Giáo Hội”, là “người tiên khởi của các kẻ tin”. Và trong trang Tin Mừng này, thật sự chúng ta vừa mới nhìn nhận rằng Đức Ma-ri-a là người đầu tiên đón nhận và suy gẫm Lời Chúa trong lòng … Và Mẹ cũng là người đầu tiên nói lên lời tuyên xưng cốt yếu của lòng tin chúng ta : Thiên Chúa cứu độ !
Trong ngày đầu năm mới này, Đức Ma-ri-a đã nhắc nhở cho ta đâu là một lòng tin mới mẻ của người Ki-tô hữu. Tính chất độc đáo của đức tin nơi các Ki-tô hữu là họ không chỉ tin vào Thiên Chúa mà thôi. Phần đông người ta đều tin như thế, đặc biệt là các tín đồ của những tôn giáo lớn trên thế giới như Do-thái giáo, Hồi giáo cũng như những tôn giáo chủ trương mọi vật đều có hồn. Nét đặc trưng và đặc thù của người Ki-tô hữu là họ tin vào việc Thiên Chúa nhập thể trong con người Đức Giê-su Ki-tô.
Lòng sùng kính đối với Đức Ma-ri-a, đặc biệt với tước hiệu Đức Ma-ri-a Mẹ Thiên Chúa chỉ là nhắc lại cho chúng ta nét đặc trưng kia vậy.
2. “Một cái tên tỏ rõ một căn tính”
(L. Sintas, “Parole de Dieu pour la méditation et l’homélie. Năm C”, Médiaspaul, tr. 24-25).
Ngay trong những phiên họp đầu tiên, Công Đồng Va-ti-ca-nô II đã gọi Đức Ma-ri-a bằng danh hiệu “Mẹ Thiên Chúa” là có ý đề cao vai trò của Người. Thế là một danh xưng, một căn tính đã được tuyên dương. Phải, Mẹ Thiên Chúa là danh xưng của Người.
Lễ mừng danh xưng mới của Đức Ma-ri-a cũng là lễ kính Danh Thánh Đức Giê-su. Bởi vì Tin Mừng tường thuật về việc Chúa Giê-su chịu phép cắt bì : “Người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giê-su, đó là tên mà sứ thần đã đặt cho Người, trước khi Người được thụ thai trong lòng mẹ.”
Sao ta lại không dám nghĩ đến danh xưng của mình. Khi ra đời làm người, chúng ta cũng được ông bà cha mẹ đặt cho một cái tên. Tên đó chỉ cho biết ta là hậu duệ của ai. Nhưng khi rửa tội, ta còn được mang một tên khác, tên của một vị thánh được chọn làm thánh bổn mạng. Chính tên đặt cho khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, cho ta được mang danh là “Ki-tô hữu”. Phải, ta trở thành Ki-tô hữu có nghĩa là ta “thuộc về Chúa Ki-tô”. Giống như Đức Ma-ri-a được mang danh hiệu là Mẹ Thiên Chúa nhờ mối liên hệ với Đấng mà Người được làm mẹ, thì chúng ta nhờ liên hệ với Đấng mà chúng ta được làm anh em với Người, chúng ta cũng được mang danh hiệu là Ki-tô hữu. Ta có được căn tính mới này chính là do ơn gọi Chúa ban cho ta mà thôi.
