HÔN NHÂN GIA ĐÌNH – MỘT CẤU TRÚC IN ĐẬM DẤU VẾT THẦN LINH
Lm. Antôn Hà Văn Minh
Mục lục 1. Cấu trúc gia đình như là dấu chỉ mối tương
quan ngôi vị trong nội tại Thiên Chúa Ba Ngôi 2. Đặc tính bất khả phân ly của cấu trúc gia đình là dấu chỉ duy nhất tính của Thiên Chúa Ba Ngôi |
WHĐ (12.8.2021) - Hơn bao
giờ hết, cấu trúc gia đình đang đứng trước thách đố lớn lao trong một thời đại
mà chủ nghĩa tục hóa như đang chi phối mọi lãnh vực của cuộc sống. Định chế hôn
nhân đang từng bước đi đến chỗ hủy hoại trước cơn lốc xoáy của chủ nghĩa duy lợi,
chủ trương tự do luyến ái, ủng hộ đồng tính luyến ái, làn sóng “phủ nhận những
nguyên tắc luân lý đang soi sáng và nâng đỡ việc thực hành tính dục trong hôn
nhân cách nhân bản và Ki-tô giáo”.[1] Khế ước hôn nhân không còn
là giao ước kiến tạo một đời sống chung thân mật và cộng đoàn tình yêu vợ chồng,
nhưng đã trở thành một bản hợp đồng với chủ đích làm sao đạt đến một lợi lộc
mang tính cá nhân, hay như một phương thế giải quyết cho những rắc rối trong xã
hội. Điều gì sẽ xảy đến cho con người khi gia đình như là tế bào đầu tiên của
xã hội đang đối diện với khủng hoảng này? Hậu quả trước mắt mà chúng ta có thể
nhận thấy được đó là hiện tượng ly dị trở thành sinh hoạt bình thường trong đời
sống xã hội, nạn phá thai không còn được coi đó như là một tội ác, trẻ em phạm
pháp ngày càng nhiều, và cuộc sống càng trở nên bất an hơn bao giờ hết.
Để tìm lại trật tự và an bình xã hội trước tiên cần phải tái
khám phá giá trị cao quí của định chế hôn nhân gia đình, một định chế vượt trên
mọi định chế của thế trần, bởi nó được in đậm dấu vết thần linh, bởi “Thiên
Chúa là Tình yêu và nơi chính mình Ngài, Ngài đang sống mầu nhiệm hiệp thông
yêu thương giữa các ngôi vị. Khi tạo dựng nhân tính của người nam và người nữ
theo hình ảnh Ngài và liên lỉ bảo toàn cho nhân tính ấy được hiện hữu, Thiên
Chúa ghi khắc vào đó ơn gọi cũng như cả khả năng và trách nhiệm tương ứng, mời
gọi con người sống yêu thương và hiệp thông. Tình yêu là ơn gọi căn bản và bẩm
sinh của mọi người.”[2]
1. Cấu trúc gia đình như là dấu chỉ mối tương quan
ngôi vị trong nội tại Thiên Chúa Ba Ngôi
Ngay từ buổi ban đầu của công trình tạo dựng Thiên Chúa đã đặt
để muôn loài sinh vật hiện hữu trong một cấu trúc in đậm mối tương giao cộng
đoàn, và đặc biệt, khi tạo dựng con người Thiên Chúa đã tỏ bày ý định cách rõ
ràng sự hiện hữu của thụ tạo này tỏ lộ hình ảnh của Thiên Chúa: Chúng ta hãy tạo
dựng con người giống hình ảnh của chúng ta. Hình ảnh đó chính là khuôn mặt của
một vị Thiên Chúa tình yêu, một Thiên Chúa không đơn độc trong một ngôi vị duy
nhất nhưng là sống động phong nhiêu (fertility) trong ba ngôi vị. Thật vậy, khi
nói đến tình yêu là nói đến ba hiện thực của mối tương quan, như thánh
Augustinô đã trình bày : “Hãy coi, đó là ba : người đang yêu, kẻ được
yêu và tình yêu”[3]. Thiên Chúa chính là Đấng mà
nơi đó “một Ngôi vị nhiệm hiệp với một Ngôi vị hiện hữu khác phát xuất bởi mình
bằng tình yêu ; một Ngôi vị, nhiệm hiệp với một Ngôi vị làm cho mình hiện
hữu bằng tình yêu ; và một Ngôi vị là chính tình yêu”[4].
Vâng, Thiên Chúa đã tự tỏ bày như là “Cha”, “cội nguồn” của một Tình
yêu vô bờ bến, một tình yêu mà Ngài đã tự do trao ban cách nhưng
không; Thiên Chúa đó cũng tự tỏ bày như “người Con”, như “Lời”
(Logos) của tình yêu này. Lời hiện hữu
qua việc đón nhận tình yêu của Cha, đồng thời đáp trả tình yêu này với lòng
biết ơn đối với Cha; Thiên Chúa như là Cha và Con cũng được tỏ bày trong
Chúa Thánh Thần được hiểu là “không gian” của Tình yêu “cho” và “nhận”
giữa các Ngôi vị tạo thành sự hợp nhất nên một. Trong Thánh Thần này,
Thiên Chúa đã tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài và tỏ cho họ
biết nguyên lý thâm sâu nhất của sự hợp nhất và của đời sống họ
nhằm đưa họ bước vào biến cố cứu độ của Tình yêu Người. Như vậy con
người được tạo dựng, được cứu chuộc theo cấu trúc tình yêu như chính Thiên Chúa
là : trao ban, đón nhận và đáp
trả với lòng biết ơn vô hạn.
Chỉ với cấu trúc tình yêu này, sự sống mới có thể tuôn trào,
và công trình tạo dựng của Thiên Chúa mới được hình thành. Đức Bênêđictô XVI.
đã quả quyết: “Mọi sự đều bắt nguồn từ tình yêu Thiên Chúa, mọi sự đều được định
hình bởi tình yêu ấy, và mọi sự đều qui hướng về tình yêu ấy”[5]. Quả thật, nếu Thiên Chúa
không là tình yêu, thì chẳng có chi được tạo thành, chẳng có gì được hiện hữu.
Mọi hiện hữu đều phát sinh từ Thiên Chúa và đều in đậm ấn dấu tình yêu của
Ngài. Dấu ấn này được tỏ lộ các rất đặc biệt nơi con người, một loài thụ tạo
được tạo dựng “giống hình ảnh của Thiên Chúa”, hình ảnh của một tình yêu “trao
ban - đón nhận - đáp trả với lòng biết ơn vô hạn” trong mối tương quan giữa các
ngôi vị, được trình bày qua việc Thiên Chúa “đã tạo dựng có nam và có nữ” (Stk
1,2-7) ngay từ khởi thủy, và đã liên kết họ lại làm nên một cộng đoàn đầu tiên
được gọi là gia đình. Chính nơi đây cấu
trúc tình yêu của Thiên Chúa được tỏ bày trong mối tương giao giữa vợ chồng, và
bằng một hành vi nhân linh họ tự hiến cho nhau và đón nhận nhau, nhờ sự an bài
của Thiên Chúa, phát sinh một định chế vững chắc có giá trị trước mặt xã hội nữa
(x. GS số 48). Với hành vi tự hiến cho nhau vợ chồng cộng tác với Thiên Chúa Tạo
dựng, và diễn đạt tình yêu của Ngài, để từ đó tiếp tục làm nảy sinh sự sống qua
việc truyền sinh. Đây là ân huệ lớn lao mà Thiên Chúa ban tặng cho nhân loại.
Ân huệ này làm cho con người trở nên “người chung phần với Đấng
Tạo Dựng” (participes Creatoris), có nghĩa là được dự phần vào vào những ý định
của Thiên Chúa và lề luật của Ngài đã ban cho thế giới khi Ngài tạo dựng nên nó
vào lúc khởi đầu thời gian[6]. Chính điều đó làm cho con
người là một thụ tạo có giá trị trổi vượt. Tuy nhiên không vì được gọi là
participes Creatoris mà con người tự dành cho mình quyền quyết đoán giá trị về
cuộc sống theo tiêu chuẩn mình đề ra, vì chỉ có Thiên Chúa mới là nguyên nhân tối
hậu của mọi giá trị, con người không có thẩm quyền thay đổi những luật lệ và trật
tự tự nhiên mà Thiên Chúa đã đặt để trong thế giới. Và ngay cả cấu trúc hôn
nhân gia đình cũng không nằm ngoài ý định của Thiên Chúa, bởi đó nó không là một
sáng kiến của con người, cho nên con người không có quyền thay đổi nó. Mọi sự
can thiệp hầu làm cho cấu trúc đó thay đổi tự bản chất theo khuôn mẫu do con
người đề xướng đều là việc làm phát xuất từ sự dữ, cho dẫu con người hành động
nhân danh bảo vệ và tôn trọng sự tự do cá nhân trong việc biểu lộ tình yêu. Mọi
sự thay đổi về cấu trúc tự nhiên của hôn nhân gia đình chỉ là hành vi phá hoại
hủy diệt vẻ đẹp, sự phong phú và giá trị cao trọng của nó, và hậu quả là xã hội
sẽ phải đón nhận những bất ổn với những hậu quả khó lường. Thật ra, tự do chọn
lựa đối tượng yêu thương chỉ mang lại giá trị đích thực khi tự do lệ thuộc vào
ý chí luôn khao khát sự lành, và ý chí này được biểu tỏ qua tình yêu luôn hướng
đến việc trao cho nhau những điều tốt lành hết sức có thể.[7]
Thiên Chúa hằng sống bởi Ngài là Thiên Chúa tình yêu, vì
tình yêu là nguyên nhân của sự sống. Tình yêu này được hình thành trên nguyên
lý: trao ban, đón nhận và đáp trả với lòng biết ơn vô hạn giữa các ngôi vị, từ
đó kiến tạo sự hiệp thông để trở nên một. Cấu trúc hôn nhân gia đình được Thiết
Chúa thiết lập trên nguyên lý này. Do đó, mọi tình yêu đi ra ngoài nguyên lý
này thì không thể được gọi là tình yêu chân thật. Đó chỉ là tình yêu giả hiệu,
biến thành những cảm tính chóng qua trống rỗng, và được lấp đầy bằng những gì
mà mình yêu thích. “Tình yêu trở thành tế vật cho những xúc cảm và ý kiến chủ
quan chóng qua, một từ ngữ bị lạm dụng và nát vụn đến độ mang ý nghĩa đối nghịch”[8], để rồi nó trở thành nguyên
nhân của sự hủy diệt, bởi đó chỉ là một thứ tình yêu vị kỷ, đơn độc, không có
trao ban và tận hiến nên một thì không thể nảy sinh sự sống.
Thiên Chúa không hiện hữu trong một ngôi vị đơn độc, vì Ngài
là Thiên Chúa tình yêu. Ngài hiện hữu với ba ngôi vị trong tình yêu tương hỗ có
một sự thúc đẩy mãnh liệt, và theo nhà thần học kinh viện Richard St Victor, sự
thúc đẩy đó bắt nguồn từ sự khao khát, lòng ước muốn. Đó chính là nguồn mạch của
tình yêu, nó thúc đẩy tình yêu của người
yêu dành cho người được yêu, cũng
như tình yêu của người được yêu dành cho người
yêu bằng một hành vi yêu thương mãnh liệt vô song. Tình yêu tương hỗ không
dừng lại ở hai vế, nhưng niềm vui và sự hoan lạc của tình yêu trọn hảo giữa người yêu và người được yêu tiếp tục trao ban và hướng tới một nhân vật thứ ba
cùng bản tính trong mối dây liên kết tình yêu, được gọi là người cùng được yêu
(condilectus). Yêu thương như thế mới là tình yêu hoàn hảo đích thực, một tình
yêu chỉ có nơi Thiên Chúa[9]. Cấu trúc gia đình được hình
thành từ suối nguồn tình yêu này, một cấu trúc mang lại sự sống phát xuất từ một
tình yêu giao hỗ từ hai nhân vị không cùng một giới tính với những thuộc tính
riêng biệt mang đặc tính bổ sung cho nhau, hướng về nhau. Những thuộc tính riêng biệt của giới này có một
hấp lực lôi cuốn giới kia, để cả hai tìm đến nhau mà người ta gọi là tình yêu.
Thật ra, đây chưa được gọi là tình yêu đúng nghĩa của nó, đó mới chỉ là tình ái
(eros) được thôi thúc bởi tính dục. Và theo nhận định của Đức Bênêđictô XVI, do
bởi tội lỗi, con người đã tôn vinh thân xác, đã biến động lực tình ái (eros)
thành hành vi đơn thuần là tình dục (sex), nó trở thành hàng hóa người ta có thể
mua bán[10]. Cấu trúc gia đình sẽ gặp
khủng hoảng và đưa đến gãy đổ nếu tình yêu chỉ là tình dục. Thực ra, tình ái
(eros) không chỉ là tình dục, tực bản chất nó “muốn đưa chúng ta đến bầu khí thần
linh, vượt lên khỏi chúng ta, vì thế nó đòi buộc một con đường vươn lên, từ bỏ,
thanh luyện và chữa trị”[11]. Con đường thanh luyện eros
là tìm lại đúng ý muốn của Thiên Chúa khi thiết lập nên định chế hôn nhân gia
đình như là dấu chỉ về mầu nhiệm Thiên Chúa Tình yêu. Con đường thanh luyện trước
tiên phải là hành vi khước từ chiếm đoạt “động lực tính dục” như là cái gì thuộc
tư hữu để rồi tìm mọi cách để thỏa mãn, trái lại ý thức rằng việc trao đổi “động
lực tính dục” giữa hai người nam nữ là “góp phần mang một con người mới vào thế
giới qua sinh sản, và đồng thời tham gia vào công cuộc tạo dựng theo ý mình. Vì
thế, họ có thể coi mình như những người đồng tạo dựng có ý thức để sinh ra một
sinh vật nhân tính mới, tức con người”[12].
Để được như vậy, hành vi yêu thương bắt đầu bằng eros sẽ phải được vươn lên
thành agape, có nghĩa là yêu một ai không là chiếm đoạt người đó để thỏa mãn
cho riêng mình, nhưng là ước muốn cho người mình yêu đạt được hạnh phúc, nỗ lực
mang lại những điều thiện hảo, và sẵn tự hiến cho người mình yêu[13]. Đấy nguyên lý của tình yêu
Thiên Chúa, và đó cũng là nền tảng cho định chế hôn nhân gia đình. Mối tương
giao liên vị sâu xa giữa vợ chồng được khởi xướng bởi tình yêu kết hợp hoàn hảo
giữa hai yếu tố eros và agape là nền tảng cho cấu trúc gia đình và được coi như
dấu chỉ của mối tương quan ngôi vị của Thiên Chúa Ba Ngôi.
2. Đặc tính bất khả phân ly của cấu trúc gia đình là
dấu chỉ duy nhất tính của Thiên Chúa Ba Ngôi
Tín biểu của Công đồng Nicêa – Constantinôpôli bắt đầu bằng
lời tuyên tín: Credo in unum Deum. Việc tuyên xưng một Thiên Chúa duy nhất là nền
tảng đức tin Kitô giáo. Thiên Chúa duy nhất xét theo bản thể, bản tính và yếu
tính. Đặc tính duy nhất nầy được biểu tỏ trong Ba Ngôi phân biệt qua sự hiệp
thông (oikonomia) được diễn tả theo ngôn ngữ của con người như sau: ý muốn của
Chúa Cha, ý muốn đó được biểu lộ trong sứ mệnh và trong hành động của Con và của
Thánh Thần, đó cũng là ý muốn của Con, của Thánh Thần. Đây là ý muốn duy nhất,
nơi đây không có sự khuất phục của ngôi này đối với ngôi kia, không có việc
ngôi kia lệ thuộc ngôi nọ. Sự thấm nhập giao hỗ ý muốn của các ngôi vị từ Cha, Con và Thánh Thần được thể hiện qua mối
dây tương hỗ giữa Ba Ngôi (perichorese). Chính sự sự thấm nhập giao hỗ này kiến
tạo nên duy nhất bản thể Thiên Chúa. Và có thể nói, gia đình, một định chế do
Thiên Chúa thiết lập, cũng in đậm đặc tính duy nhất của Thiên Chúa theo mối
tương quan giao hỗ này giữa hai vợ chồng - dĩ nhiên vì là thụ tạo, con người
không thể thực hiện mối tương quan giống như Thiên Chúa, vì thế mối tương quan
vợ chồng chỉ là phản ảnh một thực tại siêu nhiên - Sách Sáng Thế đã trình bày : từ chiếc
xương sườn của người đàn ông Chúa đã dựng nên người phụ nữ (St 2, 22), như là
căn nguyên của duy nhất tính trong cấu trúc hôn nhân gia đình. Chính Adam đã khẳng
quyết: đây xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi (St 2, 23), và rồi ông đã kết
hợp với Eva và cả hai trở nên một xác thịt (St 2, 24).
Một trong những đặc tính cốt yếu của tình yêu hiệp thông nên
một chính là sự trung tín. Trong lịch sử
cứu độ Thiên Chúa đã tỏ mình là một Thiên Chúa trung tín. Do đó, trung tín
không là một yếu tố bên ngoài được thêm vào, nhưng nó thuộc về yếu tính của mối
tương quan tình yêu giao hỗ (perichorese) nơi Thiên Chúa Ba Ngôi đến nỗi nếu
thiếu nó thì yếu tố duy nhất của Thiên Chúa sẽ không thể có. Thiên Chúa không chỉ duy nhất trong đời sống
nội tại của Ba Ngôi, nhưng còn duy nhất ngay cả khi Ngài biểu tỏ ra bên ngoài.
Thiên Chúa mặc khải cho chúng ta trong sự thông hiệp (oikonomia) của việc tự tỏ
bày chính mình. Thiên Chúa gặp gỡ
chúng ta trong Nhiệm cục Cứu chuộc không chỉ được nhận biết như là Đấng Ba
Ngôi, nhưng mỗi một Ngôi vị còn được nhận biết qua hành động nơi Lịch sử Cứu
chuộc trong mối tương quan nguyên thủy Ba Ngôi nội tại, đó là mối tương quan bản
thể duy nhất . Do đó : “Thiên Chúa quan hệ với chúng ta trong tính cách Ba
Ngôi, và mối quan hệ Ba Ngôi đối với
chúng ta này không chỉ là họa ảnh hay
sự tương tự (analogie) về Ba Ngôi nội tại, nhưng đó chính là Ba Ngôi nội tại”[14] Đây chính là khuôn mẫu cho
việc thiết lập định chế hôn nhân và gia đình trong công cuộc tạo dựng của Thiên
Chúa.
Thật vậy, chính Chúa Giêsu đã khẳng định: “ngay từ ban đầu,
Ðấng Tạo Hóa đã làm ra con người có nam có nữ, và Ngài đã phán: Vì thế, người
ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt.
Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên
Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mt 19, 4 – 6). Thế giới hữu
hình này có thể đọc được mối tương giao kiến tạo sự duy nhất của Thiên Chúa Ba
Ngôi ngay trong định chế hôn nhân gia đình mà Ngài đã thiết lập, và định chế đó
được coi như dấu chỉ của tình yêu Ngài trong thế giới hữu hình. Có thể nói được
rằng, Thiên Chúa đã đặt để trong định chế hôn nhân yếu tố trung tín làm cho định
chế đó được bền vững nên một. Đức Gioan Phaolô II đã khẳng định :
“sự bất khả phân ly của hôn nhân dựa trên nền tảng là ý định Thiên Chúa đã bày
tỏ trong mặc khải của Ngài: chính Ngài muốn hôn nhân phải bất khả phân ly và
Ngài ban cho nó ơn này như kết quả, dấu chỉ và đòi hỏi của tình yêu tuyệt đối
trung thành mà Thiên Chúa đã có đối với con người và là tình yêu mà Chúa Giê-su
đã tỏ ra đối với Hội Thánh”[15]. Bởi đó, đặc tính trung tín
trong định chế hôn nhân không là một nhân đức được hình thành do luyện tập bởi
ý chí, nhưng nó thuộc yếu tính không thể
thiếu của mối tương giao vợ chồng trong định chế này. Thật vậy, vì trở nên một
xương một thịt, vợ chồng trong định chế hôn nhân tuy là hai hữu thể riêng biệt,
nhưng đã trở nên một trong một mối tương giao tình yêu duy nhất : vợ - chồng.
Trong mối tương giao này cả hai vợ chồng không những trao ban cho nhau một tình
yêu hiến dâng để mong sao cho người mình yêu nhận được sự thiện hảo và hạnh
phúc, nhưng mỗi người còn phải biết đón nhận tình yêu được trao ban với lòng biết
ơn và hết lòng bảo vệ nó như quà tặng
không gì so sánh được.
Quả thật, định chế hôn nhân gia đình được xây dựng trên nền
tảng của một tình yêu trao ban và đón nhận, từ tình yêu này tuôn trào nguồn sống
làm cho nhân loại càng ngày càng sinh động và phong phú. Tuy nhiên, định chế
này chỉ có thể đạt tới mục đích của nó khi mối tương giao vợ chồng được thể hiện
trong một tình yêu thấm được sự công bằng. Có nghĩa là tình yêu giữa vợ chồng
là trao ban cho nhau điều thuộc về mình, nhưng sự trao ban thôi chưa đủ, vì chỉ
trao ban sẽ dẫn đưa tới thái độ “bề
trên” trong mối tương giao, và vợ chồng sẽ coi nhau như những người nhận ơn, và
đòi hỏi mỗi người cần phải thi hành những yêu cầu của nhau như là hành vi đáp đền.
Điều đó tạo ra những vết nứt làm cho sự tín trung bị sứt mẻ, và sự bền vững của
gia đình bị chuyển lay. Bởi đó, để thực hiện tình yêu trao ban, trước tiên vợ
chồng phải trả lại cho nhau điều thuộc về
của vợ hay của chồng dựa vào sự công bằng[16].
Điều thuộc về của vợ hay của chồng chính là tình yêu của từng người dành cho
nhau, là sự tự do và phẩm giá của nhau. Vì thế, mọi sự lừa dối, thái độ gia trưởng
cưỡng bức, bạo lực, những đòi hỏi ích kỷ trong mối tương giao vợ chồng đều là
hành vi bất công, nó sẽ loại trừ tình yêu và làm hoen mờ mục đích cao trọng của
định chế hôn nhân gia đình là “khám phá ra ‘căn tính’ của nó, cái nó ‘là’,
và khám phá ra ‘sứ mạng’ của nó, cái nó
có thể và phải ‘làm’. Những bổn phận mà gia đình được Thiên Chúa mời gọi phải
chu toàn trong lịch sử đều bắt nguồn từ hữu thể độc đáo của nó, và là cách diễn
tả sự phát triển năng động và hiện sinh của nó. Mỗi gia đình khám phá và gặp được
nơi chính mình lời mời gọi cấp bách ấy, cũng chính là lời mời gọi xác định đâu
là phẩm giá và trách nhiệm của gia đình: Hỡi gia đình, ‘hãy trở nên’ cái mà
ngươi ‘là’”[17]. Là “cộng đoàn sự sống và
tình yêu” gia đình được Thiên Chúa giao sứ vụ “giữ gìn mặc khải và thông truyền
tình yêu”, là dấu chỉ sống động cũng như dự phần thực sự vào tình yêu của Thiên
Chúa đối với nhân loại, và vào tình yêu của Đức Ki-tô đối với hiền thê Người là
Hội Thánh[18].
Đứng trước sự gia tăng con số ly dị, và những hậu quả tồi tệ
đối với xã hội do sự gãy đổ của định chế gia đình mang lại, liên hiệp quốc vào
ngày 9/1993 đã thông qua việc thành lập ngày quốc tế gia đình (15-5) nhằm cổ võ
việc bảo tồn và phát huy những giá trị gia đình như là tế bào đầu tiên của xã hội.
Để lành mạnh hóa xã hội không thể làm gì khác hơn là phải quay trở lại với những
yếu tố cơ bản của xã hội, chính là định chế gia đình. Thế nhưng những nỗ lực của Liên Hiệp Quốc đã
mang lại được kết quả gì? Đó là câu hỏi khó tìm được câu trả lời, bởi càng ngày
xã hội càng bất an, bạo lực nơi giới trẻ càng ngày càng tăng, và nền tảng cốt
lõi của định chế gia đình như hôn nhân là giao kết giữa hai người khác giới
tính, tính bền vững bất khả phân ly của giao ước hôn nhân, việc truyền sinh, việc
kết hôn với ý thức trách nhiệm về đời sống gia đình…vẫn bị chà đạp và coi thường.
Thật vậy, định chế gia đình không thể được củng cố, và xã hội
không thể tìm thấy được sự an vui nếu con người không tìm lại gốc rễ của đời sống
hôn nhân gia đình. Như đã trình bày, đây không là định chế do con người thiết lập,
nhưng do bởi chính Thiên Chúa, cho nên vấn đề cốt lõi là phải tìm lại căn tính
của gia đình ở nơi chính Thiên Chúa, chứ không thể nơi con người. Nhưng tiếc
thay, con người quá cao ngạo, với những khả năng mà Thiên Chúa trao ban, con
người cứ ngỡ mình là toàn năng, nỗ lực loại trừ Thiên Chúa, và cho mình có thể
hành động thay Thiên Chúa, tự mình mang lại hạnh phúc cho chính mình. Nhưng, ở
đâu vắng bóng Thiên Chúa, ở đấy chỉ có tối tăm, khổ đau. Chẳng ai có thể tự ban
cho mình hạnh phúc đích thật, bởi tự nơi con người cũng chỉ là những thụ tạo bất
toàn, hư vô như Gióp đã nói: “Thân trần truồng sinh ra từ thai mẫu, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng” (G 1, 20), vì
chỉ có Thiên Chúa là nguồn phú túc và chỉ có Ngài mới làm cho mọi sự tồn tại
mãi (Gv 3, 14). Cho nên, nhiệm vụ của người Kitô hữu là phải trình bày vả phải
sống làm sao để giúp cho người ta nhận ra rằng: Thiên Chúa là yếu tố thiết yếu
đầu tiên trong việc lành mạnh hóa xã hội. Do đó, tìm lại căn nguyên của gia
đình, chính là khám phá định chế hôn nhân gia đình như là dấu chỉ của tình yêu
Thiên Chúa dành cho nhân loại, để qua đó con người biết canh tân đời sống gia
đình, trả lại giá trị đích thật của nó và nhận ra rằng, “ở đâu hai người sống
cho nhau và sinh con, ở đó cũng có giao tiếp với sự thánh và với mầu nhiệm làm
người, là những thứ vượt lên những gì ta tự có. Tôi không đơn giản chỉ là tôi
mà thôi. Trong mỗi con người có một bí ẩn thần thánh. Vì thế, việc sống chung
giữa người nam và người nữ cũng đưa vào vòng tôn giáo, vào vòng thánh thiêng,
vào trách nhiệm trước Thiên Chúa”[19]. Bao lâu còn khám phá định
chế hôn nhân gia đình là dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa, bấy lâu nhân loại sẽ
còn tìm thấy một xã hội phong phú, nhân cách và phẩm giá con người không bị tổn
hại kiến tạo một xã hội bền vững.
Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 66 (Tháng 7 &
8 năm 2011)
[6] X. Karol Wojtyla (Đức Gioan- Phaolô II), Miłość Odpowiedzialność, được Bùi văn Long
chuyển ngữ qua tác phẩm “Tình yêu và
Trách nhiệm”, do nhà sách Kinh Đô Ấn Quán xuất bản tại Houston 1999,
tr.262.
[12] X. Karol
Wojtyla (Đức Gioan- Phaolô II), Miłość Odpowiedzialność, được Bùi văn Long chuyển ngữ qua tác phẩm “Tình yêu và Trách nhiệm”, do nhà sách
Kinh Đô Ấn Quán xuất bản tại Houston 1999, tr.53.
[14] K.
Rahner, Der dreifaltige Gott als
transzendenter Urgrund der Heilsgeschichte, trong:
MySal 2 (1967), tr. 337.
[19] J.
Ratzinger (Đức Bênêđictô XVI), Gott und die Welt, bản dịch việt ngữ do Phạm Hồng Lam, Thiên Chúa và Trần Thế, nhà xuất bản Tôn
Giáo 2011, tr.431.