CHÚA NHẬT LỄ
LÁ NĂM B
LM Antôn
Nguyễn Cao Siêu SJ
PHÚC ÂM: Mc 14,1 - 15,47
Hai ngày trước Lễ Vượt Qua và Tuần Lễ ăn bánh không men, các
thượng tế và luật sĩ tìm mưu bắt giết Chúa Giêsu. Họ bảo nhau rằng:
“Ðừng làm trong ngày lễ, kẻo sinh náo động trong dân”.
Khi Chúa đang dùng cơm ở Bêtania trong nhà ông Simon tật
phong, thì có một người phụ nữ mang đến một bình ngọc đựng dầu thơm rất quý
giá. Ðập vỡ bình, bà đổ dầu thơm trên đầu Người. Có mấy người khó chịu nghĩ thầm
rằng: Làm gì mà phí dầu thơm như vậy? Dầu này có thể bán được hơn ba trăm đồng
bạc để bố thí cho kẻ nghèo khó. Và họ nặng lời với bà đó. Nhưng Chúa Giêsu bảo:
“Hãy để mặc bà, sao các ông lại làm cực lòng bà? Bà vừa
làm cho Ta một việc rất tốt. Vì bao giờ các ông cũng có những kẻ nghèo ở bên
mình, và các ông có thể làm phúc cho họ lúc nào tuỳ ý, nhưng Ta, các ông không
có Ta ở luôn với đâu. Làm được gì thì bà đã làm, bà đã xức dầu thơm có ý tẩm liệm
xác Ta trước. Ta bảo thật các ông: Trong khắp thế giới, Phúc âm này rao giảng đến
đâu thì người ta cũng sẽ thuật lại việc bà mới làm để nhớ bà”.
Khi ấy, Giuđa Iscariô, một trong nhóm Mười Hai, đến tìm các
thượng tế để tình nguyện nộp Người cho họ. Nghe vậy, họ mừng rỡ và họ liền hứa
cho nó tiền. Và nó tìm dịp tiện nộp Người.
Ngày thứ nhất trong tuần lễ ăn bánh không men là ngày giết
chiên mừng Lễ Vượt Qua, các môn đệ thưa Người:
“Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn Lễ Vượt Qua tại đâu?”
Người liền sai hai môn đệ đi và dặn rằng:
“Các con hãy vào thành, và nếu gặp một người mang vò
nước thì hãy đi theo người đó. Hễ người ấy vào nhà nào thì các con hãy nói với
chủ nhà rằng: Thầy sai chúng tôi hỏi: Căn phòng Ta sẽ ăn Lễ Vượt Qua với các
môn đệ ở đâu? Và chủ nhà sẽ chỉ cho các con một căn phòng rộng rãi dọn sẵn sàng
và các con hãy sửa soạn cho chúng ta ở đó”.
Hai môn đệ ra đi vào thành và thấy mọi sự như Người đã bảo,
và hai ông dọn Lễ Vượt Qua.
Chiều đến, Người cùng Mười Hai môn đệ tới. Và khi mọi người
đang ngồi ăn, thì Chúa Giêsu nói:
“Ta bảo thật các con, một trong các con đang ăn cùng
Ta, sẽ nộp Ta”.
Các ông đều buồn rầu và lần lượt từng người thưa Ngài:
“Thưa Thầy, có phải con không?”
Người đáp:
“Là một trong mười hai, kẻ cùng chấm một đĩa với Thầy.
Con Người phải ra đi như đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nộp Con Người. Thà
nó đừng sinh ra thì hơn”.
Ðang khi họ ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ
ra và trao cho các ông mà phán:
“Các con hãy cầm lấy, này là Mình Ta”.
Rồi Người cầm lấy chén, tạ ơn, trao cho các ông và mọi người
đều uống. Và Người bảo các ông:
“Này là Máu Ta, Máu tân ước sẽ đổ ra cho nhiều người.
Ta bảo thật các con: Ta sẽ chẳng còn uống rượu nho này nữa cho đến ngày Ta sẽ uống
rượu mới trong nước Thiên Chúa”.
Sau khi hát Thánh Vịnh, Thầy trò đi lên núi Cây Dầu. Chúa
Giêsu bảo các ông:
“Ðêm nay, tất cả các con sẽ vấp phạm vì Thầy, vì có lời
chép rằng: ta sẽ đánh chủ chăn và đoàn chiên sẽ tan tác. Nhưng sau khi Thầy sống
lại, Thầy sẽ đến xứ Galilêa trước các con”.
Phêrô thưa Người:
“Dù tất cả vấp phạm vì Thầy, nhưng con thì không”.
Chúa Giêsu bảo ông:
“Thầy bảo thật con: Hôm nay, nội đêm nay, trước khi gà
gáy hai lần, con đã chối Thầy ba lần”.
Nhưng Phêrô càng lên giọng cương quyết hơn mà rằng:
“Không, dầu phải chết với Thầy, con cũng sẽ không chối Thầy”.
Và tất cả đều nói như vậy.
Ði đến một vườn kia tên là Ghếtsêmani, Người bảo các môn đệ:
“Các con hãy ngồi lại đây trong khi Thầy đi cầu nguyện”.
Rồi Người đem Phêrô, Giacôbê và Gioan theo Người và Người bắt
đầu kinh sợ và buồn sầu. Người liền bảo các ông:
“Linh hồn Thầy buồn đến chết được, các con hãy ở lại
đây và tỉnh thức”.
Tiến xa hơn một chút, Người phục xuống đất và cầu xin nếu có
thể được thì xin cho qua khỏi giờ này. Và Người nguyện rằng:
“Abba, Lạy Cha, Cha có thể làm được mọi sự, xin cất
chén này khỏi con! Nhưng không theo ý con muốn, một theo ý Cha”.
Người trở lại và thấy các ông đang ngủ, nên nói với Phêrô:
“Simon, con ngủ ư? Con không có sức thức được một giờ
sao? Hãy tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ, vì tinh thần thì lanh
lẹ, còn xác thịt thì yếu đuối”.
Rồi Người đi khỏi đó và cầu nguyện cùng lời như trước. Khi trở
lại lần nữa và thấy các ông còn ngủ (vì mắt các ông nặng trĩu) và các ông không
còn biết thưa Người làm sao. Lần thứ ba, Người trở lại và bảo:
“Bây giờ các con hãy ngủ và nghỉ ngơi đi. Thế là xong!
Giờ đã đến: Này Con Người sắp bị nộp trong tay những kẻ tội lỗi. Thôi! hãy chỗi
dậy, chúng ta đi, kẻ nộp Thầy đã tới nơi”.
Người còn đang nói, thì Giuđa Iscariô, một trong nhóm Mười
Hai đến, cùng đi với một toán đông mang gươm giáo và gậy gộc do các thượng tế,
luật sĩ và kỳ lão sai đến. Trước đó, tên phản bội đã ra hiệu cho chúng rằng:
“Hễ tôi hôn mặt ai, thì đó chính là Ngài, các ông cứ bắt lấy
và điệu đi cho cẩn thận”.
Vừa đến, nó liền tới gần Người mà nói:
“Chào Thầy”.
Và nó hôn Người. Và chúng tra tay bắt Người. Nhưng một người
trong những kẻ đứng xung quanh rút gươm chém tên đầy tớ thầy thượng tế đứt một
tai. Chúa Giêsu nói với chúng rằng:
“Các ngươi cầm gươm giáo gậy gộc đi bắt Ta như bắt tên
cướp! Hằng ngày, Ta ở giữa các ngươi, giảng dạy trong đền thờ mà sao các ngươi
không bắt Ta. Nhưng thế là để ứng nghiệm lời Kinh Thánh”.
Bấy giờ môn đệ bỏ Người và trốn đi hết. Có một thanh niên
theo Người, mình chỉ quấn một tấm khăn, họ túm lấy anh ta, nhưng anh ta bỏ tấm
khăn lại và chạy trốn mình trần.
Chúng điệu Chúa Giêsu đến thầy thượng tế, các tư tế, luật sĩ
và kỳ lão hội lại đông đủ. Còn Phêrô theo Người xa xa đến tận trong dinh thượng
tế và ngồi sưởi lửa với đám đầy tớ. Vậy các thầy thượng tế và toàn thể công nghị
tìm một chứng cáo Chúa Giêsu để giết Người, song họ không tìm ra. Có nhiều kẻ
đã cáo gian Người, nhưng các chứng đó không hợp nhau. Tuy nhiên có nhiều kẻ đứng
lên làm chứng gian cho Người rằng:
“Chúng tôi đã nghe nó nói: Ta sẽ phá huỷ đền thờ này do tay
loài người làm ra, và trong ba ngày, Ta sẽ xây lại một đền thờ khác không bởi
tay loài người làm ra”.
Nhưng chứng cớ của họ cũng không hợp nhau. Khi ấy, thầy thượng
tế đứng lên giữa công nghị hỏi Chúa Giêsu rằng:
“Sao ông không trả lời gì về những điều các người này tố cáo
ông”.
Nhưng Người vẫn thinh lặng và không đáp lại gì. Thầy thượng tế
lại hỏi:
“Ông có phải là Ðấng Kitô Con Thiên Chúa đáng chúc tụng
chăng?”
Chúa Giêsu đáp:
“Phải, chính Ta! Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngồi
bên hữu Ðấng toàn năng và ngự đến trên đám mây”.
Thầy thượng tế liền xé áo mình ra và nói:
“Chúng ta còn cần chi đến nhân chứng nữa? Các ông đã nghe lời
nói lộng ngôn, các ông nghĩ sao?”
Ai nấy đều lên án Người đáng chết. Rồi có kẻ bắt đầu nhổ vào
Người, che mặt Người và đánh đấm Người mà rằng:
“Hãy đoán xem!”
Và bọn thủ hạ vả mặt Người.
Phêrô đang ở ngoài sân tiền đường, thì có một đầy tớ gái của
thầy thượng tế đến, thấy Phêrô đang sưởi, thì nhìn ông và nói:
“Ông cũng theo Giêsu, người Nadarét”.
Nhưng ông chối phắt mà rằng:
“Tôi không biết, tôi không hiểu cô muốn nói gì”.
Rồi ông đi ra ngoài phía trước tiền đường, và gà liền gáy. Lần
nữa người đầy tớ thấy ông, liền nói với những người xung quanh rằng:
“Ông này thuộc bọn đó”.
Nhưng ông lại chối. Một lúc sau, những người ở đó lại nói với
Phêrô rằng:
“Ðúng ông thuộc bọn đó, vì cả ông cũng là người Galilêa”.
Ông liền nguyền rủa nặng lời và thề rằng:
“Tôi không biết người mà các ông nói đó”.
Tức thì gà gáy lần thứ hai. Và Phêrô nhớ lại lời Chúa Giêsu
đã bảo ông: “Trước khi gà gáy hai lần, con đã chối Ta ba lần”. Và ông liền than
khóc.
Vừa tảng sáng, các thượng tế hội nghị với các kỳ lão, luật sĩ
và toàn thể công nghị. Họ đã trói Chúa Giêsu và giải nạp Người cho Philatô.
Philatô hỏi Người:
“Ông có phải là vua dân Do Thái không?”
Chúa Giêsu đáp:
“Ông nói đúng!”
Và các thầy thượng tế cáo Người nhiều điều. Philatô lại hỏi
Người rằng:
“Ông không trả lời gì ư? Hãy coi họ tố cáo Ông biết bao nhiêu
điều!”
Nhưng Chúa Giêsu không trả lời gì thêm, khiến Philatô ngạc
nhiên. Vào mỗi dịp lễ, quan có thói quen phóng thích cho dân một người tù tuỳ ý
họ xin. Bấy giờ trong khám có tên Baraba bị giam cùng với những kẻ phiến loạn,
vì chúng đã giết người trong cuộc khởi loạn. Dân chúng tiến lên Philatô xin ân
xá theo như quan quen làm. Vậy Philatô hỏi:
“Các ngươi có muốn ta phóng thích cho các ngươi Vua dân Do
Thái không?”
(Vì quan đã biết rõ do lòng ghen tương mà các thượng tế nộp
Người). Nhưng dân xin quan phóng thích Baraba cho họ. Philatô bảo dân chúng rằng:
“Các ngươi muốn Ta làm gì cho vua dân Do Thái?”
Nhưng chúng lại kêu lên:
“Ðóng đinh nó đi!”
Philatô đáp lại:
“Người này đã làm gì nên tội?”
Song chúng càng la to hơn:
“Ðóng đinh nó đi!”
Sau cùng Philatô muốn vừa lòng dân, liền tha Baraba và trao
Chúa Giêsu cho chúng đánh đòn và đóng đinh vào thập giá. Quân lính điệu Người
vào sân tiền đường và tập họp cơ đội lại. Chúng mặc áo choàng đỏ cho Người, rồi
quấn một vòng gai đặt trên đầu Người. Ðoạn chào Người rằng:
“Tâu Vua dân Do Thái”.
Rồi chúng lấy cây sậy đánh đầu Người, khạc nhổ vào Người và
quỳ gối triều bái Người. Khi đã nhạo cười Người, chúng lột áo choàng đỏ ra, mặc
y phục lại cho Người và chúng điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Chúng gặp một
người qua đường, tên là Simon, quê ở Xyrênê, là thân phụ của Alexanđrô và Rôphô
vừa ở ngoài đồng về, chúng bắt ông vác đỡ thập giá cho Người. Chúng điệu Người
đến nơi kia gọi là Golgotha, nghĩa là Núi Sọ. Chúng cho Người uống rượu pha mộc
dược, nhưng Người không uống. Chúng đóng đinh Người vào thập giá, rồi chúng
chia nhau áo Người bằng cách bắt thăm xem ai được phần nào.
Vào lúc giờ thứ ba, chúng đã đóng đinh Người vào thập giá. Và
có bản án ghi rằng: Vua dân Do Thái! Và cùng với Người, chúng đóng đinh hai tên
trộm cướp vào thập giá, một đứa bên hữu, một đứa bên tả Người. Như vậy là ứng
nghiệm lời Thánh Kinh rằng: Người đã bị liệt vào số những kẻ gian ác. Những người
qua đường sỉ nhục Người, lắc đầu và nói:
“Kìa! Kẻ phá đền thờ Thiên Chúa và xây lại trong ba ngày: hãy
tự cứu mình xuống khỏi thập giá đi!”
Các thượng tế với các luật sĩ cũng nhạo báng Người và nói với
nhau:
“Nó đã cứu được những kẻ khác mà không tự cứu mình! Bây giờ Ðấng
Kitô Vua Israel, hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta thấy mà tin nào!”
Cả những kẻ cùng chịu đóng đinh với Người cũng lăng nhục Người.
Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, tối tăm bao trùm toàn thể lãnh thổ. Và đến giờ
thứ chín, Chúa Giêsu kêu lớn tiếng rằng:
“Êloi, Êloi, lêma sabachthani!”
Nghĩa là:
“Lạy Chúa con, lạy Chúa con, Tại sao Chúa bỏ con!”
Có mấy người đứng đó nghe thấy liền nói rằng:
“Kìa, nó gọi Êlia!”
Bấy giờ có kẻ chạy đi nhúng miếng bông biển đầy dấm và cuốn
vào cây sậy và đưa lên cho Người uống mà rằng:
“Hãy đợi xem Êlia có đến đem nó xuống không?”
Nhưng Chúa Giêsu kêu một tiếng lớn và trút hơi thở.
(Quỳ
gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)
Màn trong đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới. Viên sĩ
quan đứng trước mặt Người thấy Người kêu lên và trút hơi thở như thế, liền nói
rằng:
“Ðúng người này là Con Thiên Chúa!”
Cũng có những phụ nữ đứng nhìn từ đàng xa, trong số đó có bà
Maria Mađalêna, Maria mẹ của Giacôbê hậu và của Giuse, và bà Salômê, là những kẻ
đã theo giúp Người khi Người còn ở xứ Galilêa. Và nhiều người khác cũng đã lên
Giêrusalem với Người.
Trời đã xế chiều và hôm đó lại là ngày chuẩn bị, áp ngày
Sabbat. Ông Giuse quê ở Arimathia, một hội viên vị vọng trong công nghị, cũng
là người trông đợi nước Thiên Chúa, ông mạnh dạn đến gặp Philatô và xin xác
Chúa Giêsu. Philatô ngạc nhiên nghe nói Người đã chết, ông gọi viên sĩ quan đến
và hỏi xem Người đã chết thật chưa. Khi được viên sĩ quan phúc trình, quan trao
xác Người cho Giuse. Giuse đã mua một khăn trắng, hạ xác Chúa Giêsu xuống khỏi
thập giá, liệm vào khăn và đặt trong mộ đã đục sẵn trong đá, và lăn một tảng đá
lấp cửa mộ. Lúc đó bà Maria Mađalêna và Maria mẹ ông Giuse nhìn xem nơi Người
được an táng.
CÂU HỎI TÌM HIỂU
1. Đọc Mc 14,1-11. Hãy cho thấy sự tương phản giữa thái độ của
người phụ nữ với thái độ của Giuđa, và của các thượng tế, kinh sư.
2. Đọc Mc 14,12-31. Trong đoạn văn này, Đức Giêsu buồn
về những chuyện gì? Ngài nói về cái chết cứu độ của Ngài trong câu nào?
Ngài có nói về sự phục sinh không?
3. Đọc Mc 14,32-42. Chiêm ngắm Đức Giêsu cầu nguyện trong vườn
Ghết-sê-ma-ni. Bạn thấy Đức Giêsu cầu nguyện có khó không? Tại sao khó?
4. Đọc Mc 14,43-52. So sánh thái độ của Đức Giêsu lúc bị bắt
với thái độ của các môn đệ (đọc thêm Mc 14,31).
5. Đọc Mc 14,53-65. Đức Giêsu đứng trước Thượng Hội Đồng. Tại
sao Ngài bị họ kết án tử?
6. Đọc Mc 14,66-72. Suy nghĩ về ba lần chối Thầy của Phêrô. Tại
sao ông chối Thầy dễ dàng đến thế?
7. Đọc Mc 15,1-15. Đức Giêsu đứng trước Philatô. Theo bạn,
cách xử án của Philatô bất công ở chỗ nào?
8. Bạn nghĩ gì về sự hiện diện của các phụ nữ trong giây phút
cuối đời của Đức Giêsu (Mc 15,40-47)?
GỢI Ý SUY NIỆM: Chiêm ngắm cảnh Đức Giêsu bị làm nhục trong
dinh thượng tế (14,65), trong dinh tổng trấn (15,16-20), và trên thập giá
(15,29-32). Theo bạn, trong tất cả các nỗi đau của Cuộc Thương Khó, Đức Giêsu
đau nhất khi nào, bởi ai?
PHẦN TRẢ LỜI
1.Câu chuyện về một người phụ nữ ở Bêtania (gần Giêrusalem) xức
dầu thơm cho Đức Giêsu trước khi Ngài chịu nạn được kể lại trong ba sách Tin Mừng
(Mc 14,1-9; Mt 26,6-13; Ga 12,1-8). Tin Mừng Máccô và Matthêu không nói rõ chị ấy
là ai, chỉ biết chị ấy hẳn không phải là người phụ nữ được nói đến ở Luca
7,36-50. Còn Tin Mừng Gioan lại cho biết rõ chị ấy là Maria, em của Mácta và chị
của Ladarô, người được Chúa hoàn sinh từ nấm mồ (Ga 12,2-3). Trong Mc 14,3 và
Mt 26,6, việc xức dầu xảy ra ở nhà ông Si-môn, người từng mắc bệnh phong, còn
trong Ga 12,1 việc xức dầu xảy ra ở nhà anh Ladarô và hai người chị. Trong Ga
12,3 chị Maria lấy dầu xức chân Chúa, còn trong Mc 14,3 và Mt 26,7, người phụ nữ
vô danh xức dầu trên đầu Chúa. Dù sao đối với Đức Giêsu, cử chỉ xức dầu này có
mục đích là để ướp xác Ngài, chuẩn bị cho việc mai táng (Mc 14,8). Rõ ràng Đức
Giêsu biết mình đã gần kề cái chết. Người phụ nữ đã không tiếc một lượng dầu
thơm lớn và đắt tiền để xức cho Đức Giêsu, điều đó nói lên lòng yêu mến và quý
trọng. Ngược lại, Giuđa, một người trong Nhóm Mười Hai, lại tìm cách nộp Ngài
cho các thượng tế (Mc 14,10-11). Còn các thượng tế và kinh sư thì âm mưu bắt
Ngài và giết đi (Mc 14,1).
2. Máccô 14,12-16 cho thấy khung cảnh chuẩn bị mừng đại lễ Vượt
Qua của Thầy Giêsu và các môn đệ. Trong bữa tiệc tối Vượt Qua, Thầy Giêsu có thể
đã buồn vì biết một người trong Nhóm Mười Hai, kẻ đang cùng ăn với mình, kẻ ấy
sẽ nộp mình (Mc 14,20). Sau bữa tiệc, Ngài lại buồn về sự vấp ngã của tất cả
môn đệ (Mc 14,27), đặc biệt việc Phêrô trong đêm nay sẽ chối Thầy ba lần (Mc
14,30). Tuy nhiên, ta vẫn thấy Ngài không thất vọng. Ngài biết cái chết của
Ngài đem lại ơn cứu độ cho “muôn người” (Mc 14,24). Ngài cũng ám chỉ về sự phục
sinh khi nói: “Thầy uống thứ rượu mới trong Nước Thiên Chúa” (Mc 14,25), và nhất
là khi nói: “Nhưng sau khi trỗi dậy, Thầy sẽ đi đến Galilê trước anh em” (Mc
14,28).
3. Khi biết mình sắp bị bắt, Đức Giêsu đi cầu nguyện tại một
nơi quen thuộc là vườn Dầu. Ngài thấy mình cô đơn, nên xin các môn đệ ở với
Ngài và thức với Ngài (Mc 14,34). Ngài gọi Cha bằng tiếng Abba thân
thương (Mc 14,36). Ngài cầu nguyện trong “hãi hùng xao xuyến”, trong nỗi “buồn
đến chết được”, trong sự cô đơn vì các môn đệ “không canh thức nổi một giờ với
Thầy” (Mc 14,37). Đêm cầu nguyện này là một đêm cầu nguyện hết sức khó
khăn, vì Đức Giêsu phải từ bỏ ý muốn của mình để đón nhận ý muốn
của Cha, đón nhận giờ của Cha và uống chén Cha trao (Mc
14,35-36). Cầu nguyện thật là một cuộc chiến đấu với nỗi sợ nơi chính mình. Như
chúng ta, Đức Giêsu cũng sợ chết lúc chưa tới 40 tuổi, sợ nhục nhã và khổ hình
thập giá.
4. Những giờ phút cầu nguyện trong đêm đã cho Đức Giêsu thêm
can đảm để bước vào cuộc Khổ nạn. Vì thế, trong đêm tối, khi Giuđa dẫn đoàn người
đến, Đức Giêsu đã chấp nhận để cho người ta bắt, “để ứng nghiệm lời Sách Thánh”
(Mc 14,39). Còn các môn đệ thì bỏ Thầy mà chạy trốn, dù trước đó họ đã quả quyết
dù chết cũng không chối Thầy (Mc 14,31).
5. Trong Mc 14,53-65 đêm vẫn còn và trời thì lạnh cần lửa sưởi
ấm, Đức Giêsu bị điệu ra trước Thượng Hội Đồng, cơ quan cao nhất của Do-thái
giáo, gồm các thượng tế, kỳ mục và kinh sư. Họ tìm mọi cớ để kết án tử hình
Ngài. Ngài bị vu cáo đòi phá Đền thờ (Mc 14,58), dù thật ra Đức Giêsu chẳng bao
giờ nói mình phá Đền thờ cả (x. Ga 2,19-21). Cuối cùng, Ngài bị kết án tử (Mc
14,64) khi nói mình sẽ ngồi bên hữu Đấng Toàn Năng và đến trên mây trời (Mc
14,62; x. Tv 110,1; Danien 7,13-14). Đối với họ, nói như thế là phạm thượng, và
đó là cớ để họ kết án Đức Giêsu.
6. Phêrô chối Thầy hai lần, trước cùng một cô đầy tớ của thượng
tế. Cô này khẳng định Phêrô ở với Giêsu và thuộc nhóm Giêsu (Mc 14,67.69).
Nhưng lần nào Phêrô cũng chối. Lần thứ ba, trước lời tố cáo của những người đã
nghe cô này tố cáo, Phêrô thề độc rằng mình không hề biết Đức Giêsu (Mc 14,71).
Phêrô chối Thầy dễ dàng vì ông sợ bị liên lụy với một người đang bị bắt và kết
án. Ông đã chối Thầy ba lần trước khi gà gáy, đúng như lời Thầy tiên báo (Mc
14,30), dù trước đó ít lâu ông đã nghĩ mình có chết cũng không chối Thầy (Mc
14,31). Ông mỏng dòn hơn ông tưởng!
7. Khi trời sáng, Đức Giêsu bị điệu đến Philatô. Ông này biết
các thượng tế nộp Đức Giêsu chỉ “vì ganh tị” (Mc 15,10), chứ không phải vì Ngài
đã “làm điều gì gian ác” (Mc 15,14). Nhưng ông đã cho đóng đinh Đức Giêsu để
“chiều lòng đám đông” (Mc 15,15). Cách hành xử của Philatô rõ ràng là bất công
đối với người vô tội. Nhưng ông đã làm thế để tránh dân Do-thái nổi loạn trong
ngày đại lễ. Nếu họ nổi loạn, ông sẽ mất ghế của mình trong chính quyền Rôma. Ghế
của ông quan trọng hơn mạng một người vô tội!
8. Khi các môn đệ chạy trốn vì sợ bị liên lụy, ta thấy các phụ nữ vẫn “nhìn từ xa” cảnh Đức Giêsu chịu đóng đinh và chịu chết (Mc 15,40). Như thế họ đã theo Thầy phần nào trên đường đến nơi chịu đóng đinh. Họ là những phụ nữ đã đi theo và phục vụ Đức Giêsu từ khi Ngài còn ở Galilê, và có nhiều bà khác đã lên Giêrusalem cùng với Ngài (Mc 15,41). Họ cũng là những người chứng kiến Đức Giêsu được mai táng và để ý chỗ chôn táng (Mc 15,47). Các phụ nữ đã trung tín và can đảm ở lại với Thầy trong lúc khó khăn nhất.