WHĐ (27.06.2024) – Trong buổi Tiếp kiến chung sáng thứ Tư ngày 02.05.2012, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI tiếp tục trình bày loạt bài giáo lý về cầu nguyện với bài thứ 32: Thánh Stêphanô, vị tử đạo tiên khởi. Sau đây là toàn văn bài giáo lý của Đức Thánh Cha.
ĐỨC BÊNÊĐICTÔ XVI
Quảng trường Thánh Phêrô
Thứ Tư, 02 tháng 05 năm 2012
Anh chị em thân mến,
Trong những chương gần đây, chúng ta đã thấy trong kinh nguyện cá nhân và cộng đoàn, việc đọc và suy niệm Lời Chúa, mở ra cho chúng ta sự lắng nghe Thiên Chúa nói với chúng ta và đổ tràn ánh sáng để chúng ta hiểu hiện tại. Chương này tôi muốn nói đến tấm gương của thánh Stêphanô, một trong 7 Phó tế đầu tiên của Giáo hội, như sách Công vụ Tông đồ kể lại, vào giây phút chịu tử đạo của ngài đã cho thấy mối tương quan hiệu quả giữa Lời Chúa và việc cầu nguyện đã được minh chứng.
Thánh Stêphanô bị dẫn ra tòa án, trước Thượng Hội đồng Do Thái, vì bị cáo là đã tuyên bố “Chúa Giêsu sẽ phá hủy đền thờ và đảo lộn các tục lệ do Môsê truyền lại” (Cv 6,14). Trong cuộc sống công khai, Chúa Giêsu đã thực sự loan báo việc phá hủy Đền thờ Giêrusalem: “Các ông hãy phá hủy đền thờ này đi, nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại” (Ga 2,19). Nhưng như thánh sử Gioan nhận xét rằng: “Nhưng đền thờ Đức Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Người. Vậy, khi Người từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó, họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giêsu đã nói” (Ga 2,21-22).
Diễn từ của thánh Stêphanô trước Thượng Hội đồng Do Thái là một bài diễn văn dài nhất trong Sách Công vụ Tông đồ, và được triển khai dựa trên lời tiên tri vừa nói trên đây của Chúa Giêsu, Đấng là Đền thờ mới, khai mạc việc phụng tự mới và thay thế các hy tế cũ bằng việc dâng hiến chính mình Người trên Thập giá. Thánh Stêphanô muốn chứng tỏ sự vô căn cứ của những lời cáo buộc ngài là khuynh đảo luật Môsê và minh họa quan điểm của ngài về lịch sử cứu độ, về giao ước giữa Thiên Chúa và loài người. Thánh nhân đã đọc lại toàn bộ trình thuật Kinh Thánh, hành trình chứa đựng trong Kinh Thánh, để chứng tỏ rằng hành trình ấy dẫn đến “nơi” có sự hiện diện chung kết của Thiên Chúa chính là Đức Giêsu Kitô, đặc biệt là cuộc khổ nạn, cái chết và sự sống lại của Chúa.
Thánh Stêphanô cũng giải thích vai trò của bản thân làm môn đệ Đức Giêsu theo quan điểm ấy, ở chỗ theo Người cho đến chỗ tử đạo. Bởi vậy, việc suy niệm Kinh Thánh giúp cho thánh nhân có thể hiểu được sứ vụ của mình, đời sống của mình, các hoàn cảnh hiện tại của mình. Như thế, thánh nhân đã được ánh sáng của Thánh Thần soi dẫn, bởi mối liên hệ thân tình với Chúa, đến độ các phần tử thuộc Hội Đồng Do Thái thấy rằng dung nhan của thánh nhân “như thể dung nhan của một thiên thần” (Cv 6,15). Dấu hiệu của ơn trợ giúp thần linh này gợi lại dung nhan rạng ngời của Môsê khi ông xuống Núi Sinai sau cuộc hội ngộ cùng Thiên Chúa (x. Xh 34,29-35; 2Cr 3,7-8).
Trong bài nói của mình, thánh Stêphanô bắt đầu bằng ơn gọi của Ápraham, một khách lữ hành đi đến một miền đất được Thiên Chúa ấn định, nơi ông đã chiếm hữu như là một lời hứa mà thôi; sau đó ngài tiến sang Giuse, người bị anh em mình bán nhưng đã được Thiên Chúa hỗ trợ và giải thoát, sau cùng đến Môsê, vị đã trở thành dụng cụ của Thiên Chúa trong việc giải phóng dân Ngài nhưng đồng thời cũng là vị nhiều lần bị dân ấy loại trừ. Cái xuất phát từ những biến cố ấy được Kinh Thánh thuật lại, những biến cố cho thấy việc sốt sắng lắng nghe của thánh Stêphanô, đó là Thiên Chúa, Đấng không bao giờ ngừng tiến tới với con người, cho dù Ngài thường đụng phải tình trạng chống đối cứng lòng, và đó là những gì chân thực trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Bởi thế, ngài thấy toàn thể Cựu Ước là tiền thân cho việc xuất hiện của chính Đức Giêsu, Con Thiên Chúa hóa thành nhục thể, Đấng – như các vị cha ông xưa – cũng gặp phải các thứ trở ngại, chối bỏ và chết chóc. Vì thế, thánh Stêphanô nói đến Giosuê, đến Đavít và đến Salômôn, những con người có liên hệ tới việc xây dựng đền thờ, và ngài kết luận bằng những lời của ngôn sứ Isaia (Is 66,1-2): “Chúa phán: Trời là ngai của Ta, còn đất là bệ dưới chân Ta. Các ngươi sẽ xây cho Ta nhà nào, và nơi nào, sẽ là chốn Ta nghỉ ngơi? Chẳng phải chính tay Ta đã làm nên mọi sự ấy sao?” (Cv 7,49-50).
Trong việc suy niệm của mình về tác động của Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ, bằng việc nhấn mạnh đến chước cám dỗ thiên thu bất tận là loại trừ Thiên Chúa và hành động của Thiên Chúa, ngài khẳng định rằng Đức Giêsu là Đấng Công Chính được các ngôn sứ đã loan báo; nơi Người, chính Thiên Chúa đã tỏ mình ra hiện diện một cách đặc thù và vĩnh viễn: Đức Giêsu là “nơi chốn” thờ phượng đích thực. Thánh Stêphanô không chối bỏ tầm quan trọng của đền thờ qua một thời gian nào đó, nhưng thánh nhân đã nhấn mạnh rằng: “Đấng Tối Cao không ở trong những ngôi nhà do tay người phàm làm ra” (Cv 7,48).
Đền thờ mới đích thực, nơi Thiên Chúa ngự trị đó chính là Con của Người, Đấng đã mặc lấy xác phàm; chính nhân tính của Chúa Kitô, Đấng Phục Sinh, đã quy tụ các dân nước lại và liên kết họ nơi bí tích Mình Máu Thánh Người. Câu nói đền thờ “không do tay người phàm làm ra” cũng được thấy nơi thần học của thánh Phaolô, cũng như nơi Thư gửi tín hữu Do Thái; thân thể Đức Giêsu, một thân thể Người đã mặc lấy để hiến mình như một hy lễ đền tội, thân thể của Đức Giêsu chính là đền thờ mới của Thiên Chúa, nơi hiện diện của Thiên Chúa hằng sống; trong Đức Kitô, Thiên Chúa và loài người, Thiên Chúa và thế gian thực sự giao hòa với nhau: Đức Giêsu nhận lấy nơi mình tất cả tội lỗi của nhân loại để ném vào tình yêu của Thiên Chúa cũng như để “làm bùng cháy” trong tình yêu này. Đến với Thập giá, đi vào mối hiệp thông với Đức Kitô, nghĩa là đi vào sự biến đổi này. Đó là bước vào mối liên hệ với Thiên Chúa, bước vào đền thờ đích thực.
Sự sống và những lời nói của thánh Stêphanô đột nhiên bị ngắt quãng khi ngài bị ném đá, thế nhưng cuộc tử đạo của ngài đã hoàn tất đời sống và sứ điệp của ngài: thánh nhân đã trở nên một với Đức Kitô, việc suy niệm của ngài về tác động của Thiên Chúa trong lịch sử, về Lời hằng sống, lời được nên trọn nơi Đức Giêsu, được dự phần vào cùng lời nguyện cầu của Thập giá. Quả thật, trước khi trút hơi thở cuối cùng, thánh nhân đã kêu lên rằng: “Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con” (Cv 7,59), những lời thánh nhân đã lặp lại Thánh vịnh 31 (Tv 31,6), và bắt chước những lời cuối cùng Đức Giêsu trên Thập giá: “Lạy Cha, Con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46). Sau hết, như Đức Giêsu, thánh Stêphanô đã kêu lớn tiếng trước mặt những kẻ đang ném đá mình: “Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này” (Cv 7,60). Chúng ta cần lưu ý rằng, nếu như lời cầu nguyện này của thánh Stêphanô phản ảnh lời cầu nguyện của Đức Giêsu, thì nó được ngỏ cùng một người nào khác, vì lời nguyện cầu này được ngỏ cùng Chúa; đó là Đức Giêsu, Đấng mà Stêphanô chiêm ngưỡng thấy hiển vinh ở bên hữu Chúa Cha: “Kìa, tôi thấy trời mở ra, và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa” (Cv 7,55).
Anh chị em thân mến, chứng tá của thánh Stêphanô mang lại cho chúng ta một số chỉ dẫn về việc cầu nguyện và cuộc sống của chúng ta. Chúng ta có thể tự hỏi: từ đâu mà vị tử đạo đầu tiên kín múc được sức mạnh để đương đầu với những người bách hại Ngài và đạt tới sự hiến chính mạng sống mình như vậy? Câu trả lời thật đơn giản: thưa từ quan hệ của Ngài với Thiên Chúa, từ sự hiệp thông của thánh nhân với Chúa Kitô, từ sự suy niệm về lịch sử cứu độ, từ việc nhìn thấy hoạt động của Thiên Chúa, đạt tới tột đỉnh trong Chúa Giêsu Kitô. Cả kinh nguyện của chúng ta cũng phải được nuôi dưỡng bằng việc lắng nghe Lời Chúa, trong sự hiệp thông với Chúa Giêsu và Giáo hội của Người.
Một yếu tố thứ hai nữa, thánh Stêphanô thấy báo trước hình ảnh và sứ vụ của Chúa Giêsu, trong lịch sử tương quan yêu thương giữa Thiên Chúa và loài người. Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, là Đền thờ không do tay con người làm ra, trong đó sự hiện diện của Thiên Chúa Cha trở nên gần gũi đến độ đi vào trong xác thể của chúng ta để đem Thiên Chúa cho chúng ta, để mở cửa trời cho chúng ta. Vì thế, kinh nguyện của chúng ta phải là một sự chiêm ngắm Chúa Giêsu ngự bên hữu Chúa Cha, Đức Giêsu như là Chúa tể đời sống hằng ngày của tôi. Nơi Người, dưới sự hướng dẫn của Thánh Linh, cả chúng ta cũng có thể thân thưa với Thiên Chúa, kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa, với lòng tín thác con thảo, ngỏ lời với một người Cha yêu thương vô biên.
Trích từ: Tác phẩm "Cầu nguyện" của Đức Bênêđictô XVI