WHĐ (25.06.2024) – Trong buổi Tiếp kiến chung sáng thứ Tư ngày 18.04.2012, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI tiếp tục trình bày loạt bài giáo lý về cầu nguyện với bài thứ 30: Cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi. Sau đây là toàn văn bài giáo lý của Đức Thánh Cha.
ĐỨC BÊNÊĐICTÔ XVI
Quảng trường Thánh Phêrô
Thứ Tư, 18 tháng 04 năm 2012
Anh chị em thân mến,
Trong chương trước, chúng ta đã dừng lại ở hình ảnh Đức Trinh Nữ Maria, hiện diện giữa các Tông đồ trong cầu nguyện lúc mong chờ Chúa Thánh Thần ngự đến. Một bầu khí cầu nguyện đi kèm theo những bước đầu tiên của Giáo hội. Lễ Hiện Xuống không phải là một biến cố cô lập, vì sự hiện diện và hoạt động của Chúa Thánh Thần hướng dẫn và làm sinh động một cách liên tục hành trình của cộng đoàn Kitô hữu.
Quả thật, trong Sách Công vụ Tông đồ, thánh Luca, không những nói về việc hiện xuống cả thể của Chúa Thánh Thần xảy ra trong Nhà Tiệc Ly năm mươi ngày sau lễ Vượt Qua (x. Cv 2,1-13), mà còn trình thuật về những cuộc hiện xuống đặc biệt khác của Chúa Thánh Thần, Đấng trở lại trong lịch sử của Giáo hội. Và hôm nay tôi muốn dừng lại ở điều đã được gọi là “Lễ Hiện Xuống nhỏ” (little Pentecost), xảy ra ở sau một giai đoạn khó khăn trong đời sống Giáo hội thời sơ khai.
Sách Công vụ Tông đồ cho chúng ta biết rằng, sau khi chữa lành một người bất toại ở đền thờ Giêrusalem (x. Cv 3,1-10), thánh Phêrô và thánh Gioan đã bị bắt (Cv 4,1) vì đã rao giảng Đức Giêsu Phục Sinh cho toàn thể dân chúng (x. Cv 3,11-26). Sau một phiên tòa ngắn, các ngài đã được trả tự do, các ngài đến cùng các anh em mình và cho họ biết các ngài đã phải chịu đau khổ vì làm chứng về việc Đức Giêsu Phục Sinh như thế nào. Vào lúc ấy, thánh Luca kể, “họ cùng nhau một lòng dâng lời lên cùng Thiên Chúa” (Cv 4,24). Ở đây thánh Luca ghi lại lời cầu nguyện rất phong phú của Giáo hội mà chúng ta tìm thấy trong Tân Ước, ở cuối lời cầu nguyện đó, như chúng ta đã được nghe, “nơi mà họ đã đang tụ họp cùng nhau bị rung chuyển, và tất cả đều được đầy Thánh Thần, cùng mạnh dạn công bố Lời Chúa” (Cv 4,31).
Trước khi xét đến lời cầu nguyện xinh đẹp này, chúng ta ghi nhận một thái độ quan trọng căn bản: trước sự nguy hiểm, khó khăn, đe dọa, các Kitô hữu của cộng đoàn tiên khởi không cố gắng phân tích xem phải phản ứng ra sao, tìm các chiến thuật nào, phải tự bảo vệ hay dùng biện pháp nào, nhưng trước thử thách họ bắt đầu trong cầu nguyện, tiếp xúc với Thiên Chúa.
Và lời cầu nguyện này có đặc tính gì? Đây là một lời cầu nguyện thống nhất và đồng tâm nhất trí của toàn thể cộng đoàn, phải đối diện với một hoàn cảnh bị bách hại vì Đức Giêsu. Trong bản Hy Lạp nguyên thủy, thánh Luca đã sử dụng từ “homothumadon” (tất cả cùng nhau; đồng tâm nhất trí), một thuật ngữ xuất hiện trong các phần khác của Sách Công vụ Tông đồ để nhấn mạnh về lời cầu nguyện kiên trì và thống nhất này (x. Cv 1,14; 2,46).
Sự đồng tâm nhất trí này là yếu tố quan trọng của cộng đoàn tiên khởi và luôn luôn là điều căn bản của Giáo hội. Khi ấy, nó không những chỉ là lời cầu nguyện của thánh Phêrô và thánh Gioan, là những vị đã thấy mình gặp nguy hiểm, nhưng của cả cộng đoàn, vì kinh nghiệm của hai Tông đồ không chỉ lien quan đến các ngài, nhưng đến toàn thể Giáo hội.
Đối diện với cuộc bách hại vì Đức Giêsu, cộng đoàn không những không sợ hãi và không bị phân chia, nhưng hiệp nhất một cách sâu xa trong cầu nguyện, họ hành động như một người để kêu cầu cùng Chúa. Tôi có thể nói rằng đây là phép lạ đầu tiên xảy ra khi các tín hữu bị thử thách vì đức tin của mình: sự hiệp nhất được tăng cường, thay vì bị tổn thương, bởi vì được hỗ trợ bằng việc kiên tâm cầu nguyện. Giáo hội không cần phải sợ sự bách hại là điều cần phải trải qua trong lịch sử của mình, nhưng luôn luôn tín thác, như Đức Giêsu trong vườn Cây Dầu, trong sự hiện diện, sự giúp đỡ và quyền năng của Thiên Chúa, được cầu khẩn trong cầu nguyện.
Hãy tiến thêm một bước nữa: cộng đoàn Kitô hữu xin Thiên Chúa điều gì trong lúc thử thách này? Họ không xin Người sự an toàn của đời sống trước cơn bách hại, hoặc xin Chúa trả thù những kẻ đã bắt giữ thánh Phêrô và thánh Gioan, nhưng chỉ xin Thiên Chúa cho phép họ “rao giảng với hết lòng can trường” Lời Chúa (x. Cv 4,29), có nghĩa là xin Người vui lòng đừng để họ mất lòng can đảm về đức tin, lòng can đảm tuyên xưng đức tin. Nhưng trước đó, họ tìm cách hiểu sâu xa hơn những gì đã xảy ra, cố gắng đọc các biến cố theo ánh sáng đức tin và làm cho nó thành của riêng mình qua Lời Chúa, điều làm cho chúng ta giải đoán được thực tại của thế giới.
Trong lời cầu nguyện dâng lên Chúa từ cộng đoàn để nhớ lại và cầu khẩn sự cao cả và bao la của Thiên Chúa: “Lạy Chúa, Ngài là Ðấng tạo thành trời đất với biển khơi cùng muôn loài trong đó” (Cv 4,24). Đây là lời cầu khẩn Đấng Tạo Hóa, chúng ta biết rằng, tất cả mọi sự đều đến từ Người, rằng tất cả mọi sự đều ở trong tay Người. Chính trong ý thức này mà chúng ta tìm thấy sự chắc chắn và lòng can đảm: tất cả mọi sự đều đến từ Người, tất cả mọi sự đều ở trong tay Người.
Sau đó, họ nhận ra Thiên Chúa đã hành động trong lịch sử thế nào – cho nên họ bắt đầu với việc tạo dựng và tiếp tục trong lịch sử - Thiên Chúa gần gũi với dân Người thế nào để tỏ mình là một Thiên Chúa quan tâm đến loài người, không ngưng nghỉ và không bỏ rơi loài người, thụ tạo của Thiên Chúa. Và ở đây họ nhắc đến Thánh vịnh 2 một cách rõ ràng, được đọc trong ánh sáng của hoàn cảnh khó khăn mà Giáo hội đang sốngvào thời điểm ấy.
Thánh vịnh 2 mừng lễ đăng quang của vua nước Giuđa, nhưng nó được đề cập đến một cách tiên tri, về việc Đấng Mêsia ngự đến, mà không cuộc nổi loạn, bách hại, hay ngược đãi nào của loài người có thể làm được gì để chống lại Người: “Ngài là Đấng đã nhờ Thánh Thần, dùng miệng Tổ phụ chúng con là Đavít, tôi trung của Ngài, mà phán: Sao chư dân lại ồn ào náo động, sao vạn quốc dám bày kế viển vông?” (Cv 4,25).
Thánh vịnh đã nói về điều này, một cách tiên tri, về đề tài Đấng Cứu Thế và cuộc nổi loạn ấy chống lại quyền năng cao cả của Thiên Chúa, là điều đặc trưng trong suốt lịch sử. Chỉ bằng cách đọc Kinh Thánh, là Lời Chúa, cộng đoàn có thể thưa cùng Thiên Chúa trong kinh nguyện của mình: “Đúng vậy, Hêrôđê, Phongxiô Philatô, cùng với chư dân và dân Israel đã toa rập trong thành này, chống lại tôi tớ thánh của Ngài là Đức Giêsu, Đấng Ngài đã xức dầu” (Cv 4,27).
Các biến cố được đọc trong ánh sáng của Đức Kitô, Đấng là chìa khóa để hiểu ngay cả việc bách hại, và trong ánh sáng của Thập giá, điều luôn là chìa khóa để hiểu biến cố Phục Sinh. Việc chống lại Đức Giêsu, cuộc khổ nạn và cái chết của Người, được đọc lại qua Thánh vịnh 2, như việc thực hiện kế hoạch của Chúa Cha để cứu độ trần gian. Và đây là ý nghĩa của kinh nghiệm về cuộc bách hại mà cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi đã trải qua. Cộng đoàn tiên khởi này không đơn thuần chỉ là một hội đoàn, nhưng một cộng đoàn sống trong Đức Kitô. Điều xảy ra cho Người là một phần của kế hoạch của Thiên Chúa. Như điều ấy đã xảy ra cho Đức Giêsu thế nào, thì các môn đệ cũng gặp phải sự chống đối, hiểu lầm và bách hại như thế. Trong cầu nguyện, việc suy niệm về Lời Chúa theo ánh sáng của mầu nhiệm Đức Kitô, giúp chúng ta đọc thực trạng hiện nay trong lịch sử cứu độ mà Thiên Chúa thực hiện trong thế gian, luôn luôn theo cách của Người.
Đó chính là lý do tại sao lời cầu xin mà cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi ở Giêrusalem đã công thức hóa để thưa cùng Thiên Chúa khi cầu nguyện không phải là xin được bảo vệ, được thoát khỏi cơn thử thách và đau khổ, đó cũng không phải cầu xin cho thành công, nhưng chỉ để công bố Lời Chúa một cách dũng cảm (parrhesía), nghĩa là mạnh dạn thẳng thắn, với sự tự do, với lòng can đảm (x. Cv 4,29).
Rồi họ xin thêm rằng việc công bố này được kèm theo bởi bàn tay Thiên Chúa đã thực hiện các việc chữa lành, các dấu lạ và các việc kỳ diệu (Cv 4,30), nghĩa là để cho người ta thấy sự tốt lành của Thiên Chúa, như một động lực có thể biến đổi thực tại, đổi mới tâm can, đổi mới cuộc sống con người, và mang lại sự mới mẻ hoàn toàn của Tin Mừng.
Ở cuối lời cầu nguyện, thánh sử Luca viết: “Họ cầu nguyện xong, thì nơi họ họp nhau rung chuyển; ai nấy đều được tràn đầy Thánh Thần và bắt đầu mạnh dạn nói lời Thiên Chúa” (Cv 4,31); nơi ấy bị rung chuyển, có nghĩa là đức tin có sức mạnh biến đổi trái đất và thế giới. Chúa Thánh Thần, Đấng đã nói qua Thánh vịnh 2, trong lời cầu nguyện của Giáo hội, đã tràn vào nhà và đổ đầy tâm hồn tất cả những ai kêu cầu Chúa. Đó là kết quả của lời cầu nguyện mà cộng đoàn Kitô hữu dâng lên Thiên Chúa: sự tuôn đổ Thánh Thần, hồng ân của Đấng Phục Sinh, Đấng đã nâng đỡ và hướng dẫn việc công bố Lời Chúa cách tự do và can đảm, Đấng thúc đẩy các môn đệ của Chúa đi ra đem Tin Mừng đến tận cùng trái đất mà không hề sợ hãi chi.
Anh chị em thân mến, chúng ta cũng thế, chúng ta phải biết đem các biến cố của cuộc sống hàng ngày của mình vào trong lời cầu nguyện, để tìm kiếm ý nghĩa sâu xa hơn của chúng. Và như cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, chúng ta cũng hãy để cho mình được Lời Chúa sáng soi. Qua việc suy niệm Lời Chúa, chúng ta có thể nhận biết rằng Thiên Chúa đang hiện diện trong cuộc đời ta, và cũng hiện diện trong những lúc khó khăn, và rằng tất cả mọi sự - kể cả những điều không thể hiểu được - là một phần của một kế hoạch yêu thương cao cả hơn, trong đó chiến thắng đích thực cuối cùng trên sự dữ, tội lỗi và cái chết, đó là lòng thương xót, ân sủng và sự sống của Thiên Chúa.
Cũng như cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, việc cầu nguyện giúp ta đọc lịch sử cá nhân và tập thể của mình trong một viễn tượng công bằng hơn và trung tín hơn, đó là viễn tượng của Thiên Chúa. Và chúng ta cũng muốn đổi mới lời cầu nguyên của mình bằng cách cầu xin hồng ân Chúa Thánh Thần, để hồng ân này sưởi ấm lòng chúng ta cùng soi sáng tâm trí chúng ta để nhận ra Thiên Chúa đáp lại lời cầu xin của chúng ta theo ý muốn yêu thương của Ngài như thế nào, chứ không theo ý tưởng của chúng ta.
Được dẫn dắt bởi Thần Khí của Đức Giêsu Kitô, chúng ta sẽ có thể sống với lòng thanh thản, can đảm, và niềm vui trong tất cả mọi hoàn cảnh của cuộc đời, và chúng ta có thể cùng với Thánh Phaolô khoe khoang rằng: “những gian khổ, khi biết rõ rằng gian khổ tạo ra kiên nhẫn, và kiên nhẫn đưa đến chịu đựng, và chịu đựng đưa đến hy vọng”: Hy vọng này “không làm chúng ta thất vọng, vì tình yêu của Thiên Chúa đã được đổ vào tâm hồn chúng ta, qua Chúa Thánh Thần mà Người đã ban cho chúng ta” (Rm 5,3-5).
Trích từ: Tác phẩm "Cầu nguyện" của Đức Bênêđictô XVI