GIÁO LÝ CHO BÀI GIẢNG
(Theo hướng dẫn của Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí
tích)
LỄ CHÚA PHỤC SINH
WHĐ (08.4.2023) - Để hỗ trợ các nhà giảng thuyết thuận tiện hơn trong việc thêm giáo lý vào bài giảng, Ban Biên tập xin được trích dẫn những điểm giáo lý phù hợp với các bài đọc Kinh Thánh của các lễ Chúa nhật, lễ trọng theo sự theo hướng dẫn của Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích trong Tập sách Hướng dẫn giảng thuyết được công bố qua Sắc lệnh ký ngày 29.06.2014.
Số 638-655, 989, 1001-1002: Sự Phục Sinh của Đức
Kitô và sự phục sinh của chúng ta
638. “Chúng
tôi xin loan báo cho anh em Tin Mừng này: điều Thiên Chúa hứa với cha ông chúng
ta, thì Ngài đã thực hiện cho chúng ta là con cháu các ông, khi làm cho Chúa
Giêsu sống lại” (Cv l3,32-33). Sự Sống Lại của Chúa Giêsu là chân lý cao cả
nhất của đức tin chúng ta vào Đức Kitô, với tính cách là một chân lý trung tâm
đã được tin và thể hiện trong cuộc sống bởi cộng đoàn Kitô giáo tiên khởi, đã
được lưu truyền bởi Thánh Truyền như chân lý nền tảng, đã được xác lập bởi các
văn kiện của Tân Ước, và được rao giảng, đồng thời cùng với thập giá, như là phần
thiết yếu của mầu nhiệm Vượt Qua:
“Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết,
Nhờ cái Chết của Người, Người đã chiến thắng sự
chết,
Người đã ban sự sống cho những kẻ đã chết”[1].
639. Mầu
nhiệm của sự Sống lại của Đức Kitô là một biến cố có thật, với những cuộc tỏ hiện
đã được kiểm chứng theo lịch sử, như Tân Ước làm chứng. Khoảng năm 56, thánh
Phaolô đã có thể viết cho tín hữu Côrintô: “Trước hết, tôi đã truyền lại cho
anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là: Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng
ta đúng như lời Kinh Thánh, rồi Người đã được mai táng, và ngày thứ ba đã sống
lại, đúng như lời Kinh Thánh. Ngươi đã hiện ra với ông Kêpha, rồi với nhóm Mười
Hai” (1 Cr l5,3-4). Ở đây vị Tông Đồ nói đến truyền thống sống động về sự Sống lại mà ngài đã học được sau cuộc hối cải của ngài ở
cổng thành Đamas[2].
Ngôi
mộ trống
640. “Sao
các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết? Người không còn đây nữa, nhưng đã sống
lại rồi” (Lc 24,5-6). Trong các biến cố Vượt Qua, yếu tố đầu tiên mà ta gặp là
ngôi mộ trống. Tự nó, điều này không phải là một bằng chứng trực tiếp. Việc
thân thể Đức Kitô không còn trong mộ có thể được giải thích cách khác[3]. Dầu
vậy, ngôi mộ trống vẫn là một dấu chỉ căn bản đối với mọi người. Việc phát hiện
ngôi mộ trống là bước đầu dẫn các môn đệ đến việc nhìn nhận chính sự kiện Sống
lại. Trước hết đó là trường hợp của các phụ nữ thánh thiện[4], rồi
đến ông Phêrô[5]. Người
môn đệ “Chúa Giêsu thương mến” (Ga 20,2), khi vào trong mộ và thấy “những băng
vải để ở đó” (Ga 20,6), khẳng định rằng ông đã thấy và đã tin[6]. Điều
này giả thiết rằng khi thấy ngôi mộ trống[7] ông
đã nhận ra rằng việc thân thể Chúa Giêsu không còn đó không phải là một việc do
người phàm và Chúa Giêsu đã không đơn thuần trở lại cuộc sống trần thế như trường
hợp anh Lazarô[8].
Những
lần hiện ra của Đấng Phục Sinh
641. Bà
Maria Magđalêna và các phụ nữ thánh thiện, những người đã đến để hoàn thành việc
xức dầu cho thân thể của Chúa Giêsu[9], vốn
được mai táng cách vội vã vào chiều ngày Thứ Sáu vì đã đến ngày sabat[10], là
những người đầu tiên được gặp Đấng Phục Sinh[11]. Như
vậy, các phụ nữ là những sứ giả đầu tiên loan báo sự sống lại của Đức Kitô cho
chính các Tông Đồ[12]. Sau
đó Chúa Giêsu hiện ra với các ông, trước hết là với ông Phêrô, sau đó với nhóm
Mười Hai[13]. Vì
vậy ông Phêrô, người đã được kêu gọi để củng cố đức tin của các anh em mình[14], đã
thấy Đấng Phục Sinh trước các anh em và dựa trên chứng từ của ông mà cộng đoàn
kêu lên: “Chúa đã sống lại thật rồi, và đã hiện ra với ông Simon”
(Lc 24,34).
642. Tất
cả những gì đã xảy ra trong những ngày lễ Vượt Qua đó, đòi buộc mỗi vị Tông Đồ,
đặc biệt là ông Phêrô, xây dựng một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên đã bắt đầu từ sáng
ngày Vượt Qua. Với tư cách là những chứng nhân của Đấng Phục Sinh, các ngài mãi
là những tảng đá nền móng của Hội Thánh Người. Đức tin của cộng đoàn các tín hữu
tiên khởi được xây dựng trên lời chứng của những con người cụ thể mà các Kitô hữu
quen biết và phần đông lúc đó còn sống giữa họ. “Những chứng nhân về cuộc Phục
Sinh của Đức Kitô”[15] trước
hết là ông Phêrô và Nhóm Mười Hai, nhưng không chỉ có các vị ấy: ông Phaolô nói
đến hơn năm trăm người đã được Chúa Giêsu hiện ra một lượt, rồi với ông Giacôbê
và với tất cả các Tông Đồ[16].
643. Trước
những lời chứng đó, không thể giải thích rằng sự phục sinh của Đức Kitô nằm bên
ngoài trật tự thể lý, và không thể không công nhận sự phục sinh đó có tính cách
là một sự kiện lịch sử. Qua các sự kiện, người ta thấy rõ là đức tin của các
môn đệ đã bị lung lay tận gốc do cuộc khổ nạn và cái Chết trên thập giá của Thầy
họ, mà chính Người đã báo trước[17]. Sự
chấn động tâm hồn do cuộc khổ nạn gây nên là mạnh mẽ đến nỗi các môn đệ (hoặc
ít nhất một số người trong họ) không tin ngay lời loan báo về việc Sống Lại.
Các sách Tin Mừng không hề trình bày cho chúng ta thấy một cộng đoàn đầy hứng
khởi thần bí; nhưng cho chúng ta thấy những môn đệ mất tinh thần (“buồn rầu”:
Lc 24,17) và hoảng sợ[18]. Vì
vậy họ đã không tin các phụ nữ thánh thiện từ ngôi mộ trở về, và những lời của
các bà, họ “cho là chuyện vớ vẩn” (Lc 24,11)[19]. Khi
Chúa Giêsu hiện ra với Nhóm Mười Một chiều ngày Vượt Qua, “Người khiển trách
các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được
thấy Người, sau khi Người sống lại” (Mc 16,14).
644. Các
môn đệ, cả khi đứng trước thực tại Chúa Giêsu phục sinh, vẫn còn nghi ngờ[20]; đối
với các ông, coi như không thể nào có việc ấy: họ tưởng là thấy ma[21],
“các ông còn chưa tin vì mừng quá, và còn đang ngỡ ngàng” (Lc 24,41). Ông Tôma
cũng đã nghi ngờ như vậy[22], và
trong dịp hiện ra lần cuối cùng mà sách Matthêu thuật lại, “có mấy ông lại hoài
nghi” (Mt 28,17). Vì vậy, giả thuyết cho rằng sự Phục Sinh là “sản phẩm” của
lòng tin (hay sự dễ tin) của các Tông Đồ, không có cơ sở. Hoàn toàn trái lại, đức
tin của các ông vào sự Phục Sinh phát xuất từ kinh nghiệm trực tiếp về thực tại
Chúa Giêsu sống lại, dưới tác động của ân sủng của Thiên Chúa.
Trạng
thái nhân tính đã phục sinh của Đức Kitô
645. Chúa
Giêsu phục sinh liên hệ trực tiếp với các môn đệ của Người qua đụng chạm[23] và
qua việc chia sẻ thực phẩm[24]. Như
vậy, Người mời gọi họ nhìn nhận Người không phải là ma[25],
nhưng nhất là để các ông thấy rõ rằng thân thể phục sinh của Người đang hiện diện
với các ông, chính là thân thể đã bị hành hạ và bị đóng đinh vào thập giá, bởi
vì thân thể đó vẫn còn mang các dấu vết của cuộc khổ nạn của Người[26]. Tuy
nhiên, thân thể đích thực và hiện thực này đồng thời có những đặc tính mới của
một thân thể vinh hiển: thân thể đó không còn bị ràng buộc trong không gian và
thời gian nữa, nhưng có thể tự do hiện diện ở đâu và lúc nào Người muốn[27], bởi
vì nhân tính của Người không còn có thể bị ràng buộc ở trần thế nữa và chỉ thuộc
về quyền năng thần linh của Chúa Cha[28].
Cũng vì vậy, Chúa Giêsu phục sinh hoàn toàn tự do để hiện ra như Người muốn: dưới
hình dạng một người làm vườn[29] hoặc
“dưới một hình dạng khác” (Mc 16,12), không giống hình dạng các môn đệ đã quen,
chính là để khơi dậy đức tin của các ông[30].
646. Sự
Phục Sinh của Đức Kitô không phải là việc trở lại với cuộc sống trần thế, giống
như trường hợp của những kẻ Người đã cho sống lại trước cuộc Vượt Qua: con gái
ông Giairô, người thanh niên Naim, anh Lazarô. Các sự kiện này là những biến cố
kỳ diệu, nhưng những người được hưởng phép lạ đó, nhờ quyền năng của Chúa
Giêsu, chỉ trở lại với cuộc sống trần thế “thông thường”. Một lúc nào đó họ sẽ
lại chết. Sự phục sinh của Đức Kitô thì hoàn toàn khác hẳn. Trong thân thể phục
sinh của Người, Người chuyển từ trạng thái phải chết sang một sự sống khác vượt
trên thời gian và không gian. Thân thể của Chúa Giêsu trong sự Phục Sinh đầy
tràn quyền năng của Chúa Thánh Thần; thân thể này tham dự vào sự sống thần linh
trong trạng thái vinh quang của Người, đến độ thánh Phaolô đã có thể nói Đức
Kitô là một người thiên giới[31].
Sự Phục
Sinh xét như một biến cố siêu việt
647. Thánh
thi Exultet trong đêm Canh thức Vượt Qua hát: “Ôi! Đêm
thật diễm phúc, đêm duy nhất biết được thời giờ Đức Kitô từ cõi chết phục sinh”[32]. Thật
vậy, không ai chứng kiến tận mắt chính biến cố Phục Sinh và không một tác giả
sách Tin Mừng nào mô tả biến cố đó. Không ai có thể nói sự Phục Sinh đã xảy ra
về mặt thể lý như thế nào. Bản chất thâm sâu nhất của biến cố đó, tức là sự
chuyển qua một cuộc sống khác, lại càng khó nhận biết bằng giác quan. Sự Phục
Sinh, một biến cố lịch sử có thể được xác nhận bằng dấu chỉ là ngôi mộ trống và
bằng thực tại là những lần gặp gỡ của các Tông Đồ với Đức Kitô phục sinh, vẫn
mãi nằm trong trung tâm của mầu nhiệm đức tin, vì biến cố đó siêu việt và vượt
hẳn trên lịch sử. Chính vì vậy, Đức Kitô phục sinh không tỏ mình ra cho thế gian[33],
nhưng cho các môn đệ của Người, “những kẻ từng theo Người từ Galilê lên
Giêrusalem. Giờ đây chính họ làm chứng cho Người trước mặt dân” (Cv 13,31).
Sự phục
sinh, công trình của Ba Ngôi Chí Thánh
648. Sự
Phục Sinh của Đức Kitô là đối tượng của đức tin, vì đó là sự can thiệp siêu việt
của chính Thiên Chúa trong công trình tạo dựng và trong lịch sử. Trong biến cố
này, Ba Ngôi Thiên Chúa vừa cùng hoạt động chung, vừa biểu lộ tính cách riêng
biệt của mỗi Ngôi. Sự Phục Sinh được thực hiện do quyền năng của Chúa Cha, Đấng
“đã làm sống lại” (Cv 2,24) Đức Kitô, Con của Ngài, và bằng cách đó, Chúa Cha
đưa nhân tính của Người, cùng với thân thể của Người, vào Ba Ngôi một cách hoàn
hảo. Chúa Giêsu được mạc khải một cách vĩnh viễn là “Đấng đã từ cõi chết sống lại
nhờ Thánh Thần, Người đã được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng” (Rm
1,4). Thánh Phaolô nhấn mạnh đến việc Thiên Chúa biểu lộ quyền năng[34] qua
hoạt động của Chúa Thánh Thần, Đấng làm cho nhân tính đã chết của Chúa Giêsu được
sống lại và kêu gọi nhân tính đó vào trạng thái vinh hiển của Chúa.
649. Ve
phần Chúa Con, Người thực hiện việc Phục Sinh của chính mình bằng sức mạnh của
quyền năng thần linh của mình. Chúa Giêsu loan báo rằng Con Người sẽ phải chịu
đau khổ, chịu chết rồi sống lại (động từ với nghĩa chủ động[35]).
Nơi khác, Người xác quyết cách minh nhiên: “Tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy
lại…. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy” (Ga 10,17-18).
“Chúng ta tin rằng Chúa Giêsu đã chết và đã sống lại” (1 Tx 4,14).
650. Các
Giáo phụ chiêm ngắm sự Phục Sinh, khởi từ Ngôi Vị thần linh của Đức Kitô, Ngôi
Vị này vẫn kết hợp với linh hồn Người và thân thể Người, khi hai phần đã bị
tách biệt bởi cái chết: “Nhờ sự duy nhất của bản tính Thiên Chúa hiện diện ở cả
hai phần của con người, nên hai phần bị chia lìa và tách biệt, lại được tái hợp
và liên kết với nhau. Như vậy sự chết là do sự tách rời những phần vốn kết hợp,
còn sự Phục Sinh là do sự kết hợp các phần bị tách rời”[36].
Ý
nghĩa và ảnh hưởng cứu độ của sự phục sinh
651. “Nếu
Đức Kitô đã không sống lại, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức
tin của anh em cũng trống rỗng” (1 Cr 15,14). Trước hết, sự Phục Sinh tạo nên
việc xác nhận tất cả những gì chính Đức Kitô đã làm và đã giảng dạy. Tất cả các
chân lý, kể cả những chân lý mà tâm trí nhân loại không thể đạt tới, đều được
biện minh, một khi Đức Kitô phục sinh đưa ra lý chứng tối hậu, mà Người đã hứa,
về thẩm quyền thần linh của Người.
652. Sự
phục sinh của Đức Kitô là việc hoàn thành những lời hứa của Cựu Ước[37] và
của chính Chúa Giêsu trong cuộc đời trần thế của Người[38]. Kiểu
nói “đúng như lời Thánh Kinh”[39] nêu
rõ rằng sự phục sinh của Đức Kitô đã hoàn thành các lời tiên báo này.
653. Chân
lý về thần tính của Chúa Giêsu được xác nhận bằng sự
phục sinh của Người. Người đã nói: “Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy
giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu” (Ga 8,28). Sự phục sinh của Đấng bị đóng
đinh chứng minh rằng Người thật sự là “Đấng Hằng Hữu”, là Con Thiên Chúa và là
chính Thiên Chúa. Thánh Phaolô đã có thể tuyên bố với người Do thái: “Chúng tôi
xin loan báo cho anh em Tin Mừng này: điều Thiên Chúa hứa với cha ông chúng ta,
thì Ngài đã thực hiện cho chúng ta là con cháu các ngài, khi làm cho Chúa Giêsu
sống lại, đúng như lời đã chép trong thánh vịnh thứ hai: Con là Con của Cha,
ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con” (Cv 13,32-33)[40]. Sự
Phục Sinh của Đức Kitô được liên kết chặt chẽ với mầu nhiệm Nhập Thể của Con
Thiên Chúa. Sự phục sinh là việc hoàn thành mầu nhiệm này theo kế hoạch vĩnh cửu
của Thiên Chúa.
654. Trong
mầu nhiệm Vượt Qua có hai khía cạnh: Đức Kitô, nhờ sự Chết của Người, giải
thoát chúng ta khỏi tội lỗi, nhờ sự Phục Sinh của Người, mở đường cho chúng ta
tiến vào cuộc sống mới. Trước hết, đây là sự công chính hoá, phục hồi chúng ta trong ân sủng của Thiên Chúa[41], để
“cũng như Đức Kitô đã được sống lại từ cõi chết…, thì chúng ta cũng được sống một
đời sống mới” (Rm 6,4). Đời sống mới này cốt tại việc chiến thắng cái chết của
tội lỗi, và việc tham dự mới vào ân sủng[42]. Đời
sống mới hoàn thành ơn được làm nghĩa tử, bởi vì người ta trở thành anh em của Đức Kitô,
như chính Chúa Giêsu gọi các môn đệ Người sau cuộc phục sinh của Người: “Về báo
cho anh em của Thầy” (Mt 28,10)[43]. Anh
em đây không phải do bản tính, nhưng do hồng ân của ân sủng, bởi vì ơn được làm
nghĩa tử cho chúng ta thật sự thông phần vào sự sống của Người Con Một, sự sống
đó đã được mạc khải trọn vẹn trong sự Phục Sinh của Người.
655. Cuối
cùng, sự phục sinh của Đức Kitô – và chính Đức Kitô phục sinh – là nguyên lý và
nguồn mạch cho chúng ta ngày sau được sống lại: “Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết, mở đường
cho những ai đã an giấc ngàn thu.... Như mọi người vì liên đới với Ađam mà phải
chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống”
(1 Cr 15,20-22). Trong khi mong đợi việc hoàn thành này, Đức Kitô phục sinh sống
trong trái tim các tín hữu của Người. Nơi Người, các Kitô hữu được nếm “những sức
mạnh của thế giới tương lai” (Dt 6,5) và đời sống của họ được Đức Kitô lôi
cuốn vào trong lòng đời sống thần linh[44], “để
những ai đang sống, không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết
và sống lại vì mình” (2 Cr 5,15).
989. Chúng
ta tin một cách chắc chắn và hy vọng một cách chính xác rằng: cũng như Đức Kitô
đã thật sự sống lại từ cõi chết và sống muôn đời, thì cũng vậy, những người
công chính sau cái chết của mình sẽ sống muôn đời với Đức Kitô phục sinh, Đấng
sẽ làm cho họ sống lại vào ngày sau hết[45]. Sự
sống lại của chúng ta, cũng như sự sống lại của Người, sẽ là công trình của Ba
Ngôi Chí Thánh:
“Nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng
đã làm cho Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Chúa Giêsu sống
lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Ngài đang ngự trong anh em, mà làm
cho thân xác của anh em được sự sống mới” (Rm 8,11)[46].
1001. Khi nào phục sinh? Một
cách vĩnh viễn, “trong ngày sau hết” (Ga 6,39-40.44.54; 11,24); “ngày tận thế”[47]. Quả
vậy, sự phục sinh của những người chết được gắn liền với cuộc Quang lâm của Đức
Kitô:
“Vì khi hiệu lệnh ban ra, khi tiếng Tổng lãnh
Thiên thần và tiếng kèn của Thiên Chúa vang lên, thì chính Chúa sẽ từ trời ngự
xuống, và những người chết trong Đức Kitô sẽ sống lại trước tiên” (l Tx 4,16).
Phục
sinh với Đức Kitô
1002. Nếu
thật sự là, Đức Kitô sẽ cho chúng ta phục sinh trong “ngày sau hết”, thì cũng
thật sự là, một cách nào đó, chúng ta đã phục sinh với Đức Kitô rồi. Thật vậy,
nhờ Chúa Thánh Thần, đời sống Kitô hữu, ngay nơi trần thế, đã là sự tham dự vào
cái Chết và sự Sống lại của Đức Kitô:
“Anh em đã cùng được mai táng với Đức Kitô khi
chịu Phép Rửa, lại cùng được sống lại với Người, vì tin vào quyền năng của
Thiên Chúa, Đấng đã làm cho Người sống lại từ cõi chết…. Anh em đã được sống lại
cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô
đang ngự bên hữu Thiên Chúa” (Cl 2,12; 3,1).
Số 647,
1167-1170, 1243, 1287: Lễ Phục Sinh, Ngày của Chúa
647. Thánh
thi Exultet trong đêm Canh thức Vượt Qua hát: “Ôi! Đêm
thật diễm phúc, đêm duy nhất biết được thời giờ Đức Kitô từ cõi chết phục sinh”[48]. Thật
vậy, không ai chứng kiến tận mắt chính biến cố Phục Sinh và không một tác giả
sách Tin Mừng nào mô tả biến cố đó. Không ai có thể nói sự Phục Sinh đã xảy ra
về mặt thể lý như thế nào. Bản chất thâm sâu nhất của biến cố đó, tức là sự
chuyển qua một cuộc sống khác, lại càng khó nhận biết bằng giác quan. Sự Phục
Sinh, một biến cố lịch sử có thể được xác nhận bằng dấu chỉ là ngôi mộ trống và
bằng thực tại là những lần gặp gỡ của các Tông Đồ với Đức Kitô phục sinh, vẫn
mãi nằm trong trung tâm của mầu nhiệm đức tin, vì biến cố đó siêu việt và vượt
hẳn trên lịch sử. Chính vì vậy, Đức Kitô phục sinh không tỏ mình ra cho thế gian[49],
nhưng cho các môn đệ của Người, “những kẻ từng theo Người từ Galilê lên
Giêrusalem. Giờ đây chính họ làm chứng cho Người trước mặt dân” (Cv 13,31).
1167. Ngày
Chúa Nhật đặc biệt là ngày họp mặt để cử hành phụng vụ, trong đó, các tín hữu
quy tụ lại “để, khi nghe Lời Chúa và tham dự bí tích Thánh Thể, họ kính nhớ cuộc
khổ nạn, sự sống lại và vinh quang của Chúa Giêsu, đồng thời họ cảm tạ Thiên
Chúa, Đấng đã tái sinh họ trong niềm hy vọng sống động, nhờ sự sống lại từ cõi
chết của Chúa Giêsu Kitô”[50]:
“Lạy Đức Kitô, khi chúng con suy ngắm những kỳ
công vinh quang và những dấu chỉ lạ lùng được thực hiện trong ngày Chúa Nhật của
cuộc phục sinh thánh và vinh hiển của Chúa, chúng con thốt lên: Chúc tụng ngày
của Chúa, bởi vì trong ngày này công trình tạo dựng đã được khởi đầu, … trần
gian được cứu chuộc, … nhân loại được canh tân…. Trong ngày này, trời đất bừng
sáng lên và cả trần gian ngập tràn ánh sáng. Chúc tụng ngày của Chúa, bởi vì
trong ngày này các cửa thiên đàng được mở ra để ông Ađam và mọi kẻ bị lưu đày
tiến vào đó mà không sợ hãi”[51].
Năm
phụng vụ
1168. Khởi
từ Tam Nhật Vượt Qua, như từ nguồn ánh sáng của mình, thời đại mới của cuộc phục
sinh tuôn đổ sự rực rỡ của nó trên suốt năm phụng vụ. Dần dần, nhờ hết phần này
đến phần khác của nguồn mạch này, trọn cả năm được biến hình nhờ phụng vụ. Đó
quả thật là “năm hồng ân của Chúa”[52]. Nhiệm
cục cứu độ hoạt động trong khung thời gian, nhưng từ khi nhiệm cục đó được hoàn
tất trong cuộc Vượt Qua của Chúa Giêsu và trong việc tuôn ban Chúa Thánh Thần,
thì lúc tận cùng của lịch sử đã được tiền dự như “sự nếm trước” và Nước Thiên
Chúa bước vào thời gian của chúng ta.
1169. Vì vậy, Lễ Phục
Sinh không chỉ đơn giản là
một ngày lễ giữa bao lễ khác: nó chính là “Ngày Lễ của các ngày lễ”, “Lễ Trọng
của các lễ trọng”, cũng như Thánh Thể là bí tích của các bí tích (bí tích trọng
đại). Thánh Athanasiô gọi lễ Phục Sinh là “Chúa Nhật vĩ đại”[53],
cũng như Tuần Thánh được Giáo Hội Đông phương gọi là “Tuần Lễ vĩ đại”. Mầu nhiệm
Phục Sinh, trong đó Đức Kitô tiêu diệt sự chết, thấm nhập vào thời gian già cỗi
của chúng ta bằng sức mạnh đầy quyền năng của Người, cho đến khi mọi sự phải
quy phục Người.
1170. Tại
Công đồng Nicêa (năm 325), tất cả các Giáo Hội đồng ý mừng lễ Phục Sinh Kitô
giáo vào Chúa Nhật sau ngày trăng tròn (14 tháng Nisan), sau ngày xuân phân. Vì
có những phương pháp khác nhau để tính ngày 14 tháng Nisan, nên ngày mừng lễ Phục
sinh trong các Giáo hội Đông phương và Tây phương đã không luôn trùng khớp với
nhau. Vì vậy, ngày nay các Giáo Hội này đang tìm cách thỏa thuận để ngày đại lễ
Phục sinh của Chúa lại có thể được mừng chung trong cùng một ngày.
1243. Áo trắng nói lên cách tượng trưng người chịu Phép Rửa
đã mặc lấy Đức Kitô[54], đã
sống lại cùng với Đức Kitô. Cây nến được
thắp sáng từ nến phục sinh nói lên rằng Đức Kitô đã chiếu dọi ánh sáng cho người
tân tòng. Trong Đức Kitô, những người chịu Phép Rửa là “ánh sáng cho trần gian”
(Mt 5,14)[55].
Người tân tòng lúc đó là con cái Thiên Chúa
trong Người Con Duy Nhất. Họ có thể đọc lời kinh của những người con Thiên
Chúa: kinh Lạy Cha.
1287. Tuy
nhiên, việc tràn đầy Thần Khí không phải chỉ dành cho Đấng Messia, mà phải được
truyền thông cho toàn thể dân của Đấng Messia[56]. Nhiều
lần, Đức Kitô đã hứa việc tuôn ban Thần Khí như vậy[57], và
Người đã thực hiện lời hứa đó trước tiên vào ngày lễ Vượt Qua[58], và
sau đó, một cách hoành tráng hơn, vào ngày lễ Ngũ Tuần[59]. Được
tràn đầy Chúa Thánh Thần, các Tông Đồ bắt đầu rao giảng “những kỳ công của
Thiên Chúa” (Cv 2,11), và thánh Phêrô công bố rằng việc tuôn đổ Thánh Thần này
là dấu chỉ thời đại Messia[60]. Lúc
đó những ai tin lời rao giảng của các Tông Đồ và chịu Phép Rửa, thì đến lượt họ
cũng được lãnh nhận hồng ân Chúa Thánh Thần[61].
Số 1212: Các
bí tích khai tâm Kitô Giáo
1212. Ba bí
tích khai tâm Kitô giáo: Rửa Tội, Thêm Sức và Thánh Thể, đặt nền tảng cho toàn bộ đời sống Kitô hữu. “Việc tham dự vào
bản tính Thiên Chúa, mà ân sủng của Đức Kitô ban cho con người, có một sự tương
tự nào đó với đời sống tự nhiên, là được sinh ra, lớn lên và được nuôi dưỡng.
Thật vậy, được tái sinh bằng bí tích Rửa Tội, các tín hữu được củng cố bằng bí
tích Thêm Sức, và sau cùng được bồi bổ bằng bánh trường sinh trong bí tích
Thánh Thể. Như vậy, nhờ các bí tích khai tâm Kitô giáo, càng ngày họ càng được
lãnh nhận những kho tàng của đời sống thần linh và tiến đến sự trọn hảo của đức
mến[62].
Số 1214-1222,
1226-1228, 1234-1245, 1254: Bí tích Rửa Tội
1214. Bí
tích Rửa
Tội được gọi theo nghi thức
trung tâm mà nó được thực hiện: Rửa (tiếng Hy Lạp là Baptizein) có nghĩa là “chìm xuống”, “dìm xuống”. Việc
“dìm xuống” nước tượng trưng cho việc mai táng người dự tòng vào sự chết của Đức
Kitô, và từ đó họ bước ra nhờ được sống lại với Người[63], với
tư cách là một “thụ tạo mới” (2 Cr 5,17; Gl 6,15).
1215. Bí
tích này cũng được gọi là “Phép Rửa ban ơn Thánh Thần, để chúng ta được tái
sinh và đổi mới” (Tt 3,5), bởi
vì bí tích này biểu lộ và thực hiện việc sinh ra bởi nước và Thánh Thần, mà nếu
không có việc đó thì “không ai có thể vào Nước Thiên Chúa” (Ga 3,5).
1216. “Phép
Rửa này còn được gọi là ơn soi sáng,
vì những ai học biết điều này (về giáo lý) thì được soi sáng trong tâm trí”[64]. Người
được Rửa Tội, vì trong Phép Rửa họ được đón nhận Ngôi Lời là “ánh sáng thật chiếu
soi mọi người” (Ga 1,9), nên sau khi “được soi sáng”[65], họ
trở thành “con cái sự sáng”[66] và
chính họ là “ánh sáng” (Ep 5,8):
Bí tích Rửa Tội “là hồng ân cao đẹp nhất và kỳ
diệu nhất trong các hồng ân của Thiên Chúa.... Chúng ta gọi bí tích đó là hồng
ân, ân sủng, Rửa Tội, xức dầu, soi sáng, y phục bất hoại, sự tắm rửa của ơn tái
sinh, ấn tín và tất cả những gì quý giá nhất. Nó được gọi là hồng
ân, bởi vì được ban cho những
người trước đó chẳng có gì; là ân sủng,
bởi vì được ban cả cho những người tội lỗi; là sự dìm xuống, bởi vì tội lỗi bị chôn vùi trong nước; là xức dầu, bởi vì bí tích này là thánh thiêng và vương giả
(như những người được xức dầu); là ơn soi sáng,
bởi vì nó sáng ngời và chói lọi; là y phục, bởi
vì nó che phủ sự xấu xa của chúng ta; là tắm rửa,
bởi vì bí tích này rửa sạch; là ấn tín, bởi
vì nó là sự bảo toàn và là dấu chỉ của uy quyền”[67].
Những
hình ảnh trong Giao Ước cũ tiên báo bí tích Rửa Tội
1217. Trong
phụng vụ Canh thức Vượt Qua, khi làm phép nước rửa tội, Hội Thánh long trọng tưởng nhớ những biến
cố trọng đại trong lịch sử cứu độ, những biến cố này là hình ảnh tiên báo mầu
nhiệm bí tích Rửa Tội:
“Lạy Chúa, Chúa dùng quyền năng vô hình mà làm
cho các bí tích trở nên hữu hiệu lạ lùng. Và qua dòng lịch sử cứu độ, Chúa đã
bao lần dùng nước do chính Chúa tạo dựng, để bày tỏ hiệu năng của Phép Rửa”[68].
1218. Từ
tạo thiên lập địa, nước, thụ tạo khiêm tốn và lạ lùng này, là nguồn mạch sự sống
và sự sinh sôi nảy nở. Kinh Thánh xem nước như được “ấp ủ” bởi Thần Khí Thiên
Chúa[69].
“Lạy Chúa, ngay từ lúc vũ trụ khởi nguyên, Thánh
Thần Chúa đã bay là là trên mặt nước, để từ đó nước hàm chứa năng lực thánh hoá
muôn loài”[70].
1219. Hội
Thánh nhìn con tàu của ông Nôê là hình ảnh tiên báo ơn cứu độ nhờ bí tích Rửa Tội:
“Trong con tàu ấy, một số ít, cả thảy là tám người, được cứu thoát nhờ nước” (1
Pr 3,20).
“Chúa lại dùng nước hồng thuỷ làm hình ảnh tiên
báo Phép Rửa ban ơn tái sinh, vì nước biểu thị quyền năng Chúa, vừa tiêu diệt tội
lỗi lại vừa khai mở một đời sống mới”[71].
1220. Nếu
nước nguồn tượng trưng cho sự sống, thì nước biển là biểu tượng của sự chết. Vì
vậy, nước có thể là hình bóng của mầu nhiệm thập giá. Qua biểu tượng này, bí
tích Rửa Tội nói lên sự hiệp thông với sự chết của Đức Kitô.
1221. Đặc
biệt cuộc vượt qua Biển Đỏ, việc giải thoát thật sự nhà Israel khỏi kiếp nô lệ ở
Ai Cập, loan báo ơn giải thoát nhờ Phép Rửa.
“Chúa đã giải thoát con cháu ông Abraham khỏi
vòng nô lệ mà dẫn qua Biển Đỏ ráo chân, để họ tượng trưng cho một dân tộc mới,
là những người được lãnh Phép Rửa sau này”[72].
1222. Cuối
cùng, bí tích Rửa Tội được tiên báo trong việc vượt qua sông Jorđanô, nhờ đó
dân Thiên Chúa nhận được hồng ân là Đất đã được hứa ban cho dòng dõi ông
Abraham, là hình ảnh của đời sống vĩnh cửu. Lời hứa về gia tài hồng phúc này sẽ
được thực hiện trong Giao Ước Mới.
Số 1286-1289:
Bí tích Thêm Sức
1286. Trong Cựu Ước các tiên tri đã loan báo rằng Thần Khí
Chúa sẽ ngự xuống trên Đấng Messia thiên hạ đợi trông[73] vì
sứ vụ cứu độ của Người[74]. Việc
Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Chúa Giêsu, khi Người được ông Gioan làm phép rửa,
là dấu chỉ cho thấy chính Người là Đấng phải đến, chính Người là Đấng Messia,
là Con Thiên Chúa[75].
Chúa Giêsu đã được thụ thai bởi Chúa Thánh Thần; trọn cuộc đời và sứ vụ của Người
đều hiệp thông trọn vẹn với Chúa Thánh Thần, Đấng “Chúa Cha ban cho Người vô ngần
vô hạn” (Ga 3,34).
1287. Tuy
nhiên, việc tràn đầy Thần Khí không phải chỉ dành cho Đấng Messia, mà phải được
truyền thông cho toàn thể dân của Đấng Messia[76]. Nhiều
lần, Đức Kitô đã hứa việc tuôn ban Thần Khí như vậy[77], và
Người đã thực hiện lời hứa đó trước tiên vào ngày lễ Vượt Qua[78], và
sau đó, một cách hoành tráng hơn, vào ngày lễ Ngũ Tuần[79]. Được
tràn đầy Chúa Thánh Thần, các Tông Đồ bắt đầu rao giảng “những kỳ công của
Thiên Chúa” (Cv 2,11), và thánh Phêrô công bố rằng việc tuôn đổ Thánh Thần này
là dấu chỉ thời đại Messia[80]. Lúc
đó những ai tin lời rao giảng của các Tông Đồ và chịu Phép Rửa, thì đến lượt họ
cũng được lãnh nhận hồng ân Chúa Thánh Thần[81].
1288. “Từ
đó, thực hiện ý muốn của Đức Kitô, các Tông Đồ đã đặt tay ban hồng ân Thần Khí
cho các tân tòng để kiện toàn ân sủng của bí tích Rửa Tội[82].
Chính vì vậy, như trong thư gửi tín hữu Do thái, giáo lý về các phép rửa và về
việc đặt tay đã được kể vào số các yếu tố của giáo huấn sơ đẳng của Kitô giáo[83]. Việc
đặt tay được công nhận cách đúng đắn theo truyền thống công giáo là nguồn gốc của
bí tích Thêm Sức, và một cách nào đó, bí tích này làm cho ân sủng ngày lễ Ngũ
Tuần luôn tồn tại trong Hội Thánh”[84].
1289. Từ rất
xa xưa, để biểu thị rõ hơn hồng ân Chúa Thánh Thần, việc xức dầu thơm (dầu
Chrisma) được liên kết với việc đặt tay. Việc xức dầu này làm sáng tỏ danh xưng
“Kitô hữu” (Christianus) có nghĩa là “người được xức dầu” và bắt nguồn từ danh
xưng của chính Đức Kitô (Christus): “Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền
năng mà xức dầu tấn phong Người” (Cv 10,38). Nghi thức Xức Dầu này tồn tại đến
ngày nay trong nghi lễ Đông cũng như Tây phương. Vì vậy, ở Đông phương, bí tích
này được gọi là bí tích Dầu Chrisma (Christmatio là việc xức bằng dầu Myron, nghĩa là Dầu thánh).
Ở Tây phương, thuật ngữ bí tích Thêm Sức (Confirmatio)
nói lên rằng bí tích này vừa kiện toàn bí tích Rửa Tội, vừa củng cố ân sủng của
bí tích Rửa Tội.
Số 1322-1323:
Bí tích Thánh Thể
1322. Bí
tích Thánh Thể hoàn tất việc khai tâm Kitô giáo. Những người đã được nâng lên
hàng tư tế vương giả nhờ bí tích Rửa Tội, và được nên đồng hình đồng dạng với Đức
Kitô cách sâu xa hơn nhờ bí tích Thêm Sức, nay nhờ bí tích Thánh Thể được tham
dự vào chính hy tế của Chúa cùng với toàn thể cộng đoàn.
1323. “Đang
khi ăn bữa Tiệc ly, trong đêm Người bị nộp, Đấng Cứu Độ chúng ta đã thiết lập
Hy tế Thánh Thể bằng Mình và Máu Người, để nhờ đó, Hy tế thập giá trường tồn
qua các thời đại, cho tới khi Người đến, và cũng để ủy thác cho Hiền Thê yêu
quý của Người là Hội Thánh, việc tưởng nhớ sự Chết và Sống lại của Người: Đây
là bí tích tình yêu, là dấu chỉ sự hợp nhất, là mối dây bác ái, là bữa tiệc Vượt
Qua, nơi chúng ta lãnh nhận Đức Kitô, linh hồn được tràn đầy ân sủng và nhận được
bảo đảm cho vinh quang tương lai”[85].
Bài Ðọc I: Cv
10, 34a. 37-43
"Chúng tôi đã ăn uống với Người, sau
khi Người từ cõi chết sống lại".
Bài trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, Phêrô lên tiếng nói rằng:
"Như anh em biết điều đã xảy ra trong toàn cõi Giuđêa, khởi đầu từ
Galilêa, sau khi Gioan rao giảng phép rửa: ấy là Chúa Giêsu thành Nadarét.
Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu cho Người. Người đi khắp
nơi, ban bố ơn lành và chữa mọi người bị quỷ ám, bởi vì Thiên Chúa ở cùng Người.
Và chúng tôi, chúng tôi là chứng nhân tất cả những gì Người đã làm trong nước
Do-thái, và tại Giêrusalem, Người là Ðấng người ta đã giết treo Người trên thập
giá. Nhưng ngày thứ ba, Thiên Chúa đã cho Người sống lại và hiện ra không phải
với toàn dân, mà là với chúng tôi là nhân chứng Thiên Chúa đã tuyển chọn trước,
chính chúng tôi đã ăn uống với Người sau khi Người từ cõi chết sống lại. Và Người
đã truyền cho chúng tôi rao giảng cho toàn dân và làm chứng rằng chính Người đã
được Thiên Chúa tôn làm quan án xét xử kẻ sống và kẻ chết. Mọi tiên tri đều làm
chứng về Người rằng: Tất cả những ai tin vào Người, thì nhờ danh Người mà được
tha tội".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv
117, 1-2. 16ab-17. 22-23
Ðáp:
Ðây là ngày Chúa đã lập ra, chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan về ngày đó.
Hoặc
đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức
từ bi của Người muôn thuở. Hỡi nhà Israel, hãy xướng lên: "Ðức từ bi của
Người muôn thuở".
Ðáp:
Ðây là ngày Chúa đã lập ra, chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan về ngày đó.
Hoặc
đọc: Alleluia.
2) Tay hữu Chúa đã hành động mãnh liệt, tay hữu
Chúa đã cất nhắc tôi lên. Tôi không chết, nhưng tôi sẽ sống, và tôi sẽ loan
truyền công cuộc của Chúa.
Ðáp:
Ðây là ngày Chúa đã lập ra, chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan về ngày đó.
Hoặc
đọc: Alleluia.
3) Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ, đã
biến nên tảng đá góc tường. Việc đó đã do Chúa làm ra, việc đó kỳ diệu trước mắt
chúng ta.
Ðáp:
Ðây là ngày Chúa đã lập ra, chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan về ngày đó.
Hoặc
đọc: Alleluia.
Bài Ðọc II: Cl 3, 1-4
"Anh em hãy tìm những sự trên trời,
nơi Ðức Kitô ngự".
Bài trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu
Côlôxê.
Anh em thân mến, nếu anh em đã sống lại với Ðức
Kitô, anh em hãy tìm những sự trên trời, nơi Ðức Kitô ngự bên hữu Thiên Chúa.
Anh em hãy nghĩ đến những sự trên trời, chứ đừng nghĩ đến những sự dưới đất. Vì
anh em đã chết, và sự sống anh em được ẩn giấu với Ðức Kitô trong Thiên Chúa.
Khi Ðức Kitô là sự sống anh em xuất hiện, bấy giờ anh em sẽ xuất hiện với Người
trong vinh quang.
Ðó là lời Chúa.
Hoặc
đọc: 1 Cr 5, 6b-8
"Anh em hãy tìm những sự trên trời,
nơi Ðức Kitô ngự".
Bài trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ
gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, anh em không biết sao?: chỉ một
tí men là đã đủ làm dậy men cả khối bột! Anh em hãy tẩy trừ men cũ để nên bột mới
anh em là bánh không men. Vì Chiên Vượt Qua của ta, là Ðức Kitô, đã chịu sát tế.
Cho nên ta hãy mừng lễ, đừng với men cũ, và men gian tà, ác độc, nhưng là với
Bánh không men của lòng tinh tuyền và chân thật.
Ðó là lời Chúa.
Ca Tiếp Liên
(Ðọc trong Chúa Nhật Phục Sinh, còn các ngày
khác trong tuần Bát nhật thì không buộc đọc)
Alleluia: 1
Cr 5, 7b-8a
Alleluia, alleluia! - Lễ Vượt Qua của chúng ta
là Ðức Kitô đã hiến tế vậy chúng ta hãy mừng lễ trong Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 20, 1-9
"Người phải sống lại từ cõi chết".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Ngày
đầu tuần, Maria Mađalêna đi ra mồ từ sáng sớm khi trời còn tối và bà thấy tảng
đá đã được lăn ra khỏi mồ, bà liền chạy về tìm Simon-Phêrô và người môn đệ kia
được Chúa Giêsu yêu mến, bà nói với các ông rằng: "Người ta đã lấy xác Thầy
khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu". Phêrô và môn
đệ kia ra đi đến mồ. Cả hai cùng chạy, nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn Phêrô,
và đến mồ trước. Ông cúi mình xuống thấy những khăn liệm để đó, nhưng ông không
vào trong. Vậy Simon-Phêrô theo sau cũng tới nơi, ông vào trong mồ và thấy những
dây băng nhỏ để đó, và khăn liệm che đầu Người trước đây, khăn này không để lẫn
với dây băng, nhưng cuộn lại để riêng một chỗ. Bấy giờ môn đệ kia mới vào, dù
ông đã tới mồ trước. Ông thấy và ông tin, vì chưng các ông còn chưa hiểu rằng,
theo Kinh Thánh, thì Người phải sống lại từ cõi chết.
[1] Phụng vụ Byznatin, Troparium in die
Paschatis: Pentekostarion (Romae 1884) 6.
[2] X. Cv 9,3-18.
[3] X. Ga 20,13; Mt 28,11-15.
[4] X. Lc 24,3.22-23.
[5] X. Lc 24,12.
[6] X. Ga 20,8.
[7] X. Ga 20,5-7.
[8] X. Ga 11,44.
[9] X. Mc 16,1; Lc 24,1.
[10] X. Ga 19,31.42.
[11] Mt 28,9-10; Ga 20,11-18.
[12] X. Lc 24,9-10.
[13] X. 1 Cr 15,5.
[14] X. Lc 22,31-32.
[15] X. Cv 1,22.
[16] X. 1 Cr 15,4-8.
[17] X. Lc 22,31-32.
[18] X. Ga 20,19.
[19] X. Mc 16,11.13.
[20] X. Lc 24,38.
[21] X. Lc 24,39.
[22] X. Ga 20,24-27.
[23] X. Lc 24,39; Ga 20,27.
[24] X. Lc 24,30.41-43; Ga 21,9.13-15.
[25] X. Lc 24,39.
[26] X. Lc 24,40; Ga 20,20.27.
[27] X. Mt 28,9.16-17; Lc 24,15.36; Ga
20,14.19.26; 21,4.
[28] X. Ga 20,17.
[29] X. Ga 20,14-15.
[30] X. Ga 20,14.16; 21,4.7.
[31] X. 1 Cr 15,35-50.
[32] Canh thức Vượt qua, Công bố Tin Mừng Phục
Sinh (“Exsultet”): Sách Lễ Rôma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis
1970) 272.
[33] X. Ga 14,22.
[34] X. Rm 6,4; 2 Cr 13,4; Pl 3,10; Ep 1,19-22;
Dt 7,16.
[35] X. Mc 8,31; 9,9.31; 10,34.
[36] Thánh Grêgôriô Nyssênô, De tridui inter
mortem et ressurectionem Domini nostri Iesu Christi spatio: Gregorii Nysseni
opera, ed. W. Jaeger-H. Langerbeck, v. 9 (Leiden 1967) 293-294 (PG 46, 417); x.
Statuta Ecclesiae Antiqua: DS 325; ĐGH Anastasiô II, Thư In prolixitate
epistulae: DS 359; Thánh Hormidas, Thư Inter ea quae: DS 369; CĐ Tôlêđô XI, :
DS 539.
[37] X. Lc 24,26-27.44-48.
[38] X. Mt 28,6; Mc 16,7; Lc 24,6-7.
[39] X. 1 Cr 15,3-4; Tín biểu
Nicêa-Constantinôpôli: DS 150.
[40] X. Tv 2,7.
[41] X. Rm 4,25.
[42] X. Ep 2,4-5; 1 Pr 1,3.
[43] X. Ga 20,17.
[44] X. Cl 3,1-3.
[45] X. Ga 6,39-40.
[46] X. 1 Tx 4,14; 1 Cr 6,14; 2 Cr 4,14; Pl
3,10-11.
[47] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen
Gentium, 48: AAS 57 (1965) 54.
[48] Canh thức Vượt qua, Công bố Tin Mừng Phục
Sinh (“Exsultet”): Sách Lễ Rôma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis
1970) 272.
[49] X. Ga 14,22.
[50] CĐ Vaticanô II, Hiến chế Sacrosanctum
Concilium, 106: AAS 56 (1964) 126.
[51] Fanqýth, Breviarium iuxta ritum Ecclesiae
Antiochenae Syrorum, v. 6 (Mossul 1886) 193b.
[52] X. Lc 4,19.
[53] Thánh Athanasiô Alexandria, Epistula
festivalis, 1 (năm 329), 10: PG 26, 1366.
[54] X. Gl 3,27.
[55] X. Pl 2,15.
[56] X. Ed 36,25-27; Ge 3,1-2.
[57] X. Lc 12,12; Ga 3,5-8; 7,37-39; 16,7-15;
Cv 1,8.
[58] X. Ga 20,22.
[59] X. Cv 2,1-4.
[60] X. Cv 2,17-18.
[61] X. Cv 2,38.
[62] X. ĐGH Phaolô VI, Tông hiến Divinae
consortium naturae: AAS 63 (1971) 657; x. Nghi thức gia nhập Kitô giáo cho người
lớn, Praenotanda 1-2 (Typis Polyglottis Vaticanis 1972) 7.
[63] X. Rm 6,3-4; Cl 2,12.
[64] Thánh Justinô, Apologia, 1, 61: CA 1, 168
(PG 6, 421).
[65] X. Dt 10,32.
[66] X. 1 Tx 5,5.
[67] Thánh Grêgôriô Nazianzênô, Oratio 40, 3-4:
SC 358, 202-204 (PG 36, 361-364).
[68] Canh thức Vượt qua, Làm phép nước, 42:
Sách Lễ Rôma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 283.
[69] X. St 1,2.
[70] Canh thức Vượt qua, Làm phép nước, 42:
Sách Lễ Rôma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 283.
[71] Canh thức Vượt qua, Làm phép nước, 42:
Sách Lễ Rôma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 283.
[72] Canh thức Vượt qua, Làm phép nước, 42:
Sách Lễ Rôma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 283.
[73] X. Is 11,2.
[74] X. Lc 4,16-22; Is 61,1.
[75] X. Mt 3,13-17; Ga 1,33-34.
[76] X. Ed 36,25-27; Ge 3,1-2.
[77] X. Lc 12,12; Ga 3,5-8; 7,37-39; 16,7-15;
Cv 1,8.
[78] X. Ga 20,22.
[79] X. Cv 2,1-4.
[80] X. Cv 2,17-18.
[81] X. Cv 2,38.
[82] X. Cv 8,15-17; 19,5-6.
[83] X. Dt 6,2.
[84] ĐGH Phaolô VI, Tông hiến Divinae
consortium naturae: AAS 63 (1971) 659.