Số 495-507: Chức năng làm Mẹ đồng trinh của Đức Maria

Số 437, 456, 484-486, 721-726: Đức Maria làm Mẹ Đức Kitô bởi Phép Đức Chúa Thánh Thần

Số 1846: Chúa Giêsu - Đấng Cứu Độ được mạc khải cho Thánh Giuse

Số 445, 648, 695: Tư cách Con Thiên Chúa của Đức Kitô trong sự Phục sinh của Người

Số 143-149, 494, 2087: Sự vâng phục của đức tin

Bài Ðọc I: Is 7, 10-14

Bài Ðọc II: Rm 1, 1-7

Phúc Âm: Mt 1, 18-24

 

Số 495-507: Chức năng làm Mẹ đồng trinh của Đức Maria

Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa

Số 495. Trong các sách Tin Mừng, Đức Maria được gọi là “Thân mẫu Chúa Giêsu” (Ga 2,l; l9,25)[1]. Cả trước khi Con Mẹ chào đời, dưới sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, Mẹ đã được gọi là “Thân mẫu Chúa tôi” (Lc 1,43). Quả thật, Đấng mà Mẹ đã cưu mang làm người bởi phép Chúa Thánh Thần, Đấng thật sự là Con Mẹ theo xác phàm, chính là Con vĩnh cửu của Chúa Cha, là Ngôi Hai trong Ba Ngôi chí thánh. Vì vậy, Hội Thánh tuyên xưng Đức Maria thật sự là Mẹ Thiên Chúa (Theotokos)[2].

Sự đồng trinh của Đức Maria

Số 496. Ngay trong các công thức đức tin đầu tiên[3], Hội Thánh đã tuyên xưng rằng Chúa Giêsu được thụ thai trong lòng Đức Trinh Nữ Maria là chỉ do quyền năng của Chúa Thánh Thần mà thôi, và Hội Thánh cũng khẳng định khía cạnh thể lý của biến cố này: Chúa Giêsu được thụ thai “bởi Chúa Thánh Thần, không có mầm giống nam nhân”[4]. Các Giáo Phụ nhận ra việc thụ thai đồng trinh là dấu chỉ của việc Con Thiên Chúa thật sự đã đến trong bản tính nhân loại như chúng ta.

Thánh Ignatiô Antiôchia (đầu thế kỷ II) dạy: “Tôi đã nhận thấy anh em… xác tín rằng Chúa chúng ta, thật sự xuất thân từ dòng dõi vua Đavid theo xác phàm[5], là Con Thiên Chúa theo ý định và quyền năng Thiên Chúa[6], Người đã thật sự được sinh ra bởi một trinh nữ;… Người đã thật sự chịu đóng đinh trong thân xác vì chúng ta, thời quan Phongxiô Philatô…. Người đã thật sự chịu khổ hình cũng như đã thật sự sống lại”[7].

Số 497. Các trình thuật Tin Mừng[8] hiểu việc thụ thai đồng trinh như một công trình của Thiên Chúa, vượt quá mọi hiểu biết và mọi khả năng nhân loại[9]: Thiên thần đã nói với ông Giuse về Đức Maria, hien thê của ông rằng: “Người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt l,20). Hội Thánh nhận ra đây là việc thực hiện lời hứa của Thiên Chúa qua miệng tiên tri Isaia: “Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai” (Is 7,l4), theo bản Hy lạp của Mt 1,23.

Số 498. Đôi lúc, người ta lúng túng vì sự im lặng của Tin Mừng Marcô và các thư Tân Ước đối với việc thụ thai đồng trinh của Đức Maria. Người ta cũng tự hỏi không biết đây có phải là huyền thoại hay là luận điểm thần học không chứng cớ lịch sử. Về vấn đề này, phải trả lời rằng: đức tin vào việc Mẹ Maria thụ thai Chúa Giêsu mà còn đồng trinh, đã bị người Do Thái và lương dân vô tín chống đối mãnh liệt, chế diễu hoặc hiểu sai[10]: đức tin đó không phát sinh từ huyền thoại ngoại giáo hoặc từ sự mô phỏng nào đó theo các ý tưởng đương thời. Ý nghĩa của biến cố này chỉ có thể hiểu được nhờ đức tin, khi nhìn biến cố đó “trong sự nối kết chính các mầu nhiệm với nhau”[11], nghĩa là trong toàn bộ các mầu nhiệm của Đức Kitô, từ việc Nhập Thể cho đến cuộc Vượt Qua của Người. Thánh Ignatiô Antiôchia đã nêu rõ sự nối kết này: “Thủ lãnh thế gian không hề biết đến việc Đức Maria đồng trinh, việc Mẹ sinh con cũng như việc Chúa chịu chết: ba mầu nhiệm này thật vẻ vang nhưng đã được Thiên Chúa âm thầm thực hiện”[12].

Đức Maria “trọn đời đồng trinh”

Số 499. Việc suy niệm sâu xa hơn trong đức tin về việc Đức Maria đồng trinh mà làm mẹ, đã đưa Hội Thánh đến chỗ tuyên xưng Đức Maria thật sự và trọn đời đồng trinh[13], cả trong khi sinh hạ Con Thiên Chúa làm người[14]. Thật vậy, việc sinh hạ Đức Kitô “không làm suy giảm nhưng thánh hiến sự trinh khiết vẹn toàn” của Mẹ[15]. Phụng vụ của Hội Thánh tôn vinh Mẹ là Aeiparthenos, “Đấng trọn đời đồng trinh”[16].

Số 500. Về điều này, đôi khi người ta phản đối rằng Thánh Kinh có nhắc đến các anh em và chị em của Chúa Giêsu[17]. Hội Thánh vẫn luôn hiểu rằng những đoạn văn này không hề ám chỉ những người con khác của Đức Trinh Nữ Maria: ông Giacôbê và ông Giuse, “anh em cua Chúa Giêsu” (Mt l3,55), thật ra là con của một bà Maria nào đó là môn đệ của Đức Kitô[18], bà này được cẩn thận phân biệt là “bà Maria khác” (Mt 28,l). Đây là những người anh em bà con họ hàng gần, theo như cách nói quen dùng trong Cựu Ước[19].

Số 501. Chúa Giêsu là người Con duy nhất của Đức Maria. Nhưng tình mẫu tử thiêng liêng của Mẹ[20] trải rộng cho hết mọi người đã được Chúa Giêsu đến cứu độ. “Người Con mà Mẹ sinh ra, Thiên Chúa đã đặt ‘làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc’ (Rm 8,29), tức là các tín hữu, mà Mẹ đã cộng tác vào việc sinh hạ và dạy dỗ họ với tình yêu từ mẫu”[21].

Chức năng làm Mẹ đồng trinh của Đức Maria trong kế hoạch của Thiên Chúa

Số 502. Cái nhìn của đức tin, liên kết với toàn bộ Mạc Khải, có thể khám phá ra những lý do huyền nhiệm mà vì đó, Thiên Chúa, trong kế hoạch cứu độ của Ngài, đã muốn Con của Ngài sinh ra bởi một trinh nữ. Những lý do này liên quan đến Ngôi Vị và sứ vụ cứu chuộc của Đức Kitô, cũng như đến việc Đức Maria chấp nhận góp phần vào sứ vụ này vì tất cả mọi người.

Số 503. Sự đồng trinh của Đức Maria cho thấy mầu nhiệm Nhập Thể tuyệt đối do Thiên Chúa khởi xướng. Chúa Giêsu chỉ có Thiên Chúa là Cha.[22] “Không bao giờ Người tách khỏi Chúa Cha vì con người mà Người đã đảm nhận…. Một mình Người vừa là Con Thiên Chúa vừa là Con Người. Xét về mặt bản tính, Người là Con của Chúa Cha trên trời theo thần tính, là Con của Đức Maria theo nhân tính; nhưng thật sự Người là Con Thiên Chúa trong hai bản tính”[23].

Số 504. Chúa Giêsu được thụ thai trong lòng Đức Trinh Nữ Maria bởi phép Chúa Thánh Thần, bởi vì Người là Ađam mới[24], người khởi đầu công trình tạo dựng mới: “Người thứ nhất bởi đất mà ra thì thuộc về đất; còn người thứ hai thì từ trời mà đến” (l Cr l5,47). Ngay từ lúc Người được thụ thai, nhân tính Đức Kitô đã tràn đầy Thần Khí, vì Thiên Chúa “ban Thần Khí cho Người vô ngần vô hạn” (Ga 3,34). “Từ nguồn sung mãn của Người”, của Đấng là đầu của nhân loại được cứu chuộc[25] mà “chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác” (Ga l,l6).

Số 505. Chúa Giêsu, Ađam mới, qua việc Người được thụ thai trong cung lòng đồng trinh, đã khởi đầu cuộc sinh hạ mới của những người được nhận làm nghĩa tử trong Chúa Thánh Thần nhờ đức tin. “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào ?” (Lc l,34)[26]. Việc tham dự vào sự sống thần linh là điều “không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa” (Ga l,l3). Sự sống mới này được đón nhận cách trinh khiết, bởi vì nó được tặng ban cho con người, hoàn toàn do bởi Chúa Thánh Thần. Ý nghĩa phu thê của ơn gọi của con người đến với Thiên Chúa[27] được thực hiện cách trọn hảo trong chức năng làm mẹ đồng trinh của Đức Maria.

Số 506. Đức Maria là một Trinh Nữ, bởi vì sự đồng trinh của Mẹ là dấu chỉ đức tin của Mẹ, một đức tin không pha trộn chút nghi ngờ nào[28] và là dấu chỉ sự tự hiến trọn vẹn của Mẹ cho thánh ý Thiên Chúa[29]. Chính nhờ đức tin mà Đức Maria trở thành Mẹ Đấng Cứu độ: “Đức Maria thật là diễm phúc vì Mẹ đã tin vào Đức Kitô hơn là vì Mẹ đã cưu mang thân xác Người”[30].

Số 507. Đức Maria vừa là Trinh Nữ vừa là Mẹ, bởi vì Mẹ là hình ảnh của Hội Thánh, là sự thể hiện toàn hảo nhất của Hội Thánh[31]. “Nhờ đón nhận lời Thiên Chúa cách trung thành, Hội Thánh được làm Mẹ: thật vậy, nhờ việc rao giảng và ban Phép Rửa, Hội Thánh sinh hạ những người con, được thụ thai bởi Chúa Thánh Thần, và được sinh ra bởi Thiên Chúa, để song đời sống mới và bất tử. Và Hội Thánh là Trinh Nữ, bởi đã gìn giữ cách toàn vẹn và tinh tuyền lòng tin vào Đức Phu Quân”[32].


Số 437, 456, 484-486, 721-726: Đức Maria làm Mẹ Đức Kitô bởi Phép Đức Chúa Thánh Thần

Số 437. Thiên thần đã loan báo cho các mục đồng việc Giáng Sinh của Chúa Giêsu, với tính cách là việc ra đời của Đấng Messia đã được hứa ban cho Israel: “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành Vua Đavid, Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa” (Lc 2,11). Ngay từ đầu, Chúa Giêsu là “Đấng Chúa Cha đã hiến thánh và sai đến thế gian” (Ga l0,36), với tư cách là “Đấng Thánh” (Lc 1,35) được cưu mang trong lòng dạ trinh khiết của Đức Maria[33]. Thánh Giuse được Thiên Chúa kêu gọi đón bà Maria vợ ông về, “vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20), để Chúa Giêsu, “cũng gọi là Đấng Kitô” (Mt 1,16), được sinh ra do vợ ông Giuse trong dòng tộc thiên sai (in generatione messianica) của vua Đavid.[34]

Số 456. Cùng với Tín biểu Nicêa-Constantinôpôli, chúng ta tuyên xưng: “Vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta, Người đã từ trời xuống thế. Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria và đã làm người”[35].

Số 484. Biến cố Truyền tin cho Đức Maria mở đầu “thời gian tới hồi viên mãn” (Gl 4,4), nghĩa là, lúc hoàn thành các lời hứa và các sự chuẩn bị. Đức Maria được mời gọi cưu mang Đấng mà nơi Người “tất cả sự viên mãn của thần tính hiện diện cách cụ thể” (Cl 2,9). Lời phúc đáp thần linh cho vấn nạn của Mẹ: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng?” (Lc l,34) đã được đưa ra là nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà” (Lc l,35).

Số 485. Sứ vụ của Chúa Thánh Thần luôn luôn được kết hợp với sứ vụ của Chúa Con và quy hướng về sứ vụ của Chúa Con[36]. Chúa Thánh Thần, là “Chúa và là Đấng ban sự sống”, được sai đến để thánh hoá cung lòng Đức Trinh Nữ Maria và làm cho Mẹ thụ thai một cách thần linh, khi tác động để Mẹ cưu mang Con vĩnh cửu của Chúa Cha trong nhân tính được đảm nhận từ nhân tính của Mẹ.

Số 486. Con Một của Chúa Cha, với tư cách một con người được thụ thai trong cung lòng Đức Trinh Nữ Maria, là “Đức Kitô”, nghĩa là Đấng được xức dầu bằng Chúa Thánh Thần[37], từ lúc khởi đầu sự hiện hữu nhân loại của Người, mặc dù việc Người tỏ mình ra sẽ được thực hiện dần dần: cho các mục đồng[38], cho các đạo sĩ[39], cho ông Gioan Tẩy giả[40], cho các môn đệ[41]. Vì vậy, toàn bộ cuộc đời của Chúa Giêsu Kitô sẽ biểu lộ “Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người” (Cv 10,38) như thế nào.

“Mừng vui lên, hỡi người đầy ân phúc”

Số 721. Đức Maria, Mẹ rất thánh của Thiên Chúa, trọn đời đồng trinh, là công trình tuyệt tác của sứ vụ phối hợp giữa Chúa Con và Thần Khí lúc thời gian viên mãn. Trong kế hoạch cứu độ, bởi vì Thần Khí Thiên Chúa đã chuẩn bị Me, lần đầu tiên Chúa Cha đã tìm được Chỗ Ở, nơi Con của Ngài và Thần Khí của Ngài có thể cư ngụ giữa loài người. Theo ý nghĩa này, Truyền thống Hội Thánh thường đọc những bản văn đẹp nhất viết về đức Khôn Ngoan trong tương quan với Đức Maria[42]: trong phụng vụ Đức Maria được ca ngợi và được trình bày như là “Toà Đấng Khôn Ngoan”. Nơi Đức Maria, “những kỳ công của Thiên Chúa” mà Thần Khí sắp hoàn thành trong Đức Kitô và trong Hội Thánh, bắt đầu được biểu lộ.

Số 722. Chúa Thánh Thần đã dùng ân sủng của Ngài mà chuẩn bị Đức Maria. Mẹ của Đấng “nơi Người, tất cả sự viên mãn của thần tính hiện diện cách cụ thể” (Cl 2,9) tất phải “đầy ơn phúc”. Đức Maria đã được thụ thai, trong ân sủng thuần tuý, không hề có tội, với tư cách là người khiêm tốn nhất trong các thụ tạo, xứng đáng nhất trong mọi người để đón nhận hồng ân khôn tả của Đấng Toàn Năng. Thiên thần Gabriel chào Mẹ cách chính xác là “Con gái Sion”: “Kính mừng” (= “Mừng vui lên”)[43]. Chính Mẹ, trong bài thánh ca của mình[44], đã làm cho lời tạ ơn của toàn dân Thiên Chúa và của Hội Thánh lên tới Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần, khi Mẹ cưu mang nơi mình Chúa Con vĩnh cửu.

Số 723. Nơi Đức Maria, Chúa Thánh Thần thực hiện kế hoạch nhân ái của Chúa Cha. Bởi Chúa Thánh Thần, Đức Trinh Nữ đã thụ thai và sinh hạ Con Thiên Chúa. Sự đồng trinh mà vẫn sinh con của Mẹ là độc nhất vô nhị nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần và của đức tin[45].

Số 724. Nơi Đức Maria, Chúa Thánh Thần làm tỏ hiện Con của Chúa Cha đã trở thành Con của Đức Trinh Nữ. Mẹ là bụi gai bừng cháy của cuộc Thần hiện tối hậu: chính Mẹ, được đầy tràn Chúa Thánh Thần, tỏ cho thấy Ngôi Lời trong xác phàm khiêm hạ của Người, và làm cho những kẻ nghèo hèn[46] và những của đầu mùa của các dân tộc[47] nhận biết Người.

Số 725. Cuối cùng, qua Đức Maria, Chúa Thánh Thần bắt đầu làm cho được hiệp thông với Đức Kitô, những người là đối tượng của tình yêu nhân ái của Thiên Chúa (“những người thiện tâm” của Thiên Chúa[48]), và những người khiêm hạ luôn luôn là những người đầu tiên đón nhận Người: các mục đồng, các đạo sĩ, ông Simêon và bà Anna, cô dâu chú rể ở Cana và các môn đệ đầu tiên.

Số 726. Vào cuối sứ vụ này của Chúa Thánh Thần, Đức Maria trở nên “Người Đàn Bà”, bà Evà mới, “Mẹ của chúng sinh”, Mẹ của “Đức Kitô toàn thể” (“totius ChristiMater)[49]. Chính với tư cách này, Mẹ hiện diện với nhóm Mười Hai, “đồng tâm nhất trí chuyên cần cầu nguyện” (Cv 1,14), vào lúc bình minh của “thời đại cuối cùng” mà Thần Khí sắp khai mạc vào sáng ngày lễ Ngũ Tuần với việc làm tỏ hiện Hội Thánh.


Số 1846: Chúa Giêsu - Đấng Cứu Độ được mạc khải cho Thánh Giuse

Số 1846. Tin Mừng là sự mạc khải, trong Chúa Giêsu Kitô, lòng thương xót của Thiên Chúa đối với các tội nhân[50]. Thiên thần loan báo điều này cho ông Giuse: “Ông phải đặt tên con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ” (Mt 1,21). Cũng chính điều đó được nói đến trong Thánh Thể, bí tích của Ơn cứu chuộc: “Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội” (Mt 26,28).


Số 445, 648, 695: Tư cách Con Thiên Chúa của Đức Kitô trong sự Phục sinh của Người

Số 445. Sau khi Người phục sinh, tư cách Con Thiên Chúa của Đức Kitô tỏ rạng trong quyền năng của nhân tính được tôn vinh của Người. “Từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần, Người đã được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng” (Rm l,4)[51]. Các Tông Đồ có thể tuyên xưng: “Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga l,l4).

Số 648. Sự Phục Sinh của Đức Kitô là đối tượng của đức tin, vì đó là sự can thiệp siêu việt của chính Thiên Chúa trong công trình tạo dựng và trong lịch sử. Trong biến cố này, Ba Ngôi Thiên Chúa vừa cùng hoạt động chung, vừa biểu lộ tính cách riêng biệt của mỗi Ngôi. Sự Phục Sinh được thực hiện do quyền năng của Chúa Cha, Đấng “đã làm sống lại” (Cv 2,24) Đức Kitô, Con của Ngài, và bằng cách đó, Chúa Cha đưa nhân tính của Người, cùng với thân thể của Người, vào Ba Ngôi một cách hoàn hảo. Chúa Giêsu được mạc khải một cách vĩnh viễn là “Đấng đã từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần, Người đã được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng” (Rm 1,4). Thánh Phaolô nhấn mạnh đến việc Thiên Chúa biểu lộ quyền năng[52] qua hoạt động của Chúa Thánh Thần, Đấng làm cho nhân tính đã chết của Chúa Giêsu được sống lại và kêu gọi nhân tính đó vào trạng thái vinh hiển của Chúa.

Số 695. Sự xức dầu. Sự xức dầu cũng là một biểu tượng nói về Chúa Thánh Thần, đến độ từ này trở thành đồng nghĩa với Chúa Thánh Thần[53]. Trong nghi thức khai tâm Kitô giáo, việc xức dầu là dấu chỉ bí tích của phép Thêm Sức, mà các Giáo Hội Đông phương gọi cách chính xác là “Sự Xức dầu thánh” (“Christmatio”). Nhưng để hiểu thật rõ, phải trở lại với cuộc xức dầu đầu tiên bởi Chúa Thánh Thần: cuộc xức dầu cho Chúa Giêsu. “Kitô” (tiếng Do thái là Messia) có nghĩa là “người được xức dầu” bằng Thần Khí Thiên Chúa. Trong Cựu Ước, có một số nhân vật là “những người được xức dầu” của Chúa[54], nổi bật là vua Đavid[55]. Nhưng Chúa Giêsu là Đấng Được Xức Dầu của Thiên Chúa một cách độc nhất vô nhị: nhân tính mà Chúa Con đảm nhận, “được xức dầu bằng Chúa Thánh Thần” một cách trọn vẹn. Chúa Giêsu được Chúa Thánh Thần thiết đặt làm “Đức Kitô”[56]. Đức Trinh Nữ Maria thụ thai Đức Kitô bởi Chúa Thánh Thần, Đấng đã dùng Thiên thần loan báo rằng Người là Đức Kitô khi Người giáng sinh[57], và là Đấng thúc đẩy ông Simêon đen đền thờ để ông được thấy Đức Kitô của Chúa[58]; Đức Kitô được đầy Thánh Thần[59], và sức mạnh của Chúa Thánh Thần xuất phát từ Đức Kitô trong những hành vi chữa lành và cứu độ của Người[60]. Cuối cùng chính Chúa Thánh Thần làm cho Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết[61]. Lúc đó Chúa Giêsu, được thiết đặt làm Đức Kitô một cách trọn vẹn trong nhân tính đã chiến thắng sự chết của Người[62], tuôn đổ Chúa Thánh Thần cách tràn đầy cho đến khi “các Thánh”, trong sự kết hợp với nhân tính của Con Thiên Chúa, làm nên “con người trưởng thành tới tầm vóc viên mãn của Đức Kitô” (Ep 4,13), làm nên “Đức Kitô toàn thể” (“totum Christum”) theo cách nói của thánh Augustinô[63].


Số 143-149, 494, 2087: Sự vâng phục của đức tin

Số 143. Bằng đức tin, con người đem trí khôn và ý chí của mình quy phục Thiên Chúa cách trọn vẹn. Con người đặt trọn bản thân quy thuận Thiên Chúa, Đấng mạc khải[64]. Thánh Kinh gọi việc đáp lại này của con người đối với Thiên Chúa, Đấng mạc khải, là “sự vâng phục của đức tin”[65].

Sự vâng phục của đức tin

Số 144. Vâng phục (ob-audire: nghe, lắng nghe) bằng đức tin là tự nguyện quy thuận lời đã nghe, bởi vì chân lý của lời đó được Thiên Chúa là chính Chân Lý, bảo đảm. Thánh Kinh trưng dẫn tổ phụ Abraham như gương mẫu của sự vâng phục đó. Còn Đức Trinh Nữ Maria là người thể hiện sự vâng phục đó cách hoàn hảo.

Ông Abraham – “tổ phụ của tất cả những người tin”

Số 145. Thư gửi tín hữu Do thái, trong bài tán dương đức tin của các bậc tổ tiên, đã đặc biệt nhấn mạnh đến đức tin của ông Abraham: “Nhờ đức tin, ông Abraham đã vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ được lãnh nhận làm gia nghiệp, và ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu” (Dt 11,8)[66]. Nhờ đức tin, ông đã sống như kẻ mới nhập cư và người lữ hành trong Đất hứa[67]. Nhờ đức tin, bà Sara đã thụ thai người con của lời hứa. Cuối cùng, nhờ đức tin, ông Abraham đã dâng hiến con một mình làm hy lễ[68].

Số 146. Như vậy, ông Abraham đã thực hiện điều Thư gửi tín hữu Do thái định nghĩa về đức tin: “Đức tin là bảo đảm cho những điều hy vọng, là bằng chứng của những điều ta không thấy” (Dt 11,1). “Ông Abraham đã tin Thiên Chúa, và vì thế được kể là người công chính” (Rm 4,3)[69]. “Nhờ niềm tin, ông đã nên vững mạnh” (Rm 4,20), ông Abraham trở thành “tổ phụ của tất cả những người tin” (Rm 4,11.18)[70].

Số 147. Cựu Ước rất phong phú về các chứng từ của đức tin ấy. Thư gửi tín hữu Do thái tán tụng đức tin gương mẫu, “nhờ đức tin ấy, các tiền nhân đã được Thiên Chúa chứng giám” (Dt 11,2.39). Tuy nhiên, “Thiên Chúa đã trù liệu cho chúng ta một phần phúc tốt hơn”: đó là ơn được tin vào Con của Ngài, la “Chúa Giêsu, Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin” (Dt 11,40; 12,2).

Đức Maria – “Phúc thay người đã tin”

Số 148. Đức Trinh Nữ Maria thể hiện cách trọn hảo sự vâng phục của đức tin. Trong đức tin, Đức Maria đón nhận lời sứ thần Gabriel loan báo và đoan hứa, vì ngài tin rằng “đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37)[71], và ngài bày tỏ lòng quy phục: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38). Bà Êlisabét chào Đức Maria bằng những lời này: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Ngài đã nói với em” (Lc 1,45). Chính vì đức tin này mà Đức Maria sẽ được mọi đời khen là diễm phúc[72].

Số 149. Trong suốt cuộc đời của Đức Maria, và cho đến cuộc thử thách tột bậc[73], khi Chúa Giêsu Con ngài chết trên thập giá, đức tin của ngài đã không hề lay chuyển. Đức Maria không ngừng tin rằng lời Chúa sẽ “được thực hiện”. Vì vậy Hội Thánh tôn kính Đức Maria là người đã thể hiện đức tin một cách tinh tuyền nhất.

“Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói…”

Số 494. Khi được loan báo rằng, mặc dù không biết người nam, mình sẽ hạ sinh “Con Đấng Tối Cao”, bởi quyền năng Chúa Thánh Thần[74], Đức Maria tin chắc chắn rằng, đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được, nên với “sự vâng phục của đức tin”[75], Mẹ đã trả lời: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc l,37-38). Như vậy, khi nói lên sự ưng thuận của mình đối với lời Thiên Chúa, Đức Maria trở thành Mẹ Chúa Giêsu và với trọn tâm hồn, Mẹ chấp nhận ý định cứu độ của Thiên Chúa, mà không tội lỗi nào ngăn cản Mẹ, Mẹ tự hiến hoàn toàn cho con người và công trình của Con Mẹ, để, một cách tùy thuộc vào Người và cung với Người, nhờ ân sủng của Thiên Chúa, Mẹ phục vụ mầu nhiệm Cứu Chuộc[76].

Thánh Irênê nói: “Nhờ vâng phục, Đức Mẹ đã trở nên nguyên nhân ơn cứu độ cho chính mình và cho toàn thể nhân loại”[77]. Từ đó, cùng với thánh nhân, nhiều Giáo phụ xưa cũng giảng dạy rằng: “Nút dây do sự bất tuân của bà Evà thắt lại, nay được gỡ ra nhờ sự vâng phục của Đức Maria; điều mà trinh nữ Evà đã buộc lại do sự cứng lòng tin, Đức Trinh Nữ Maria đã tháo ra nhờ đức tin”[78]; và so sánh với bà Evà, các ngài gọi Đức Maria là “Mẹ chúng sinh”, và rất thường quả quyết rằng: “Sự chết qua bà Evà, sự sống qua Đức Maria”[79].

Đức tin

Số 2087. Đời sống luân lý của chúng ta bắt nguồn từ đức tin vào Thiên Chúa, Đấng mạc khải tình yêu của Ngài cho chúng ta. Thánh Phaolô nói đến sự vâng phục của đức tin[80] như là nghĩa vụ hàng đầu. Thánh nhân cho thấy rằng chính sự “không nhận biết Thiên Chúa” là nguyên nhân và lời giải thích cho mọi lệch lạc luân lý[81]. Bổn phận của chúng ta đối với Thiên Chúa là tin vào Ngài và làm chứng về Ngài.

 

Bài Ðọc I: Is 7, 10-14

"Này trinh nữ sẽ thụ thai".

Bài trích sách Tiên tri Isaia.

Ngày ấy, Chúa phán bảo vua Achaz rằng: "Hãy xin Thiên Chúa, Chúa ngươi, một dấu ở dưới lòng đất hay ở trên trời cao!" Nhưng vua Achaz thưa: "Tôi sẽ không xin, vì tôi không dám thử thách Chúa".

Và Isaia nói: "Vậy hãy nghe đây, hỡi nhà Ðavít, làm phiền lòng người ta chưa đủ ư, mà còn muốn làm phiền lòng Thiên Chúa nữa? Vì thế, chính Chúa sẽ cho các ngươi một dấu: này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai, và tên con trẻ sẽ gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp: Chúa ngự qua, chính Ngài là Hoàng Ðế hiển vinh.

Xướng: 1) Chúa là chủ trái đất và mọi vật làm sung mãn nó, chủ địa cầu và muôn loài cư trú ở trong. Vì chính Ngài xây dựng nó trên biển cả, và Ngài giữ vững nó trên chỗ nước nguồn.

Ðáp: Chúa ngự qua, chính Ngài là Hoàng Ðế hiển vinh.

2) Ai khá trèo lên cao sơn của Chúa, ai được đứng trong nơi thánh của Ngài? Người tay vô tội và lòng thanh khiết, người không để lòng xu hướng bả phù hoa.

Ðáp: Chúa ngự qua, chính Ngài là Hoàng Ðế hiển vinh

3) Người đó sẽ được Chúa chúc phúc cho, và được Thiên Chúa là Ðấng cứu độ ban ân thưởng. Ðó là dòng dõi người tìm kiếm Chúa, người tìm long nhan Thiên Chúa nhà Giacóp.

 Ðáp: Chúa ngự qua, chính Ngài là Hoàng Ðế hiển vinh

 

Bài Ðọc II: Rm 1, 1-7

"Ðức Giêsu, thuộc dòng dõi vua Ðavít, là Con Thiên Chúa".

Bài trích thơ Thánh Phaolô Tông đồ gởi tín hữu Rôma.

Phaolô, tôi tớ Chúa Giêsu Kitô, đã được kêu gọi làm Tông đồ và đã được tuyển chọn để rao giảng tin mừng Thiên Chúa. Tin mừng ấy Thiên Chúa đã hứa trước bằng lời các tiên tri trong Kinh Thánh về Con của Người; Người đã sinh ra theo huyết nhục bởi dòng dõi Ðavít, đã được tiền định là Con Thiên Chúa quyền năng theo Thánh Thần, đã sống lại từ cõi chết. Ðó chính là Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, nhờ Người, chúng tôi đã nhận ân sủng và chức vụ tông đồ, để nhân danh Người, chúng tôi quy phục mọi dân tộc về Ðức Tin, trong đó có cả anh em là những người mà Chúa Giêsu đã kêu gọi.

Tôi chúc tất cả mọi người trong thành Rôma được Thiên Chúa yêu mến và kêu gọi nên thánh, được ân sủng và bình an của Thiên Chúa là Cha chúng ta, và của Ðức Giêsu Kitô là Chúa chúng ta.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Mt 1, 21

Alleluia, alleluia! - Này đây trinh nữ sẽ mang thai, hạ sinh một con trai, và người ta sẽ gọi tên Người là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa-ở-cùng-chúng ta. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 1, 18-24

"Chúa Giêsu sinh ra bởi Ðức Maria, đính hôn với Thánh Giuse con vua Ðavít".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse, bạn của bà, là người công chính, không muốn tố cáo bà, định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo.

Nhưng đang khi định tâm như vậy thì thiên thần Chúa hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: "Hỡi Giuse, con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần: bà sẽ hạ sinh một con trai mà ông sẽ đặt tên là Giêsu: vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội".

Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng Tiên tri phán xưa rằng: "Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta".

Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền: ông tiếp nhận bạn mình, nhưng không ăn ở với nhau cho đến khi Maria sinh con trai đầu lòng, thì Giuse đặt tên con trẻ là Giêsu.

Ðó là lời Chúa.

__________

[1] X. Mt 13,55.

[2] X. CĐ Êphêsô, Epistula II Cyrilli Alexandrini ad Nestorium: DS 251.

[3] X. DS 10-64.

[4] CĐ Latêranô (năm 649), Canon 3: DS 503.

[5] X. Rm 1,3.

[6] X. Ga 1,13.

[7] Thánh Ignatiô Antiôchia, Epistula ad Smyrnaeos, 1-2: SC 10bis, 132-134 (Funk 1, 274-276).

[8] X. Mt 1,18-25; Lc 1,26-38.

[9] X. Lc 1,34.

[10] X. Thánh Justinô, Dialogus cum Triphone Iudaeo, 66-67: CA 2, 234-236 (PG 6, 628-629); Origiênê, Contra Celsum, 1,32: SC 132, 162-164 (PG 8, 720-724); Ibid., 1, 69: SC 132, 270 (PG 8,788-789).

[11] CĐ Vaticanô I, Hiến chế tín lý Dei Filius, c. 4: DS 3016.

[12] Thánh Ignatiô Antiôchia, Epistula ad Ephesos, 19,1: SC 10bis, 74 (Funk 1, 228); x. 1 Cr 2,8.

[13] X. CĐ Constantinôpôli II, Sess. 8a, Canon 6: DS 427.

[14] X. Thánh Lêô Cả, Tomus ad Flavianum: DS 291; Ibid.: DS 294; Pelagius I, Epistula Humani Generis: DS 442; CĐ Latêranô, Canon 3: DS 503; CĐ Tôlêđô XVI, : DS 571; ĐGH Phaolô IV, Tông hiến Cum quorumdam hominum: DS 1880.

[15] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 57: AAS 57 (1965) 61.

[16] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 52: AAS 57 (1965) 58.

[17] X. Mc 3,3l-35; 6,3; l Cr 9,5; Gl 1,19.

[18] X. Mt 27,56.

[19] X. St l3,8; l4,l6; 29,l5 v.v….

[20] X. Ga 19,26-27; Kh 12,17.

[21] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 63: AAS 57 (1965) 64.

[22] X. Lc 2,48-49.

[23] CĐ Frioul (năm 796 hoặc 797), : DS 619.

[24] X. 1 Cr 15,45.

[25] X. Cl 1,18.

[26] X. Ga 3,9.

[27] X. 2 Cr 11,2.

[28] X. CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 63: AAS 57 (1965) 64.

[29] X. l Cr 7,34-35.

[30] Thánh Augustinô, De sancta virginitate 3, 3: CSEL 41, 237( PG 40, 398).

[31] X. CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 63: AAS 57 (1965) 64.

[32] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 64: AAS 57 (1965) 64.

[33] X. Lc 1,35.

[34] X. Rm l,3; 2 Tm 2,8; Kh 22,l6.

[35] DS 150.

[36] X. Ga 16,14-15.

[37] X. Mt 1,20; Lc 1,35.

[38] X. Lc 2,8-20.

[39] X. Mt 2,1-12.

[40] X. Ga 1,31-34.

[41] X. Ga 2,11.

[42] X. Cn 8,1- 9,6; Hc 24.

[43] X. Sp 3,14; Dcr 2,14.

[44] X. Lc 1,46-55.

[45] X. Lc 1,26-38; Rm 4,18-21; Gl 4,26-28.

[46] X. Lc 2,15-19.

[47] X. Mt 2,11.

[48] X. Lc 2,14.

[49] X. Ga 19,25-27.

[50] X. Lc 15.

[51] X. Cv 13,33.

[52] X. Rm 6,4; 2 Cr 13,4; Pl 3,10; Ep 1,19-22; Dt 7,16.

[53] X. 1 Ga 2,20.27; 2 Cr 1,21.

[54] X. Xh 30,22-32.

[55] X. 1 Sm 16,13.

[56] X. Lc 4,18-19; Is 61,1.

[57] X. Lc 2,11.

[58] X. Lc 2,26-27.

[59] X. Lc 4,1.

[60] X. Lc 6,19; 8,46.

[61] X. Rm 1,4; 8,11.

[62] X. Cv 2,36.

[63] Thánh Augustinô, Sermo 341,1,1: PL 39, 1493; Ibid. 9,11: PL 34, 1499.

[64] X. CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum 5: AAS 58 (1966) 819.

[65] X. Rm l,5; 16,26.

[66] X. St 12,1-4.

[67] X. St 23,4.

[68] X. Dt 11,17.

[69] X. St 15,6.

[70] X. St 15,5.

[71] X. St 18,14.

[72] X. Lc 1,48.

[73] X. Lc 2,35.

[74] X. Lc l,28-37.

[75] X. Rm 1,5.

[76] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 56: AAS 57 (1965) 60-61.

[77] Thánh Irênê, Adversus haereses, 3, 22, 4: SC 211, 440 (PG 7, 959).

[78] X. Thánh Irênê, Adversus haereses, 3, 22, 4: SC 211, 442-444 (PG 7, 959-960).

[79] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 56: AAS 57 (1965) 60-61.

[80] X. Rm 1,5; 16,26.

[81] X. Rm 1,18-32.