Số 153-165, 2087-2089: Đức tin

Số 84: Kho tàng đức tin được giao phó cho Hội thánh

Số 91-93: Cảm thức siêu nhiên về đức tin

Bài Ðọc I: Kb 1, 2-3; 2, 2-4

Bài Ðọc II: 2Tm 1, 6-8, 13-14

Phúc Âm: Lc 17, 5-10

 

Số 153-165, 2087-2089: Đức tin

Số 153. Khi thánh Phêrô tuyên xưng Chúa Giêsu là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, Chúa Giêsu nói với ông rằng không phải huyết nhục mạc khải cho ông điều ấy, nhưng là Cha của Người, “Đấng ngự trên trời” (Mt 16,17)[1]. Đức tin là một hồng ân của Thiên Chúa, là một nhân đức siêu nhiên do Thiên Chúa tuôn ban. “Để có được đức tin này, cần có ân sủng Thiên Chúa đến trước giúp đỡ và sự trợ giúp bên trong của Chúa Thánh Thần: Ngài đánh động và quy hướng con tim về cùng Thiên Chúa, Ngài mở mắt lý trí và cho ‘mọi người cảm thấy dịu ngọt khi ưng thuận và tin vào chân lý’”[2].

Đức tin là một hành vi nhân linh

Số 154. Chỉ có thể tin nhờ ân sủng và những trợ giúp nội tâm của Chúa Thánh Thần. Tuy nhiên, tin vẫn thật sự là một hành vi nhân linh. Tin vào Thiên Chúa và gắn bó với những chân lý do Ngài mạc khải không đi ngược với tự do và trí khôn con người. Ngay trong các giao tiếp giữa người với người, không có gì đi ngược với phẩm giá của chúng ta khi chúng ta tin những gì người khác nói về bản thân họ hoặc ý định của họ, và khi tin vào những lời hứa của họ (chẳng hạn những cam kết hôn nhân), và như vậy con người có thể hiệp thông với nhau. Do đó, càng không có gì đi ngược với phẩm giá của chúng ta, khi chúng ta “bằng đức tin, dâng lên Thiên Chúa, Đấng mạc khải, sự quy phục trọn vẹn của lý trí và ý chí”[3], và như vậy, chúng ta được hiệp thông thân mật với Ngài.

Số 155. Trong đức tin, lý trí và ý chí con người cộng tác với ân sủng của Thiên Chúa: “Tin là một hành vi của lý trí chấp nhận chân lý của Thiên Chúa theo lệnh của ý chí được Thiên Chúa tác động nhờ ân sủng”[4].

Đức tin và lý trí

Số 156. Động lực khiến chúng ta tin không phải là vì các chân lý được mạc khải tỏ hiện là xác thật và có thể hiểu được đối với ánh sáng của lý trí tự nhiên của chúng ta. Chúng ta tin “vì uy quyền của chính Thiên Chúa, Đấng mạc khải, Đấng không thể sai lầm cũng như không thể lừa dối chúng ta”[5]. “Tuy nhiên, để đức tin của chúng ta ‘quy phục phù hợp với lý trí’, Thiên Chúa đã muốn có những bằng chứng bên ngoài về mạc khải của Ngài kèm theo sự trợ giúp bên trong của Chúa Thánh Thần”[6]. Chẳng hạn, các phép lạ của Đức Kitô và của các Thánh[7], các lời tiên tri, sự phát triển và thánh thiện cũng như sự phong phú và vững bền của Hội Thánh, đó “là những dấu chỉ chắc chắn nhất của mạc khải của Thiên Chúa, những dấu chỉ đó phù hợp với lý trí của mọi người”[8], đó là những động lực khiến chúng ta tin, những động lực đó cho thấy “sự ưng thuận của đức tin hoàn toàn không phải là một hành vi mù quáng của tâm trí”[9].

Số 157. Đức tin thì chắc chắn, chắc chắn hơn mọi hiểu biết phàm nhân, bởi vì đức tin dựa trên chính Lời của Thiên Chúa, Đấng không thể nói dối. Các chân lý được mạc khải có thể bị coi là tối tăm đối với cả lý trí lẫn kinh nghiệm phàm nhân, nhưng “sự chắc chắn nhờ ánh sáng của Thiên Chúa thì lớn hơn sự chắc chắn nhờ ánh sáng của lý trí tự nhiên”[10]. “Mười ngàn nỗi khó khăn không làm thành một sự hồ nghi”[11].

Số 158. “Đức tin tìm hiểu biết[12]: gắn liền với đức tin là việc người tin muốn biết rõ hơn về Đấng mình đã tin và hiểu rõ hơn về điều Ngài đã mạc khải; về phần mình, một hiểu biết sâu xa hơn sẽ dẫn đến một đức tin lớn lao hơn, luôn thấm đượm tình yêu hơn. Ơn đức tin mở “con mắt của trái tim” (Ep 1,18) để có một hiểu biết sống động về các nội dung của mạc khải, nghĩa là về toàn bộ kế hoạch của Thiên Chúa và các mầu nhiệm đức tin, tương quan giữa các mầu nhiệm với nhau và với Đức Kitô, tâm điểm của các mầu nhiệm được mạc khải. “Và để người ta hiểu biết mạc khải sâu xa thêm mãi…, Chúa Thánh Thần không ngừng ban các hồng ân mà kiện toàn đức tin”[13]. Đúng như câu châm ngôn của thánh Augustinô: “Bạn hãy hiểu để tin; bạn hãy tin để hiểu”[14].

Số 159. Đức tin và khoa học. “Mặc dù đức tin vượt trên lý trí, nhưng không bao giờ có thể có mâu thuẫn thật sự giữa đức tin và lý trí: vì cùng một Thiên Chúa, Đấng mạc khải các mầu nhiệm và tuôn đổ đức tin, cũng là Đấng ban ánh sáng lý trí cho tâm hồn con người, mà Thiên Chúa không thể tự phủ nhận chính mình Ngài, cũng như điều chân thật không bao giờ nghịch lại điều chân thật”[15]. “Bởi vậy, việc nghiên cứu có phương pháp trong mọi ngành, nếu được tiến hành một cách thật sự khoa học và theo đung các chuẩn mực luân lý, sẽ không bao giờ thật sự đối nghịch với đức tin, bởi vì các thực tại trần thế và các thực tại đức tin đều có nguồn gốc là bởi cùng một Thiên Chúa. Hơn nữa, ai khiêm tốn và kiên nhẫn cố gắng nghiên cứu những bí ẩn của các sự vật, thì mặc dù họ không ý thức, họ vẫn như được dẫn đưa bởi bàn tay của Thiên Chúa, Đấng đang nâng đỡ vạn vật, Ngài làm cho hiện hữu những gì đang hiện hữu”[16].

Đức tin là một hành vi tự do

Số 160. Để việc đáp lại của đức tin là một hành vi nhân linh, “con người phải đáp lại Thiên Chúa bằng việc tin một cách tự nguyện. Do đó, không được cưỡng ép ai phải chấp nhận đức tin trái với ý muốn của họ. Thật vậy, tự bản chất của nó, đức tin là một hành vi tự nguyện”[17]. “Thiên Chúa mời gọi con người phục vụ Ngài trong tinh thần và chân lý; con người phải theo lương tâm đáp lại lời mời gọi ấy, nhưng không bị ép buộc…. Điều này ta thấy rõ ràng nhất nơi Đức Kitô”[18]. Thật vậy, Đức Kitô mời gọi người ta tin và hối cải, nhưng Người không hề cưỡng ép ai. “Người đã làm chứng cho chân lý, nhưng không muốn dùng sức mạnh để áp đặt chân lý đối với những kẻ chống đối. Nước Người … tăng triển bằng tình yêu, tình yêu đó là Đức Kitô đã chịu giương cao trên thập giá để lôi kéo người ta đến với mình”[19].

Sự cần thiết của đức tin

Số 161. Tin vào Chúa Giêsu Kitô và Đấng đã sai Người đến cứu độ chúng ta, là điều cần thiết để đạt được ơn cứu độ đó.[20] “Mà ‘không có đức tin, thì không thể đẹp lòng Thiên Chúa’ (Dt 11,6) và cũng không thể đạt tới chức vị làm con cái Thiên Chúa, nên không ai được công chính hóa nếu không có đức tin, và không ai đạt tới cuộc sống muôn đời nếu không ‘bền chí đến cùng’ (Mt 10,22; 24,13) trong đức tin”[21].

Sự kiên trì trong đức tin

Số 162. Đức tin là một hồng ân nhưng không, Thiên Chúa ban tặng cho con người. Chúng ta có thể đánh mất hồng ân vô giá đó. Thánh Phaolô cảnh giác ông Timôthê về nguy cơ này: “Đây là chỉ thị tôi trao cho anh … để anh dựa vào đó mà chiến đấu trong cuộc chiến cao đẹp này, với đức tin và lương tâm ngay thẳng. Một số người đã vứt bỏ lương tâm ngay thẳng đó, nên đức tin của họ đã bị chết chìm” (1 Tm 1,18-19). Để sống, lớn lên và kiên trì đến cùng trong đức tin, chúng ta phải nuôi dưỡng đức tin bằng Lời Thiên Chúa; chúng ta phải cầu xin Chúa gia tăng đức tin cho chúng ta[22]; đức tin ấy phải hành động “nhờ đức mến” (Gl 5, 6)[23], phải được nâng đỡ bằng đức cậy[24] và phải đâm rễ trong đức tin của Hội Thánh.

Đức tin – khởi đầu của sự sống muôn đời

Số 163. Đức tin làm cho chúng ta như được nếm trước niềm hoan lạc và ánh sáng của ơn hưởng kiến hồng phúc (visio beatifica), ơn đó là mục đích của cuộc lữ hành trần gian này của chúng ta. Lúc đó chúng ta sẽ nhìn thấy Thiên Chúa “mặt giáp mặt” (1 Cr 13,12), và “Ngài thế nào chúng ta sẽ thấy Ngài như vậy” (1 Ga 3,2). Vì vậy đức tin đã là khởi đầu của sự sống muôn đời:

“Khi chúng ta chiêm ngưỡng, như nhìn trong gương, ân sủng là những điều thiện hảo còn xa vời được hứa ban cho chúng ta, mà nhờ đức tin chúng ta mong chờ được hưởng, thì y như những điều đó đã có đây rồi”[25].

Số 164. Tuy nhiên, hiện giờ chúng ta “tiến bước nhờ lòng tin chứ không phải nhờ được thấy Chúa” (2 Cr 5,7), và chúng ta nhận biết Thiên Chúa “lờ mờ như trong một tấm gương, có ngần, có hạn” (1 Cr 13,12). Mặc dù đức tin sáng tỏ nhờ Đấng chúng ta tin, nhưng đời sống đức tin lại thường tối tăm. Đức tin có thể bị thử thách. Trần gian mà chúng ta đang sống thường được coi như xa vời với những gì đức tin tuyên xưng; những kinh nghiệm về sự dữ và đau khổ, về những bất công và cái chết, dường như mâu thuẫn với Tin Mừng; những điều đó có thể làm cho đức tin bị nao núng và trở thành một cám dỗ đối với đức tin.

Số 165. Chính lúc đó chúng ta phải hướng về các nhân chứng đức tin: về ông Abraham, là người “mặc dầu không còn gì để trông cậy, ông vẫn trông cậy và vững tin” (Rm 4,18); về Đức Trinh Nữ Maria, là người, “trong cuộc lữ hành đức tin”[26], đã tiến đến tận “đêm tối của đức tin”[27] khi tham dự vào đêm tối là cuộc khổ hình thập giá của Con ngài, và đêm tối là phần mộ của Người[28]; và chúng ta phải hướng về biết bao nhiêu nhân chứng đức tin khác nữa: “Được ngần ấy nhân chứng đức tin như đám mây bao quanh, chúng ta hãy cởi bỏ mọi gánh nặng và tội lỗi đang trói buộc mình, và hãy kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho ta, mắt hướng về Chúa Giêsu là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin” (Dt 12,1-2).

Số 2087. Đời sống luân lý của chúng ta bắt nguồn từ đức tin vào Thiên Chúa, Đấng mạc khải tình yêu của Ngài cho chúng ta. Thánh Phaolô nói đến sự vâng phục của đức tin[29] như là nghĩa vụ hàng đầu. Thánh nhân cho thấy rằng chính sự “không nhận biết Thiên Chúa” là nguyên nhân và lời giải thích cho mọi lệch lạc luân lý[30]. Bổn phận của chúng ta đối với Thiên Chúa là tin vào Ngài và làm chứng về Ngài.

Số 2088. Điều răn thứ nhất đòi hỏi chúng ta, một cách khôn ngoan và tỉnh thức, phải nuôi dưỡng và giữ gìn đức tin của chúng ta, và phải loại bỏ tất cả những gì nghịch với đức tin. Có nhiều cách phạm tội nghịch với đức tin:

Cố tình nghi ngờ trong lãnh vực đức tin là tội thờ ơ hay không nhìn nhận những điều Thiên Chúa đã mạc khải và Hội Thánh dạy phải tin, là chân thật. Vô tình nghi ngờ là sự do dự khi tin, là sự khó khăn khi vượt qua những vấn nạn về đức tin hay thậm chí sự lo lắng do bóng tối của đức tin gợi lên. Sự nghi ngờ, nếu được cổ võ cách có chủ ý, có thể dẫn tới sự mù quáng của tâm trí.

Số 2089. Sự vô tín là thờ ơ với chân lý mạc khải hay cố tình từ chối chấp nhận chân lý đó. “Lạc giáo là ngoan cố chối bỏ một chân lý phải tin với đức tin đối thần và Công giáo hoặc ngoan cố hồ nghi về chân lý ấy sau khi đã lãnh nhận bí tích Rửa Tội; bội giáo là chối bỏ toàn bộ đức tin Kitô giáo; ly giáo là từ chối vâng phục Đức Giáo Hoàng hoặc từ chối hiệp thông với các chi thể của Hội Thánh thuộc quyền ngài”[31].

 

Số 84: Kho tàng đức tin được giao phó cho Hội thánh

Số 84. “Kho tàng đức tin” (Depositum fidei)[32], chứa đựng trong Thánh Truyền và Thánh Kinh, đã được giao phó cho toàn thể Hội Thánh nhờ các Tông Đồ. “Khi gắn bó với kho tàng ấy, toàn thể dân thánh, quy tụ quanh các vị chủ chăn, chuyên cần với giáo huấn của các Tông Đồ, với tình hiệp thông, với việc bẻ bánh và kinh nguyện, nên giữa các thủ lãnh và các tín hữu có sự nhất trí lạ lùng trong việc nắm giữ, thực hành và tuyên xưng đức tin đã được truyền lại”[33].

 

Số 91-93: Cảm thức siêu nhiên về đức tin

Số 91. Mọi Kitô hữu đều tham dự vào ơn hiểu biết và việc lưu truyền chân lý mạc khải. Họ được xức dầu bằng Chúa Thánh Thần, là Đấng dạy dỗ họ[34] và dẫn họ “tới sự thật toàn vẹn” (Ga 16,13).

Số 92. “Toàn thể các tín hữu… không thể sai lầm trong đức tin. Họ biểu lộ phẩm tính đặc biệt ấy nhờ cảm thức siêu nhiên về đức tin của toàn thể dân Chúa, khi ‘từ các Giám mục cho đến những giáo dân rốt hết’ đều đồng ý cách phổ quát về những điều liên quan đến đức tin và phong hóa”[35].

Số 93. “Thật vậy, nhờ cảm thức về đức tin được Thánh Thần chân lý khơi dậy và nâng đỡ, và dưới sự hướng dẫn của Huấn quyền, dân Thiên Chúa gắn bó cách kiên trì với đức tin đã được lưu truyền duy chỉ một lần cho các Thánh, hiểu biết đức tin ấy cách sâu sắc hơn nhờ suy xét đúng, và áp dụng đức tin ấy cách đầy đủ hơn trong đời sống”[36].

 

Bài Ðọc I: Kb 1, 2-3; 2, 2-4

“Người công chính sẽ sống được nhờ trung tín”.

Trích sách Tiên tri Khabacúc.

Lạy Chúa, con kêu cầu Chúa cho đến bao giờ mà Chúa không nghe? Con phải ức ép kêu lên cùng Chúa, mà Chúa không cứu con sao? Cớ sao Chúa tỏ cho con thấy sự gian ác và lao khổ, cướp bóc và bất lương trước mặt con? Dù có công lý, nhưng kẻ đối nghịch vẫn thắng.

Chúa đáp lại tôi rằng: “Hãy chép điều con thấy, hãy khắc nó vào tấm bảng, để đọc được dễ dàng. Bởi hình lạ còn xa, nó sẽ xuất hiện trong thời sau hết, và sẽ chẳng hư không. Nó kết duyên với ngươi, hãy chờ đợi nó, vì nó sẽ đến không trì hoãn. Chắc chắn nó sẽ đến, không sai. Người không có lòng ngay thì ngã gục, nhưng người công chính sẽ sống nhờ trung tín”.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 94, 1-2. 6-7. 8-9

Ðáp: Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: “Các ngươi đừng cứng lòng!”

Xướng: 1) Hãy tới, chúng ta hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hô Ðá Tảng cứu độ của ta! Hãy ra trước thiên nhan với lời ca ngợi, chúng ta hãy xướng ca để hoan hô Người.

Ðáp: Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: “Các ngươi đừng cứng lòng!”

2) Hãy tiến lên, cúc cung bái và sụp lạy; hãy quỳ gối trước nhan Chúa, Ðấng tạo thành ta. Vì chính Người là Thiên Chúa của ta, và ta là dân Người chăn dẫn, là đoàn chiên thuộc ở tay Người.

Ðáp: Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: “Các ngươi đừng cứng lòng!”

3) Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: “Ðừng cứng lòng như ở Meriba, như hôm ở Massa trong khu rừng vắng, nơi mà cha ông các ngươi đã thử thách Ta; họ đã thử Ta mặc dầu đã thấy công cuộc của Ta.

Ðáp: Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: “Các ngươi đừng cứng lòng!”

 

Bài Ðọc II: 2Tm 1, 6-8, 13-14

“Con chớ hổ thẹn làm chứng cho Chúa chúng ta”.

Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi cho Timôthê.

Con thân mến, cha khuyên con hãy làm sống lại ơn Thiên Chúa đã ban cho con do việc đặt tay của cha. Vì chưng, Thiên Chúa không ban cho chúng ta một thần khí nhát sợ, mà là thần khí dũng mạnh, bác ái và tiết độ. Vậy con chớ hổ thẹn làm chứng cho Chúa chúng ta, và cho cha nữa, là tù nhân của Người, nhưng con hãy đồng lao cộng tác với cha vì Tin Mừng, nhờ quyền năng của Thiên Chúa.

Con hãy lấy những lời lành lẽ phải, con đã nghe cha nói, làm mẫu mực trong đức tin và lòng mến nơi Ðức Giêsu Kitô. Con hãy cậy nhờ Thánh Thần là Ðấng ngự trong chúng ta mà gìn giữ kho tàng tốt đẹp.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Ga 10,27

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: “Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta: Ta biết chúng và chúng theo Ta”. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 17, 5-10

“Nếu các con có lòng tin”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, các Tông đồ thưa với Chúa Giêsu rằng: “Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con”. Chúa liền phán rằng: “Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải, thì dẫu các con khiến cây dâu này rằng: ‘Hãy bứng rễ lên mà đi trồng dưới biển’, nó liền vâng lời các con.

“Ai trong các con có người đầy tớ cày bừa hay chăn súc vật ngoài đồng trở về, liền bảo nó rằng: ‘Mau lên, hãy vào bàn dùng bữa’, mà trái lại không bảo nó rằng: ‘Hãy lo dọn bữa tối cho ta, hãy thắt lưng và hầu hạ ta cho đến khi ta ăn uống đã, sau đó ngươi mới ăn uống’. Chớ thì chủ nhà có phải mang ơn người đầy tớ, vì nó đã làm theo lệnh ông dạy không? Thầy nghĩ rằng: Không. Phần các con cũng vậy, khi các con làm xong mọi điều đã truyền dạy các con, thì các con hãy nói rằng: ‘Chúng tôi là đầy tớ vô dụng, vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm’”.

Ðó là lời Chúa.

 

[1] X. Gl 1,15-16; Mt 11,25.

[2] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum 5: AAS 58 (1966) 819.

[3] CĐ Vaticanô I, Hiến chế tín lý Dei Filius, c. 3: DS 3008.

[4] Thánh Tôma Aquinô, Summa theologiae, II-II, q. 2, a. 9, c: Ed. Leon. 8, 37; x. CĐ Vaticanô I, Hiến chế tín lý Dei Filius, c. 3: DS 3010.

[5] CĐ Vaticanô I, Hiến chế tín lý Dei Filius, c. 3: DS 3008.

[6] CĐ Vaticanô I, Hiến chế tín lý Dei Filius, c. 3: DS 3009.

[7] X. Mc 16,20; Dt 2,4.

[8] CĐ Vaticanô I, Hiến chế tín lý Dei Filius, c. 3: DS 3009.

[9] CĐ Vaticanô I, Hiến chế tín lý Dei Filius, c. 3: DS 3010.

[10] Thánh Tôma Aquinô, Summa theologiae, II-II, q. 171, a.5, 3um: Ed. Leon. 10, 373.

[11] John Henry Newman, Apologia pro vitasua, c. 5, Ed. M.J. Svaglic (Oxford 1967) 210.

[12] Thánh Anselmô, Proslogion, Prooemium: Opera omnia, ed. F.S. Schmitt, v. 1 (Edinburghi 1946) 94.

[13] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum 5: AAS 58 (1966) 819.

[14] Thánh Augustinô, Sermo, 43, 7, 9: CCL 41, 512 (PL 38, 258).

[15] CĐ Vaticanô I, Hiến chế tín lý Dei Filius, c. 4: DS 3017.

[16] CĐ Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 36: AAS 58 (1966) 1054.

[17] CĐ Vaticanô II, Tuyên ngôn Dignitatis humanae, 10: AAS 58 (1966) 936; X. Bộ Giáo Luật, điều 748, 2.

[18] CĐ Vaticanô II, Tuyên ngôn Dignitatis humanae, 11: AAS 58 (1966) 936.

[19] CĐ Vaticanô II, Tuyên ngôn Dignitatis humanae, 11: AAS 58 (1966) 937.

[20] X. Mc 16,16; Ga 3,36; 6,40.

[21] CĐ Vaticanô I, Hiến chế tín lý Dei Filius, c. 3: DS 3012; x. CĐ Triđentinô, Sess. 6a, Decretum de iustificatione, c. 8: DS 1532.

[22] X. Mc 9,24; Lc 17,5; 22,32.

[23] X. Gc 2,14-26.

[24] X. Rm 15,13.

[25] Thánh Basiliô Cả, Liber de Spiritu Sancto, 15, 36: SC 17bis, 370 (PG 32,132); x. Thánh Tôma Aquinô, Summa theologiae, II-II, q. 4, a. 1, c: Ed. Leon. 8, 44.

[26] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 58: AAS 57 (1965) 61.

[27] X. ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Mater, 17: AAS 79 (1987) 381.

[28] X. ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Mater, 18: AAS 79 (1987) 382-383.

[29] X. Rm 1,5; 16,26.

[30] X. Rm 1,18-32.

[31] Bộ Giáo Luật, điều 751.

[32] X. 1 Tm 6,20; 2 Tm 1,12-14.

[33] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 10: AAS 58 (1966) 822.

[34] X. 1 Ga 2,20.27.

[35] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 12: AAS 57 (1965) 16.

[36] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 12: AAS 57 (1965) 16.