GIÁO HỘI MÀ GIỚI TRẺ ĐANG MONG ĐỢI
WHĐ (30.10.2021) – Có lẽ nhiều người trong Giáo hội sẽ ngỡ
ngàng khi nhận được Christus vivit.
Tông huấn bày ra nhiều điều không tốt đẹp mấy trong mục vụ giới trẻ (x. số 37,
38, 40, 41, 65, 66). Có những đoạn chỉ ra sự lỗi phạm và sai trệch của Giáo hội
một cách không thương tiếc (x. số 75, 95, 208). Như thể, Giáo hội thất bại với
mục vụ giới trẻ (x. số 216). Nhưng thật sự, ta phải nói tìm được một Giáo hội lắng
nghe giới trẻ là một chặng đường rất dài. Khi tuyên bố một Thượng Hội đồng Giám
mục bàn về những người trẻ trong chặng đường khám phá đức tin và ơn gọi của họ,
Đức Phanxicô đã chẳng khiến nhiều người sửng sốt hay sao?
Thực ra mà nói, ngài chỉ tiếp nối cách cụ thể lối đường của
Vatican II đã được bộc lộ trong sứ điệp của Công đồng gửi giới trẻ. Thành phần
mà Vatican II coi là thân thiết xem ra như bị bỏ quên suốt 50 năm!!! “Chính cho
các bạn trẻ một cách đặc biệt mà bây giờ Giáo hội qua Công đồng nhen lên ánh
sáng của các bạn, ánh sáng soi sáng tương lai, tương lai của các bạn.”[1]
Theo ngôn ngữ của Đức Gioan Phaolô, Giáo hội xác tín mình có
nhiều điều để nói với giới trẻ cũng như giới trẻ có nhiều điều để nói cho Giáo
hội. Nhưng dường như vẫn là hai đường ray không gặp nhau.[2]
Nay với Thượng Hội đồng Giám mục này, những người trẻ tụ họp quanh Đức Phanxicô
để bộc bạch chính mình và để Mẹ Giáo hội có thể ngỏ lời cho những người con sống
động nhưng đang gặp nhiều khó khăn, và ngay cả muốn rời xa người mẹ nữa.[3]
Bài viết này như một gợi ý để cùng nhau đem những hướng dẫn
của Christus vivit đi vào mục vụ. Một
cách sơ lược bài viết này phác họa bức
tranh của những người trẻ tại Việt Nam và những mong chờ của họ đối với Giáo hội.
Đoạn mở ra một định hướng thần học mang tính mục vụ hơn là một thần học suy lý.
Nhờ đó ta có thể thấy cần phải trình bày một Giáo hội nào cho giới trẻ tại Việt
nam hôm nay, dựa theo Christus vivit.
1. Hiện trạng giới trẻ tại Việt Nam 2. Thần học vững chắc định hướng mục vụ |
1. Hiện trạng giới trẻ tại Việt Nam
Khi nhìn vào giới trẻ, nguy cơ về một khái niệm trừu tượng
hiện lên. Vì thế, Đức Phanxicô nhắc nhớ ngay: “Giới trẻ không phải là cái gì đó
được phân tích trừu tượng. Thực vậy, ‘giới trẻ' không hiện hữu: chỉ có những
người trẻ, mỗi người với thực tại là cuộc sống của chính mình” (số 71).[4] Bức tranh giới trẻ tổng quát
được áp dụng cho mọi nơi quả thật không có. Ngay cả dưới diện nhân khẩu học
(demographic), những người trẻ thật khác xa nhau (x. 69). Đúng hơn, những người
trẻ có những câu chuyện và lịch sử cuộc đời riêng. Chúng có một bộ mặt và một
tên riêng.[5]
Nếu vậy, chúng ta thấy gì nơi những người trẻ tại Việt Nam?
Họ đang thao thức và ước mơ gì? Những câu hỏi ấy chắc chắn sẽ phải đặt ra.
Nhưng trên hết ta cần xác định thái độ nhìn vào thực tại của chúng ta. Phải
chăng với cái nhìn bi quan? Lạc quan? Cả hai đều không đúng.[6] Chỉ có một cái nhìn chân
chính thích đáng: nhìn như Đức Giêsu nhìn, nhìn như Chúa Cha nhìn khi tạo dựng
người trẻ. Đó là những “đất thánh” mà ta phải cởi bỏ dép để đi vào. (x. số 67)[7] Nói khác đi, Đức Phanxicô đề
ra cho toàn Giáo hội hôm nay CÁI NHÌN CHIÊM NIỆM khi đối diện với những người
trẻ.
Nghĩa là sao? Rất thường những người trẻ được coi là một vấn
đề hơn là nhìn vào huyền nhiệm nhân vị của chúng, theo lối nói của Gabriel
Marcel. Rồi cũng rất thường Giáo hội nghĩ mình đã có mọi câu giải đáp sẵn hơn
là lắng nghe họ. (x. số 65) Không thể như thế được. Giáo sư Ikechukwu Anthony
Kanu, OSA Tansian University, Umunya Anambra State đã đưa ra 4 khuôn mẫu của tuổi
trẻ trong Christus vivit.[8] Cần đến một khóe nhìn vượt
lên những gì trước mắt. Chẳng hạn, Đức Phanxicô mời gọi chúng ta nhìn vào trẻ
Samuel. Trẻ Samuel có mặt là nhờ một lời cầu nguyện mãnh liệt của bà mẹ Anna. Cậu
phụng sự thầy tư tế Hêli già và lòa. Cậu không để cho Lời Chúa qua đi và vì thế
trở nên đá tảng góc tường của dân Israel. Rồi cả cậu nhỏ David cũng chẳng hơn
gì. Cả gia đình hầu như đã loại cậu ra trong bữa tiệc hy lễ được ngôn sứ Samuel
chủ toạ. Cậu phải đi chăn chiên. Chẳng ai giới thiệu cậu cho ngôn sứ Samuel cả,
nếu chính ngôn sứ đó không yêu cầu phải kiếm cậu về cho bằng được. Cậu David bị
loại bỏ đó lại nên đá tảng góc tường của Israel, cứu Israel khỏi Goliat của dân
Philitinh đe dọa; cậu đã trở thành vị vua kiểu mẫu, được sánh ví như vị mục tử
chăm sóc đàn chiên. Tuyệt vời hơn hết là chàng thanh niên Giêsu. Ngài đã bị
kinh sư và biệt phái loại ra ngoài, bị coi như kẻ bị nguyền rủa và kết án.
Giuđa đã thí ngài đi như thí một con chiên bị bán thịt. Thế nhưng, ngài như
viên đá bị thợ xây loại bỏ lại nên tảng đá góc tường cho toàn Vương quốc Thiên
Chúa. Cái nhìn chiêm niệm cần thiết phải có trong mục vụ giới trẻ là đây: Các
thanh thiếu niên của thời đại này, với muôn vàn cái khó ‘ưa', lại được đặt định
là những vị thánh của tương lai, theo kế hoạch của Thiên Chúa. (x. số 104-110)
Thiên Chúa muốn họ là những nhân vị độc đáo, có giá trị, chứ không phải là những
bản sao nhợt nhạt. Hẳn rằng vẫn có một thực tại đáng buồn mà Carlo Acutis nói
lên: “Mọi người được sinh ra là một ngôi vị độc đáo, song nhiều người đã kết tận
khi chết như những bản sao” (số 106), thì vẫn không thể sai lầm rằng “Chúa Phục
sinh muốn đi bên cạnh mọi người trẻ, lắng nghe những kỳ vọng của họ, ngay cả những
kỳ vọng không được thỏa mãn, và những hy vọng của họ, ngay cả những hy vọng bất
toàn hay phù du.” (Tài liệu chung cục của Thượng Hội đồng Giám mục về giới trẻ).
Tác vụ giới trẻ buộc phải khởi đi và được kiện cường với viễn cảnh này.
Giới trẻ tại Việt Nam có nhiều điều tốt đẹp như Hội đồng
Giám mục Việt Nam 2019 nhận định: “Giới trẻ có nhiều cơ hội học hành, làm việc,
sinh hoạt cộng đồng, du lịch, mở rộng giao lưu gặp gỡ, có những hoạt động phong
phú trong lĩnh vực văn hóa, thể thao.” (HĐGMVN 2019, số 3).[9]
Khắp nơi những người trẻ Việt Nam thật năng động; điều đó lộ hiện một nỗi thao
thức sâu xa tìm đến chân thiện mỹ. Nó cho thấy Thần khí đang tiếp tục nơi họ.
Chúng ta không thể không chân nhận các bạn trẻ Kitô hữu tại Việt Nam đóng góp
phần lớn trong giảng dạy giáo lý, huynh trưởng giúp sinh hoạt các thiếu nhi, những
nhóm thiện nguyện.[10] Không thiếu những người trẻ
thiện nguyện tham gia vào những hoạt động thật ý nghĩa: mùa hè xanh, nhóm lo
cho trẻ hè phố.
Chắc chắn rồi, bức tranh trên không toàn mỹ. Nhiều người trẻ
cũng đang sa lầy. Đúng lắm. Chính vì thế mà những người trẻ, với bộ mặt và lịch
sử đang bị sự dữ vấy bẩn, mới cần đến Giáo hội, cần đến Giáo hội mục vụ, bởi lẽ
vì chúng mà Giáo hội được sinh ra, nếu ta có thể nói như thế. Và đây là bức
tranh được các Giám mục Việt Nam vẽ ra:
“Người trẻ cũng phải đối diện với những thách thức của thời
đại mới. [...] Ảnh hưởng của chủ nghĩa cá nhân và trào lưu hưởng thụ đã làm cho
nhiều người trẻ lạc hướng và rơi vào lối sống buông thả, sống ảo, sống vội, sống
dửng dưng vô cảm và vô trách nhiệm. Một số khác lại lún sâu vào những cám dỗ của
thời đại như nghiện ngập, buôn bán ma túy, hôn nhân thử, đồng tính, phá thai. Bạo
lực ngày càng gia tăng với mức độ nguy hiểm nghiêm trọng. Giới trẻ tại Việt Nam
đang ở trong vòng xoáy của khủng hoảng (HĐGMVN 2019, số 3).[11]
Rõ ràng, những mảnh đời không tương lai bao quanh ta. “Bạo lực
huỷ diệt nhiều cuộc đời người trẻ” (số 72).
Bạn sẽ nói với tôi: bức tranh ở trên áp dụng cho mọi nơi mà!
Xem ra nhận xét này thật đúng. Tuy nhiên, chính ở đây mà tôi muốn nhắc nhớ: Đừng
quên rằng những người trẻ mà GH tại Việt nam đang đối diện chính là những người
đã từng và đang sống trong văn hoá xã hội chủ nghĩa thời kinh tế mở rộng, kinh
tế toàn cầu, với một não trạng vô thần thực tiễn, hay rõ hơn là não trạng dửng
dưng tôn giáo. Họ là những người trẻ được giáo dục từ lúc sinh ra trong bầu khí
vô thần xã hội chủ nghĩa. Nhiều người đang đi vào một phong thái sống: có Thiên
Chúa hay không có Ngài cũng vậy thôi. Tất cả mọi sự với chủ trương miễn sao cá
nhân tôi không bị bắt, không trách nhiệm là tốt rồi. Các hình thức của cuộc đời
trưởng giả được tán tụng nơi những người rất nghèo túng. Vì sĩ diện, những người
nghèo khổ tìm cách che giấu vẻ nghèo khổ của mình dưới nhiều hình thức khác
nhau. Mặc cảm tự ti có thể đội lốt giấu những hình thức khác nhau của lạc giới.
Dù nghèo, nhưng nhiều người trẻ vẫn tuôn vào những khẩu hiệu rất hấp dẫn vì hiệu
quả thật gần trước mắt chúng: mềm mại, êm ái, dịu dàng... Hoặc với một dáng vẻ
anh hùng: tăng sức mạnh, trở thành số 1[12]
Ngay cả những người trẻ dấn thân vào chủng viện hay dòng tu cũng không miễn nhiễm
với những thứ này. Kinh nghiệm đào tạo của các dòng tu và chủng viện đang đối
diện nhiều với những người trẻ có các động cơ không trong sáng và vững chắc. Rõ
ràng, tiến trình giáo dục đức tin, một giáo dục nhắm đến sự hoán cải cõi lòng,
hẳn nhiên trở nên dài hơn và khó khăn hơn. Sự hấp thụ kiến thức đức tin nơi những
người trẻ Việt Nam hôm nay phức tạp và lâu dài hơn nhiều. Và như thế, mọi sự mà
trước kia ta nghĩ là ổn thì không còn được giả định là thế nữa.
Tuy nhiên ẩn sau đó là cả một đại dương băn khoăn mênh mông.
Họ thao thức sự nghiệp, vun trồng ước mơ mà thoạt nhìn xem ra không tưởng.[13] Những người trẻ Việt Nam
nuôi một ý chí quật cường dù phải trả giá thật đắt. Họ mong mỏi được hướng dẫn
để đi tới cùng cuộc đời mình. Chính khát vọng này khiến họ phê phán các nhà
giáo dục. Họ làm chứng điều Augustinô vẫn đúng: tâm hồn tôi chỉ được an nghỉ
khi gặp được Thiên Chúa mà thôi. (x. số 138; cũng xem số 17) “Bằng nhiều cách,
những người trẻ ngày nay đang nói với chúng ta: “chúng tôi muốn thấy Đức Giêsu
” (Ga 12,21). Vậy, họ tỏ lộ một thứ ‘bất an lành mạnh'[14]
vốn đặc trưng hóa cõi lòng của mọi con người: “Sự bất an của việc tìm kiếm
thiêng liêng, sự bất an của việc gặp gỡ Thiên Chúa, sự bất an của tình yêu”.
(Francis, Mass for the Beginning of the
General Chapter of the Order of Saint Augustine, 28 August 2013).[15] Thật vậy, chính những người
trẻ thú nhận rất chân thành:
“Thế giới trong đó chúng con sống thật phức tạp. Nó bày ra
những thách đố quan trọng. Thật khó để mà sống một cách chân chính; đó là lý do
tại sao chúng con sợ hãi, lúng túng, thất vọng và cần được yêu mến. [...] Bởi
vì chúng con không cảm nhận được xã hội yêu thương, nên chúng con trú ẩn đằng
sau những mặt nạ và đào thoát khỏi giao tiếp với con người. Chúng con không muốn
quý vị nghĩ rằng chúng con không quan tâm chi đến xã hội quanh mình; nhưng
trong xã hội trôi chảy, và đôi khi phi nhân, dấn thân cách vô vị lợi vào điều
người khác cần quả thật khó.” (Lá thư của những người trẻ gửi cho các Salêdiêng
trong Tổng Tu Nghị 28)
Giữa biết bao trào lưu, những người trẻ nhìn Giáo hội như xa
lạ, như kẻ phán đoán và kết án (x. số 81). “Chúng con cảm nhận không thoải mái
và thường không hiểu Giáo hội nói gì và làm gì về những vấn đề giới tính, phụ nữ,
sự khác biệt phái tính” (Lá thư của những người trẻ gửi cho các Salêdiêng trong
Tổng Tu Nghị 28). Rất nhiều khi, “một số đông người trẻ, vì đủ loại lý do,
không xin Giáo hội gì cả bởi vì họ không thấy nó là quan trọng cho đời mình.
Trái lại một số xin để mặc họ, khi họ thấy sự hiện diện của Giáo hội là một sự
khó chịu, thậm chí một sự gây tức bực.” (Tài liệu chung cục của Synod về giới
trẻ, số 53)
Cám dỗ tự mình giải phóng chính mình xem ra hấp dẫn cho người
trẻ. Tuy nhiên, đó là một ảo tưởng. Kẻ lún xuống đầm lầy chẳng thể tự mình ngoi
lên: “Khi chúng ta sống tách khỏi người khác, chống lại dục vọng, cạm bẫy và
cám dỗ của ma quỷ, và sự ích kỷ của thế gian quả là cực kỳ khó khăn. Vì bị tấn
công bởi muôn ngàn dụ dỗ, chúng ta có thể nên quá cô lập, mất cảm thức về thực
tại và sự trong sáng nội tâm, và dễ dàng chịu thua [...] Quả thế, sự cô lập làm
hao mòn sức mạnh chúng ta và phơi trần chúng ta cho những sự xấu nhất của thời
đại chúng ta” (số 110) hơn là làm cho chúng ta mạnh mẽ. Nhiều người trẻ đang “rủ”
nhau “cùng cô đơn” trên các trang mạng. Và nhiều người đã tự kết thúc đời mình.
Bức tranh hiện sinh đó đang thách đố Giáo hội-Mẹ. Những người
trẻ của thế giới không phải là thành phần bên lề của Giáo hội, là cái ruột dư của
Giáo hội. Không. Đó là những người con nhỏ của Giáo hội. Vậy, nếu GH đúng là mẹ,
đúng là chuyên viên về con người trong Đức Kitô, thì Giáo hội không thể dửng
dưng. Giáo hội phải thấy trách nhiệm để tìm cách trao cho họ CON ĐƯỜNG giải
phóng:
“Nếu các con còn trẻ trong năm tháng, song cảm thấy yếu đuối,
mệt nhọc hay thất vọng, hãy xin Đức Giêsu canh tân các con. Với ngài, hy vọng
không bao giờ thất bại. Các con hãy làm như thế nếu cảm thấy bị các nết xấu,
thói quen xấu, ích kỷ hay những giải trí không lành mạnh. Đức Giêsu, tràn ngập
sự sống, muốn giúp các con làm cho cuộc đời mình đáng giá.” (số 109)
Giáo hội thật sự là mẹ, hoàn toàn sống cho con cái của mình
khi trao cho những người trẻ TẶNG PHẨM HÀNG ĐẦU, chứ không phải trao ban chính
mình: ĐỨC Giêsu KITÔ.
2. Thần học vững chắc định hướng mục vụ
Đặt mình bị thách đố bởi bức tranh hỗn độn của những người
trẻ, Giáo hội không ở yên trong tháp ngà tri thức của mình, như trước nữa. Suy
tư thần học trong Giáo hội phải dẫn lối Giáo hội đi vào thế giới một cách mới mẻ.
Đúng vậy, trước khó khăn của thế kỷ XX,[16]
Vatican II đã khai mào một định hướng suy tư thần học gắn chặt với tác vụ
mục vụ.[17] Với Gaudium et Spes, TC không mạc khải chính mình cho con người để làm
mãn nguyện tâm trí suy lý của họ. Đức Giêsu cũng chẳng thiết lập GH như một cơ
chế dành cho những bậc khôn ngoan của thế gian. Nhưng GH thật sự là vì con người,
gắn bó với con người trong những vui buồn, đau khổ, đấu tranh và hy vọng của họ.[18] Christus vivit dứt khoát làm cho định hướng này nên vững chắc.[19] Nơi đây không trình bày một
Đức Giêsu suy lý cho bằng một Đức Giêsu trẻ trung, hằng sống và ngài đang nói
cho những người trẻ hôm nay. “Nơi Đức Giêsu, tất cả những người trẻ có thể nhìn
thấy chính mình.” (số 30) Chính Giêsu luôn tươi trẻ dạy Giáo hội con đường mục
vụ rất trẻ trung và sống động: “Tất cả những gì Người chạm đến đều trở nên tươi
trẻ, mới mẻ, tràn đầy sức sống.” (số 1)
Theo ánh sáng này, Tông huấn và cả Thượng Hội đồng Giám mục
về người trẻ chọn phương pháp luận gồm ba bước: nhận biết - giải thích - chọn lựa; Phương pháp này đã được sử dụng
trong tài liệu chuẩn bị, tài liệu làm việc và được sử dụng các phong phú trong Christus vivit. Phương pháp này có thể
nói là biến tấu của phương pháp thần học từ Châu Mỹ Latinh: xem - xét - làm. Xét cho cùng, đấy là
cách mà Gaudium et Spes đã thực hiện
để tìm được ý định của Thiên Chúa qua các dấu chỉ thời đại. Một Giáo hội cam kết
mô phỏng mình theo khuôn mẫu mầu nhiệm nhập thể sẽ biết trân trọng những tặng
phẩm, sự tốt lành Thiên Chúa hằng ngày làm nên giữa những con người bé nhỏ. Như
thế, phương pháp này đòi hỏi GH phải sống sự dễ dạy lưỡng diện: dễ dạy đối với
Thánh Thần và dễ dạy đối với hiện trạng của những con người mà Giáo hội được
sai đến, bởi vì GH-mẹ đến từ Thiên Chúa để phục vụ con người (x. số 283-284)
Nếu vậy, Giáo hội không phải là trung tâm hay cốt lõi của nền
thần học Kitô giáo. Giáo hội chỉ là người tôi tớ-mẹ. Cội nguồn, trung tâm của
Giáo hội là một NGÔI VỊ. “Là một Kitô hữu không phải là kết quả của một chọn lựa
luân lý hay một ý tưởng cao cả, nhưng là cuộc gặp gỡ một biến cố, một ngôi vị,
vốn ban cho cuộc đời một chân trời mới và một hướng đi dứt khoát” (CV, §129; 156; cf. Deus Caritas Est, §1). Thần học Kitô giáo đâu phải là triết học Hy
lạp về học thuyết của ông Giêsu. Chính vì thế, Tông huấn không ngừng vang lên:
Đức Giêsu hằng sống. “Chính những lời đầu tiên mà tôi muốn nói cho mọi người
Kitô hữu trẻ là đây: Đức Kitô hằng sống và ngài muốn các con sống động!” Định
hướng quy về Đức Kitô hoàn toàn chi phối tông huấn. Hãy cho phép tôi trích dẫn
một số đoạn văn rải rác khắp các chương:
Chương 1: với tựa
đề Lời Chúa có gì để nói về những người trẻ. “Nếu các con mất đi sức sinh động
bên trong, những giấc mơ, nhiệt tình, lạc quan và sự quảng đại của mình, Đức
Giêsu đứng trước các con như Ngài trước kia đã đứng trước đứa con đã chết của
bà góa.” (số 20).
Chương 2: Đức
Giêsu mãi mãi trẻ trung. “Đức Giêsu không dạy những người trẻ các con từ xa hay
từ bên ngoài, song từ chính trong tuổi trẻ của các con, tuổi trẻ mà Ngài chia sẻ
với các con. (số 31)
Chương 3: Các con
là cái “hiện nay” của Thiên Chúa. “Đức Giêsu làm cho các người trẻ cảm nhận
Ngài hiện diện giữa những thập giá này mà những người đang gánh vác; Ngài cống
hiến cho họ tình bạn, sự an ủi và sự đồng hành thuyên chữa của ngài.” (83)
Chương 4: Một sứ
điệp vĩ đại cho tất cả những người trẻ. “Hãy giữ mắt các con gắn chặt vào đôi
tay vươn ra của Đức Kitô chịu đóng đinh, hãy để cho chính các con được cứu độ
mãi mãi” (số 123); hay, “Đức Kitô hằng sống! chúng ta cần nhắc nhớ chính mình về
điều này, bởi vì chúng ta có nguy cơ coi Đức Giêsu Kitô đơn giản là một khuôn mẫu
tốt lành từ quá khứ xa xôi, như một kỷ niệm, như một ai đó cứu độ chúng ta cả
hai ngàn năm trước.” (số 124)
Chương 5: Những lối
đường của tuổi trẻ. “Bất kể các con sống kinh nghiệm của những năm tuổi trẻ này
nhiều đến mấy, các con sẽ không bao giờ biết được ý nghĩa sâu xa nhất và sung
mãn nhất trừ phi các con gặp gỡ mỗi ngày người bạn tốt nhất của các con, người
bạn đó là Đức Giêsu.” (số 150).
Chương 6: Người trẻ
có gốc rễ. “chúng ta phải gặp gỡ văn hoá chúng ta với sự thực tế và tình yêu và
làm đầy nó bằng Tin mừng. Ngày nay chúng ta được sai để công bố Tin mừng của Đức
Giêsu cho một thời đại mới.” (số 199).
Chương 7: Tác vụ
Giới trẻ. “tác vụ giới trẻ phải luôn bao gồm những cơ hội để canh tân và đào
sâu kinh nghiệm cá nhân chúng ta về tình yêu Thiên Chúa và Đức Kitô đang sống.”
(số 214).
Chương 8: Ơn gọi.
“Điều đầu tiên ta cần phân định và khám phá là đây: Đức Giêsu muốn là bạn với mọi
người trẻ” (số 250). Chỗ khác: “Đức Giêsu đang bước đi giữa chúng ta, như Ngài
đã làm tại Galilêa. Ngài rảo qua phố phường chúng ta và Ngài lặng lẽ dừng lại
và nhìn vào mắt chúng ta. Tiếng Ngài gọi thật hấp dẫn và say đắm.” (số 277).
Chương 9: Phân định.
“Chúa nói với chúng ta muôn nghìn cách, khi làm việc qua tha nhân và vào mọi
giây phút. Nhưng đơn giản chúng ta không thể làm mà không có sự thinh lặng của
cầu nguyện lâu dài, vốn làm cho chúng ta có thể tri nhận tốt hơn ngôn ngữ của
Thiên Chúa, để giải thích ý nghĩa thật sự của những gợi hứng mà chúng ta tin
chúng ta đã nhận được, để làm dịu những âu lo chúng ta và để xem toàn cuộc đời
chúng ta trong ánh sáng của Ngài.” (số 283). Chỗ khác, “Để phân định ơn gọi cá
nhân chúng ta, chúng ta phải ý thức rằng nó là một tiếng gọi đến từ một người vốn
là Giêsu.” (số 287)
Số cuối cùng như kết luận với những lời này: “Hãy tiếp tục
chạy, “được khuôn mặt Đức Kitô lôi cuốn, Đấng chúng ta yêu mến rất nhiều, Đấng
chúng ta thờ lạy trong Thánh Thể và thừa nhận trong xác thịt của những anh chị
em đau khổ của chúng ta.” (số 299)
Qua những trích dẫn này - tôi chỉ nêu lên một vài đoạn văn
thôi - minh chứng rõ ràng mọi hoạt động mục vụ của Giáo hội cho giới trẻ phải
quy về Đức Kitô, như nguồn mạch và cùng đích. Giáo hội trao Đức Giêsu cho con
người, theo cách thức của vị Mục Tử Nhân Lành; đấy là mục vụ vậy.
Chiều hướng mục vụ quy Kitô này, một cách thực tiễn, được
xoay quanh chân lý số 1 này: “TIN MỪNG VĨ ĐẠI CHO MỌI NGƯỜI TRẺ”. Nó như nhắc lại
lời của thiên sứ cho mục đồng: “Ta đem cho các ngươi một tin mừng vĩ đại”. Xét
cho cùng, lời rao giảng kerygma của
Giáo hội sơ khai cách riêng “Đức Giêsu Kitô đã chết, đã sống lại và lại đến”
nay được mang một sắc thái mới với ngôn ngữ mới khi tông huấn trình bày Thiên
Chúa tình yêu theo tam diện sau đây:
a. Thiên Chúa yêu bạn
“Chính chân lý số một mà tôi muốn nói với từng người các con
là đây: ‘Thiên Chúa yêu con.' Dù các con nghe hay không nghe thấy, không có gì
khác cả.” (số 112). Xác quyết này nổi bật ngay cả khi người trẻ trải nghiệm những
vỡ mộng về người cha. Người cha mà Freud vẽ lên thật biếm họa. Thiên Chúa hoàn
toàn khác, vì “đối với Ngài, các con thật quan trọng vì các con là công trình
tay Ngài làm ra.” (số 115) Bằng một ngôn ngữ trẻ trung hiện đại, Ngài viết:
“Các con hãy tin vào ký ức của Thiên Chúa: ký ức của Ngài không phải là “ổ cứng”
lưu trữ và ‘giữ' tất cả các dữ liệu. Ký ức của Ngài là trái tim đầy sự xót
thương nhân ái, nó vui khi “xóa” khỏi ta mọi dấu vết sự xấu.” (số 115) Thật ấn
tượng trong lối so sánh như thế: một ổ cứng vô cảm không thể sánh ví với Đấng
có trái tim “khóc” với con cái mình.
b. Đức Kitô cứu chuộc
Tình yêu của Đấng đã chết vì chúng ta không cho phép một ai
thất vọng. “Chúng ta có thể làm bất kỳ các điều chống lại Ngài, nhưng Ngài yêu
chúng ta và cứu độ chúng ta. Chỉ điều gì được yêu mới có thể được cứu độ. Chỉ
điều gì được ôm ấp mới có thể được biến đổi. Tình yêu của Chúa thì lớn hơn tất
cả những vấn đề, mỏng giòn và thói xấu của chúng ta. Nhưng chính qua những điều
đó mà Ngài muốn viết câu chuyện tình yêu này.” (số 119). Tình yêu này đảm bảo
“các con là vô giá! Các con không phải là món hàng bán buôn!” (số 122).
c. Thánh Thần tác thánh
Ngài lặng lẽ mở tâm hồn chúng ta. “Khi các con nhận Thần
khí, ngài kéo các con vào sâu xa hơn trong cõi lòng Đức Kitô hầu các con có thể
tăng trưởng trong tình yêu, sự sống và quyền năng của Ngài.” (số 130). Ngài làm
cho mọi khát vọng như tình yêu, đam mê mãnh liệt nên tuyệt mức. “Ngài không lấy
gì khỏi các con, nhưng trái lại giúp các con tìm thấy mọi sự các con cần, và
theo một cách thức tốt nhất có thể.” (số 130) Ngài thật sự làm cho chúng ta “phải
lòng” với Thiên Chúa, với Đức Kitô một cách khôn lường.
Tình yêu tam diện này của Thiên Chúa cho thấy Thiên Chúa cứu
chuộc chúng ta còn lạ lùng hơn sáng tạo, và công trình cứu độ chỉ viên mãn khi
biến đổi chúng ta thành tạo vật mới trọn vẹn, khi con tim chúng ta được biến đổi,
khi ta trở nên thánh thiện.
Vậy ra, Tông huấn đưa chúng ta về lời rao giảng chân thật của
các Kitô hữu đầu tiên, của toàn Giáo hội mọi thời đại. Kerygma phải được vang lên mãi trong bất kỳ tác vụ nào của Giáo hội.
Chẳng có thần học nào, chẳng có học thuyết nào vững chắc, khôn ngoan và thiết yếu
hơn điều này. (x. EG 165). Tất cả đều lệ thuộc vào đây. Mọi việc và hoạt động sẽ
mang tính loan báo Tin mừng trừ phi điều này được lộ rõ bằng nhiều cách khác
nhau. (x. Evangelii Gaudium, §164).
Quả thế,“Lời rao giảng kerygma trình
bày Ngôi vị Đức Giêsu Kitô và câu chuyện cứu độ chúng ta một cách trực tiếp và
đơn giản. Lời kerygma trình bày Thiên
Chúa không như một học thuyết, khái niệm, hay lý thuyết, nhưng như một Ngôi vị”[20]
Nếu vậy, nhất thiết phải thay đổi lối nhìn về mục vụ giới trẻ.
Hẳn nhiên, mục vụ giới trẻ không phải là một số những sự kiện tụ họp giới trẻ.
Nó cũng chẳng phải là tùy dịp, ngẫu hứng. Phải hơn, tác vụ giới trẻ phải được
nhìn xem là một sự nhiệm huấn có hệ thống, từng bước và tiệm tiến, dẫn người trẻ
vào trung tâm mầu nhiệm Kitô hữu. “Một khai tâm mang tính nhiệm huấn, điều này
cơ bản phải liên hệ đến hai điều: một kinh nghiệm đào luyện tiệm tiến làm cho
toàn cộng đoàn can dự vào và canh tân sự trân trọng những dấu chỉ phụng vụ của
khai tâm Kitô hữu.” (EG 166). Các giáo phụ đã để lại gia sản này cho Giáo hội
sơ khai và phải được tiếp tục mãi, vì đây là lối đường vững chắc đào tạo những
Kitô hữu trẻ trưởng thành. Thật thế, “Không có việc loan báo lời rao giảng đầu tiên,
chúng ta đào tạo các học sinh sẵn sàng cho cuộc Đố vui Công giáo (Catholic
Jeopardy), chứ không phải chuẩn bị cho sự tương giao cá nhân với Đức Giêsu
Kitô. Không có lời rao giảng đó, chúng ta đặt chiếc xe trước con ngựa và dạy học
thuyết trước khi dẫn người tín hữu tới Ngôi vị Đức Giêsu Kitô.”[21] Nếu thật sự chú tâm tới lời
rao giảng đầu tiên này kết quả sẽ rất khác biệt, như lời của Vincent Reilly: “Nếu
các giáo xứ bắt đầu khuôn mẫu giáo lý mang tính rao giảng như Jungmann,
Hofinger, và Giáo hoàng Phanxicô đề xuất, các cộng đoàn địa phương sẽ chuyển từ
làm Giáo hội sang LÀ Giáo hội.”[22]
3. Giáo hội giới trẻ cần đến
Một sự kiện thường xảy ra trong các lớp giáo lý: nhiều giáo
lý viên “sợ” vào lớp của những luống tuổi thiếu niên. Nhiều nhận xét tiêu cực:
các em không thích học giáo lý, các em xem ra bất cần, và nhiều điều tiêu cực
khác nữa. Đấy mới chỉ là một mặt của sự thật thôi. Thật vậy, đằng sau dáng vẻ
“bất cần” đó, chúng lại muốn diễn đạt một nỗi niềm khao khát Giáo hội. Đức
Gioan Phaolô II trải nghiệm rất rõ điều này: giới trẻ rất cần đến Giáo hội. Chẳng
lạ gì mà những ngày Giới trẻ Thế giới do ngài chủ xướng vẫn tồn tại cho đến
nay. Không chỉ như vậy. Thái độ đó trở thành một thách đố để Giáo hội biết mình
và canh tân chính mình. Những người trẻ nói cho Giáo hội rằng nếu Giáo hội
trình bày mình theo kiểu người xa lạ, người du lịch trong thế giới tuổi trẻ,
người thẩm phán, người có vẻ đẹp nhân tạo... thì những người trẻ không cần đâu.
(x. số 98-100). Đã đến lúc chúng ta tự hỏi: Loại Giáo hội nào mà những người trẻ
ngày nay đang cần tới? Đặt ra như thế mới có thể xảy ra nơi chính chúng ta trước
hết sự hoán cải mang tính giáo hội.
Nếu thế, chúng ta cũng phải khiêm nhường thú nhận: chúng ta
chưa đáp ứng khát vọng của chúng cách thích đáng. Những người trẻ hôm nay đang
khao khát một Giáo hội rất khác với những gì chúng ta đang ban cho họ. “Họ xin
chúng ta ít là “những người quản trị” (điều hành) hơn nhưng lại là “những mục tử”
hơn; để ở giữa họ và có thời gian đồng hành với họ.” hay “họ xin chúng ta thời
gian, nhưng chúng ta lại cho họ không gian; họ xin chúng ta những tương giao
còn chúng ta cung cấp cho họ những dịch vụ; họ xin chúng ta đời sống huynh đệ,
nhưng chúng ta cống hiến cho họ những cơ cấu; họ xin chúng ta tình bạn, chúng
ta cung cấp cho họ những hoạt động vì họ.”[23]
Điều họ cần đầu tiên nơi Giáo hội xuyên qua các thừa tác viên của mình: LÀ MỘT
NGƯỜI MẸ HƠN LÀ MỘT THẦY DẠY VÀ CÀNG ÍT HƠN LÀ THẨM PHÁN. Người trẻ nói với các
thừa tác viên Giáo hội rằng điều họ cần không phải là họ nói cho người trẻ phải
làm điều gì; họ đang cần những người bạn hướng dẫn khôn ngoan ở giữa họ, trong
thế giới của họ bằng sự thân tình. Nếu không được họ chấp nhận vào thế giới tuổi
trẻ, các thừa tác viên chẳng làm được gì để thay đổi họ đâu. “Người trẻ cần được
tiếp cận qua văn phạm của tình yêu, chứ không phải bằng cách thuyết giảng chiêu
dụ. Người trẻ có thể hiểu được ngôn ngữ của những người sống hiến thân, những
người sống với họ và cho họ, và cả những ai, dù còn đầy giới hạn và yếu đuối, cố
gắng sống đức tin chân thành.” (số 211).
Thật vậy, người trẻ hôm nay cần đến một Giáo hội- Mẹ biết
khóc. Đoạn văn của giáo hoàng trong Christus
vivit rất ấn tượng và chạm đến các tác viên thực thi mục vụ giới trẻ như
sau:
“Chúng ta đừng trở nên một Hội Thánh vô cảm trước những thảm
kịch ấy của những người trẻ là con cái mình. [...] vì ai không biết khóc thì
không phải là mẹ. Chúng ta muốn khóc để cho xã hội cũng phải trở thành một người
mẹ đúng nghĩa hơn, để thay vì sát hại thì xã hội học biết cách sinh thành, trở
thành nơi hứa hẹn của sự sống. Chúng ta khóc khi nhớ đến những người trẻ phải bỏ
mạng vì nghèo đói và bạo lực, và chúng ta kêu gọi xã hội học cách trở nên một
người mẹ biết chăm sóc con mình. Nỗi đau này chẳng nguôi ngoai; nhưng vẫn đi
theo chúng ta, vì thực tế không thể che giấu được. Điều tệ hại nhất chúng ta có
thể làm là dùng cách mà tinh thần thế gian vẫn làm, tức là ru ngủ người trẻ bằng
những thông điệp khác, những mối bận tâm khác, những điều tầm thường khác.” (Số
75)
Giáo hội-thẩm phán sẽ chỉ kết án. Giáo hội - Hoàng vương có
trái tim không hề rung động. Giáo hội - Trưởng giả êm ấm trước màn hình và
trong chiếc ghế bành êm ái với những cỗ bàn ê hề. Chỉ một Giáo hội - Mẹ mới ở
ngoài đó với những đứa con đang đói ước mong có được đậu muồng heo ăn mà ngốn
cho đầy bụng song cũng không được. Chỉ một Giáo hội-Mục tử lặn lội tìm cho bằng
được con chiên lạc để đưa về ràn chiên duy nhất. Chỉ một Giáo hội - Osin lấm bẩn
vì những “ông chủ non nớt” của mình đi lạc. Như thế, nước mắt của một người mẹ
không phải là dấu hiệu ủy mị. Trái lại, những giọt nước mắt đó cứu những đứa
con. Những giọt nước mắt của bà mẹ không chỉ làm cho thiên đàng hân hoan, nó
còn làm cho xã hội thêm nhân bản hơn. Có lẽ điều này rất đúng: thật khốn cho một
xã hội mà ngày nào đó không còn những giọt nước mắt của bà mẹ.
Giáo hội - Mẹ không thể không đặt sự an toàn, hạnh phúc của
con cái lên trên hết. Người mẹ sẵn sàng lấy thân mình làm bia đỡ đạn cho con
cái được sống. Giáo hội đó luôn phải cảnh giác và tuyên chiến với những gì làm
biến dạng tâm hồn xót thương của mình. Cám dỗ trau chuốt bản thân, tìm lợi ích
cho riêng mình vẫn luôn có đó với Giáo hội. Khi nhìn Giáo hội với con mắt chiêm
niệm, Đức Phanxicô không ngừng tuyên chiến với chủ nghĩa giáo sĩ. Nó hủy diệt vẻ
đẹp của Giáo hội. Nó đặt quyền lợi, danh giá, thiện ích của mình lên trên hết.
Nó đặt vẻ đẹp của Giáo hội vào những cái bề ngoài, chứ không phải ở tận cõi
lòng. Theo lời của Ratzinger, nó biến Giáo hội thành quái vật![24]
Chủ nghĩa giáo sĩ trị là một cám dỗ thường xuyên của các
linh mục, các vị coi ‘thừa tác vụ đã lãnh nhận như quyền lực' để sử dụng, chứ
không phải là một sự phục vụ nhưng không và quảng đại mà mình phải cống hiến.
Cách nhìn đó dẫn tới chỗ tin rằng mình thuộc về một nhóm nắm giữ mọi lời giải
đáp mà chẳng cần lắng nghe hay học hỏi gì thêm nữa, hay chỉ giả vờ lắng nghe mà
thôi” (98).
Nó dẫn tới muôn vàn hình thức lạm dụng được gồm tóm: “lạm dụng
quyền lực, lạm dụng kinh tế, lạm dụng lương tâm, lạm dụng tình dục.” (98). Giáo
hội như thế, những người trẻ không muốn và thậm chí không muốn thấy.
Những người trẻ khát vọng một Giáo hội -cùng-nhau-tiến-bước.
Vatican II đã nói đến Dân Thiên Chúa lữ hành. Công đồng đó cũng nói đến một
tính tập đoàn (collegiality) trong cai quản và mục vụ, vốn đã được Giáo hội
Đông phương khai triển khái niệm Sobornost.
Sau Vatican II, Đức Phaolô VI quyết định canh tân cơ cấu đã có từ thời Giáo hội
sơ khai là “Thượng Hội đồng Giám mục” (Synod). Thật ra, nguyên thủy nó nói đến
cùng-nhau-đi-tới. Chính Tin mừng Luca cũng dùng hạn từ này trong trình thuật về
trẻ Giêsu lên Giêrusalem. (xem số 29) Đức Phanxicô làm cho điều này thành đặc
trưng của triều giáo hoàng của ngài. Ngài thúc đẩy Ủy ban Thần học Quốc tế
nghiên cứu, suy tư về tính hiệp hành (tính chất cùng-nhau-bước-đi, Synodality)
của Giáo hội.[25] Ngài liên tục nhấn mạnh hướng
đi này. Giáo hội là cùng nhau đi tới. Chính vì vậy, Giáo hội phải “xuất thần”,
“ra khỏi chính mình” để nhận ra sự vĩ đại của Thiên Chúa nơi những người khác.
(x. số 164). Để tìm gặp chính mình, Giáo hội buộc phải đi ra khỏi chính mình.
Giáo hội không phải chỉ là quá khứ, chỉ là hiện tại hoặc chỉ là tương lai. Đức
Phanxicô sử dụng một hình ảnh rất đẹp để cho thấy Giáo hội như sau: “tất cả
chúng ta hãy bước lên cùng một chiếc thuyền và cùng nhau tìm kiếm một thế giới
tốt đẹp hơn, với sức năng động luôn luôn mới của Chúa Thánh Thần.” (số 201).
Trong ánh sáng hiệp hành này, Giáo hội nhận ra hai điều: “sự ý thức toàn thể cộng
đồng phải tham gia vào công cuộc Phúc âm hoá người trẻ, và nhu cầu cấp bách để
người trẻ đảm nhận một vai trò quan trọng hơn nữa trong các chương trình mục vụ.”
(số 202). Nói cách khác, “chính người trẻ là tác nhân của Mục vụ Giới trẻ. Chắc
chắn họ cần được hỗ trợ và hướng dẫn, nhưng đồng thời họ cũng phải được tự do
phát triển những cách thức mới với tinh thần sáng tạo và táo bạo.” (số 203). Đó
là một Giáo hội mở rộng cho mọi người tham gia, vì họ có quyền công dân toàn vẹn
đến từ phép Thánh Tẩy (x. số 206-208).
Những người trẻ đang cần một Giáo hội hiện diện giữa giới trẻ.
Đức Phanxicô không giấu thực trạng này: nhiều khi Giáo hội không có chỗ cho người
trẻ. Đức Phanxicô muốn Giáo hội tỏ mình ra là một Giáo hội đón chào, vì rất nhiều
người trẻ có một trải nghiệm bị “mồ côi” thật sự: từ gia đình cho đến học đường
và cả trong Giáo hội. “Chúng ta cần làm cho tất cả những cơ sở chúng ta được
trang bị tốt hơn để đón chào giới trẻ hơn, vì có quá nhiều người trẻ có một cảm
thức bị mồ côi” Giáo hội của mục vụ giới trẻ cần phải làm được là đây: được giới
trẻ tiếp nhận như người bạn. Thật vậy, Giáo hội già đi khi “bị giam hãm trong
quá khứ, kềm hãm hay làm cho Hội Thánh bị tê liệt.” Hoặc Giáo hội “tin rằng
mình trẻ trung vì đã chấp nhận tất cả những gì thế giới mời mọc, tin rằng mình
đổi mới vì đã quên đi sứ điệp của mình mà bắt chước người khác.” Giáo hội chỉ
trẻ trung mãi khi có khả năng không ngừng trở về nguồn hằng ngày: Lời Chúa,
Thánh Thể, sức mạnh Thần khí, Đức Giêsu hiện diện. (số 35).
4. Kết luận
Tôi kết luận ở đây bằng cách trích dẫn những lời rất độc đáo
của Đức Phanxicô khi sử dụng một thần thoại Hy lạp.
Ulysse, để không bị đắm bởi khúc hát của mỹ nhân ngư vốn hay
làm mê hoặc các thủy thủ khiến họ lao thuyền vào ghềnh đá, đã tự trói mình vào
cột buồm và buộc những người đồng hành phải bịt kín tai lại. Còn Orpheus thì lại
có cách đối phó khác với khúc hát của các nàng tiên cá: chàng tấu lên một giai
điệu còn hay hơn có sức mê hoặc các mỹ nhân ngư kia. Đây là nhiệm vụ cao cả của
các con, đó là đáp lại những điệp khúc làm tê liệt xã hội của trào lưu tiêu thụ
về văn hoá bằng những lựa chọn năng động và quyết liệt, bằng sự tìm tòi, hiểu
biết và chia sẻ.” (số 117; cũng xem số 134)
Mọi người trẻ đều phải đi qua biển trần gian nơi đó có Mỹ
Nhân Ngư hát bài ca tuổi trẻ mời mọc, hấp dẫn của thú vui. Khắp nơi, những người
trẻ luôn được những lời mời mọc của thế gian, của hưởng thụ, của ích kỷ, của
khoái lạc. Đó là những phương dược làm tê mê, làm mất sức phấn đấu của tuổi trẻ
(x. số 257, 131). Nó là bản năng chết, nó đòi hỏi liên tục lặp lại với số lượng
tăng dần và cuối cùng dẫn tới cái chết.[26]
Và lúc đó họ ở trong tâm lý sự chết.[27]
G. Marcel nói cùng một thực tại ấy nơi những người trẻ đang tự hào với những gì
mình sở hữu hơn là biết rõ mình là ai và là gì, tức bình diện huyền nhiệm.
Giáo hội mà những người trẻ mong đợi nhất thiết phải có khả
năng trao cho họ một bản nhạc mới đã được CHÀNG THANH NIÊN Giêsu sáng tác cho họ
(x. số 30-33). Không chỉ trao cho họ, song Giáo hội còn có khả năng dạy họ thuần
thục bài ca đó, một bài ca duy nhất cứu độ họ và đưa họ qua biển trần gian một
cách tốt đẹp. Giáo hội - Mẹ chính là Giáo hội mà những người trẻ hôm nay cần (số
34). Như Đức Gioan XXIII nói: ngài đã học được mọi sự cần thiết cho cuộc đời hạnh
phúc và ý nghĩa trên đầu gối của mẹ mình. Cũng thế, trong lòng Giáo hội-Mẹ, những
người trẻ học được bài ca mới của thanh niên Giêsu. Thật vậy, Đức Giêsu -Trẻ đã
sử dụng mọi sự của thế gian này để tạo ra bài ca tuyệt mỹ cho những người trẻ
có một tên riêng và lịch sử riêng. Chàng THANH NIÊN Giêsu đã đảm nhận mọi sự của
người trẻ ngoại trừ tội lỗi để cùng họ hát vang bài ca mới chúc tụng Cha Ngài.
Bài ca đó dựa vào chính những cung nhạc, những nhạc cụ... mà giới trẻ đang có,
nhưng với một âm điệu mới: âm điệu Tin mừng, âm điệu Đức Giêsu, âm điệu Ơn gọi
và Sứ mệnh (x. số 174, 122) Và bất kỳ người trẻ nào hát bài mới do Đức Giêsu
sáng tác được sống động trong Giáo hội-Mẹ, đều trải nghiệm sự mãn nguyện vô bờ
bến và mãi mãi. Không chỉ cho riêng họ mà còn cho cả một thế giới họ sống. Quả
thế, một Đaminh Savio đã chẳng làm cho bộ mặt giới trẻ nên khác hay sao? Một
Carlo Acutis lại không làm cho thế giới internet của những người trẻ nên khác
biệt hay sao? Trong Giáo hội-Mẹ, những người trẻ, bất chấp quá khứ của họ ra
sao, đều học được chân lý tạo nên hy vọng này: họ không được tạo dựng cho phù
phiếm, hời hợt (xem số 126, 128). Họ được dựng nên cho Đức Kitô vì chính Ngài mới
làm cho tuổi xuân nên phơi phới. Chính ngài làm cho từng người trẻ trọn vẹn là
chính mình trong sự hiệp thông và hiến thân cho người khác. Chính ngài gọi từng
người trẻ, sai họ đi đến nơi ngài muốn. Từng người thật sự là một sứ mệnh. Và
chính vì lẽ này mà từng người đã sinh ra và đến trong thế giới.
Trích Bản tin Hiệp
Thông / HĐGM VN, Số 124
(Tháng 5 & 6 năm 2021)
[2] X. Vatican II, sứ điệp gửi giới trẻ, 7 tháng 12, 1965; cũng xem, Giám
mục Nguyễn Văn Viên, “Nhãn quan Giáo hội về người trẻ trong thế giới hôm nay”
trong Tập San Hiệp Thông/Hội đồng Giám mục Việt Nam, số 118 (tháng 5 & 6
năm 2020); Võ Tá Hoàng, Giáo hội và Giới trẻ trong một thế giới đang đổi thay,
http//gpquinhon.org/q/thuong-huan/gioi-tre-va-giao-hoi-trong-mot-the-
gioi-dang-doi-thay-2180.html; được truy cập ngày 20/10/2020.
[3] Hannah Brockhaus, “Pope: The Church hears the outrage of young people
at scandal” trong Catholic News Agency (CAN), https://www.catholicnewsagency.com/news/39478/pope-the-church-hears-the-outrage-of-young-people-at-scandal; truy cập ngày 14.10, 2020.
[4] Cf. Synod
of Bishops XV Ordinary General Assembly, Preparatory Document, Young People,
The Faith and Vocational Discernment, chapter 1: Young People in Today's World;
Cf. Special General Chapter XX of the Salesian Society, n. 34 (Rome 1971)
[7] Cũng xem, Thecla Trần Thị Giồng, Đồng hành với giới trẻ hướng tới sự
trưởng
thành..., https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/dong-hanh-voi-gioi-tre-huong-toi-su-truong-thanh--40354; được truy cập ngày 20/10/2020.
[8] Cf. Ikechukwu Anthony Kanu, “Theological Models of Youth in Christus
Vivit”. Tác giả phân tích Christus vivit với bốn mô hình cho giới trẻ: Biblical
Model of Youth, Christological Model of Youth, Ecclesiological Model of Youth
và Mariological Model of Youth.
[10] Có lẽ Giáo hội tại VN cần làm một khảo cứu để thấy rõ hơn những người
trẻ Công giáo Việt nam đóng góp sinh động thế nào cho việc dạy giáo lý, sinh hoạt
thiếu nhi... Khắp nơi, khắp giáo xứ, họ là những người chủ chốt.
[13] x. Trần Phương, Khát vọng khởi nghiệp, https://giaoduc.net.vn/giao-duc-24h/khat-vong-khoi-nghiep-post206122.gd; được truy cập ngày 8.10.2020. Cũng xem bài của
Thecla Trần Thị Giồng ở trên.
[20] Vincent
J. Reilly, Preaching Kerygma, https://churchlifejournal.nd.edu/articles/preaching-kerygma/, truy cập ngày 8. 10. 2020.
[24] Ratzinger, Introduction to Christianity; bản dịch “Đức Kitô, hôm qua,
hôm nay và cho đến muôn đời”
[25] INTERNATIONAL THEOLOGICAL COMMISSION, Synodality in the Life and
Mission of the Church, số 3, 6, ... https://www.vatican.va/roman_curia/congregations/cfaith/cti_documents/rc_cti_20180302_sinodalita_en.html; được
truy cập ngày 20/10/2020.
[26] Xem Amado
Cencini, Giáo Dục, Huấn Luyện Và Đồng Hành - Một Sư Phạm Giúp Một Người Thể Hiện
Ơn Gọi Mình, Nhà xuất bản: Nxb Phương Đông, 2018; Cũng xem Đỗ Mạnh Cường,
“Sự hình thành động cơ và hành trình khám phá bản thân” trong
elib4u.files.wordpress.com, được truy cập ngày 20/10/2020.
[27] Xem Amado Cencini, Giáo Dục, Huấn
Luyện Và Đồng Hành - Một Sư Phạm Giúp Một Người Thể Hiện Ơn Gọi Mình.