GIÁO DỤC NHÂN BẢN TRONG GIA
ĐÌNH
Biển Đức Hoàng Mai Khanh
Gia đình Việt Nam
trong những thập kỷ qua có nhiều sự biến đổi dưới tác động của sự thay đổi
nhanh chóng của xã hội theo nhiều chiều hướng, cả tích cực lẫn tiêu cực.
Một số dữ liệu thống
kê cung cấp bức tranh tạm phác hoạ của gia đình Việt Nam:
- Tuổi kết hôn
trung bình là 25 tuổi. Tuổi kết hôn có chiều hướng tăng qua các năm có thể cho
thấy người trẻ có sự chín chắn, cẩn trọng hơn trong quyết định hôn nhân.
- Tỷ lệ lao động
nữ đã qua đào tạo tăng từ 12,3% (2007) lên 20,9% (sơ bộ 2017). Các số liệu thống
kê cho thấy tỷ lệ nữ giới được học tập và tham gia lao động ngoài xã hội ngày
càng tăng. Tuy nhiên, sự tham gia của nam giới vào công việc nội trợ, và cả việc
giáo dục con cái không tăng đáng kể và chưa tương xứng với sự gia tăng của phụ
nữ tham gia thị trường lao động (Nguyễn Hữu Minh. (2015). Gia đình Việt Nam sau
30 năm Đổi mới. Tạp chí Khoa học xã hội
Việt Nam. 11 (96)).
- Tình trạng mất
cân bằng giới tính khi sinh trong gia
đình Việt liên tục từ năm 2006 đến nay: 109,8 bé trai/100 bé gái (năm 2006)
lên 113,8 bé trai/100 bé gái (năm 2013), mất cân bằng cả ở nông thôn và thành
thị; người có điều kiện kinh tế, học vấn cao hơn lại lựa chọn giới tính khi
sinh nhiều hơn. Theo dự báo đến năm 2050, VN thừa 3-4 triệu đàn ông không lấy
được vợ.
- 27,5% gia đình Việt có xung đột: Theo
khảo sát trên 1.500 người của Viện Nghiên cứu xã hội, kinh tế và Môi trường
(iSEE) tiến hành trong tháng 5 và tháng 6/2015, gia đình Việt Nam đang đối mặt
với một số vấn đề như xung đột, bất hòa giữa các thành viên trong gia đình
(27,5%), ngoại tình (16%), nợ quá khả năng chi trả (9,9%) và các vấn đề khác.
- Theo số liệu của
Tổng Cục thống kê, năm 2016 có 24.308 vụ ly hôn đã xét xử; năm 2017 là 27.948.
Một số liệu khác lại cho thấy con số lớn hơn nhiều: năm 2000 là 51.361; năm
2005 là 65.929 (điều tra do Bộ VH-TT&DL, phối hợp với Tổng Cục Thống kê, với
sự hỗ trợ của UNICEF, trích theo Family).
2. Giáo dục gia đình qua một số nghiên cứu
2.1 Giáo dục gia
đình và tác động đến con cái
- Nguyễn Thị Anh
Thư (2006) phân tích 2 trường hợp trẻ được chẩn đoán tăng động giảm chú ý để chỉ
ra tác động của giáo dục gia đình, đặc biệt vai trò của cha và mẹ trong việc
kìm hãm, điều chỉnh những rối nhiễu ở trẻ hay làm tăng thêm rối nhiễu nếu cha mẹ
không có cách giáo dục phù hợp. Đoàn Việt (2005) nghiên cứu các biện pháp giáo
dục con của cha mẹ vùng nông thôn huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Kết quả nghiên cứu
cho thấy cha mẹ vẫn quan niệm đánh, mắng con là những biện pháp, công cụ để
giáo dục con; một số cha mẹ đã có thay đổi trong nhận thức về việc sử dụng các
biện pháp bạo lực trong giáo dục con nhưng trong thực tế họ vẫn thỉnh thoảng sử
dụng biện pháp bạo lực như giải pháp tức thời trong tình huống con phạm lỗi, điều
này cho thấy sự lúng túng của cha mẹ trong việc đổi mới nhận thức và phương
pháp giáo dục con.
- Tác giả Lưu
Song Hà (2008) tìm hiểu đánh giá của chính cha mẹ về bản thân và so sánh với cảm
nhận của con cái về cha mẹ ở học sinh trung học cơ sở. Kết quả cho thấy có những
khác biệt về mức độ hiểu con giữa đánh giá của người cha về bản thân và cảm nhận
của con về cha mình. Đối với người mẹ, sự khác biệt thể hiện ở tiêu chí tin tưởng
và bình đẳng.
- Nghiên cứu về
phong cách giáo dục của cha mẹ cho thấy cha mẹ có xu hướng giữ gìn các mối dây
liên hệ cho sự hoà hợp gia đình mà vẫn ủng hộ độc lập của cá nhân (Hoàng M.K.,
2005). Các cha mẹ Việt đều có chỉ số khuyến khích tự chủ-tự lập và chỉ số tình
cảm cao hơn chỉ số kiểm soát độc đoán.
- Các nghiên cứu
khác cũng cho thấy cha mẹ tỏ ra quan tâm nhiều đến con cái của mình ở những độ
tuổi khác nhau (Lưu Song Hà, 2007; Lã Thị Thanh Thủy, 2009; Nguyễn Thị Anh Thư
và Bùi Minh Đức, 2012). Đặc biệt, tác giả Lưu Song Hà trong nghiên cứu của mình
đã nhận thấy rằng, các em học sinh ở độ tuổi trung học cơ sở dù biết rằng cha mẹ
quan tâm nhiều đến mình, nhưng các em vẫn mong muốn được cha mẹ quan tâm hơn nữa,
và đối xử với mình bớt nghiêm khắc hơn. Đây cũng chính là hai điều mà các em học
sinh muốn cha mẹ mình thay đổi nhất. Theo lập luận của tác giả Lưu Song Hà thì
nguyên nhân của mong muốn này xuất phát từ việc cha mẹ của các em rất bận rộn với
công việc và không nhiều thời gian dành cho con - một thực tế chung cho phần lớn
các gia đình hiện nay. Theo kết quả Điều tra Gia đình Việt Nam 2006, vẫn còn một
tỷ lệ không nhỏ cha mẹ không dành chút thời gian nào để chăm sóc con cái dưới
15 tuổi: 6,8% người mẹ và 21,5% người cha.
- Sự thiếu hụt kiến
thức của các bậc cha mẹ về đặc điểm phát triển nhận thức, sự thay đổi tâm sinh
lý của con cái trong giai đoạn vị thành niên và không nắm được các phương pháp
giáo dục con một cách hiệu quả là nguyên nhân quan trọng làm tăng nguy cơ xung
đột giữa cha mẹ và con cái (Nguyễn Hữu Minh. (2015). Gia đình Việt Nam sau 30
năm Đổi mới. Tạp chí Khoa học xã hội Việt
Nam. 11 (96)).
2.2 Tương quan giữa
cha mẹ và con tuổi vị thành niên
Trẻ vị thành niên
được nuôi dưỡng tốt nhất khi những mối quan hệ trong gia đình của trẻ tìm được
sự cân bằng giữa sự tự chủ - tự lập và gắn bó với cha mẹ. Nghiên cứu của Allen
và cộng sự (1994) về sự cần thiết của cha mẹ trong việc tạo ra cân bằng giữa
phát triển tự chủ-tự lập và gắn bó với cha mẹ. Theo đó, có 2 loại hành vi đặc
thù liên quan đến sự tự chủ-tự lập của trẻ vị thành niên: hành vi cho phép và
hành vi kìm hãm. Những phụ huynh có hành vi cho phép được đánh giá cao thì thường
chấp nhận con cái của họ, đồng thời giúp trẻ phát triển và đưa ra ý kiến riêng
của mình thông qua những câu hỏi, sự giải thích, và sự bao dung về sự khác biệt
quan điểm. Ngược lại, cha mẹ nào sử dụng nhiều hành vi kìm hãm thì sẽ khó chấp
nhận cá tính của con em mình, đồng thời phản ứng lại với sự thể hiện suy nghĩ của
trẻ bằng những lời nhận xét là thiếu tập trung, phán xét hoặc ít có giá trị. Trẻ
vị thành niên có cha mẹ sử dụng nhiều hành vi cho phép lẫn một chút sự kìm hãm
thì có khả năng thể hiện cá tính nhiều hơn và có nhiều tiến triển trong sự phát
triển bản ngã cũng như năng lực tâm lý xã hội.
Thanh thiếu niên
dần dần có được quyền tự chủ - tự lập từ cha mẹ. Tuy nhiên, như đã trình bày ở
trên, khái niệm tự chủ tự lập được định nghĩa theo các khuynh hướng khác nhau.
Tự chủ cảm xúc đề cập đến sự độc lập, tách rời, liên quan đến sự thay đổi trong
tương quan giữa cha mẹ và trẻ. Tự chủ cảm xúc dường như đem lại những ảnh hưởng
rất khác biệt đến trẻ vị thành niên, phụ thuộc vào mức độ của sự hòa hợp trong
mối quan hệ giữa cha mẹ - trẻ. Những trẻ trở nên tự chủ về cảm xúc nhưng đồng
thời có cảm giác xa cách, tách biệt với cha mẹ thì sẽ có biểu hiện kém trong mức
độ đo lường về điều chỉnh tâm lý cá nhân, còn những trẻ khác, thể hiện cùng mức
độ tự chủ cảm xúc nhưng vẫn đi kèm cảm giác gần gũi, gắn bó với cha mẹ thì có đời
sống tinh thần khỏe mạnh hơn bạn bè cùng lứa.
Tự chủ về hành vi
đề cập đến khả năng quyết định và thực hiện độc lập. Nỗ lực ban đầu của thanh
thiếu niên để thiết lập hành vi tự chủ trong gia đình thường là nguyên nhân dẫn
đến xung đột giữa cha mẹ và thanh thiếu niên. Giữa thời kỳ niên thiếu, trẻ vị
thành niên hành động và được đối xử giống người lớn hơn. Trẻ có nhiều ảnh hưởng
đến các quyết định gia đình, và do vậy, không cần khẳng định ý kiến của mình bằng
các hành vi chưa trưởng thành (Grotevant, 1998). Trẻ cũng được phép dành nhiều
thời gian riêng tư mà không phải chịu sự giám sát trực tiếp của cha mẹ.
Nhìn chung, thanh
thiếu niên tự chủ- tự lập cho thấy họ khá thân với cha mẹ, thích có các hoạt động
chung với gia đình, tuy có một ít xung đột với cha mẹ nhưng thanh thiếu niên vẫn
cảm thấy thoải mái khi cha mẹ tư vấn, chia sẻ, và nói rằng họ muốn được như cha
mẹ (Kandel và Lesser, 1972). Các mối quan hệ gia đình căng thẳng xuất hiện có
liên quan đến thiếu tự chủ trong tuổi niên thiếu, chứ không phải với sự hiện diện
tất yếu của thời kỳ vị thành niên.
Có những thay đổi
trong sự hài hoà trong gia đình khi trẻ bước vào tuổi vị thành niên. Mặc dù có
ít nghiên cứu tìm hiểu về tình cảm giữa trẻ vị thành niên và cha mẹ, nhưng một
số ít minh chứng từ kết quả nghiên cứu cho thấy quan hệ giữa cha mẹ và con ít gần
gũi hơn khi trẻ bước vào tuổi vị thành niên, được nhận thấy qua việc trẻ ít
tham gia vào các hoạt động chung trong gia đình và cha mẹ và trẻ ít thể hiện
tình cảm. Thực ra, mối quan hệ ít gần gũi giữa cha mẹ và trẻ vị thành niên chỉ
là thể hiện mong muốn gia tăng sự độc lập và riêng tư của trẻ và vì trẻ đã lớn,
cha mẹ ít thể hiện tình cảm qua cử chỉ, lời nói, đó không phải là không còn
tình yêu và tôn trọng giữa cha mẹ và con cái (Montemayor, 1983, 1986). Nghiên cứu
cho thấy các mối quan hệ có thể trở nên ít mâu thuẫn và thân mật hơn trong giai
đoạn cuối tuổi vị thành niên (Thornton, Orbuch, và Axinn, 1995; Larson et al.,
1996).Trong các gia đình có sự gắn bó tốt giữa cha mẹ và con ở tuổi đầu vị
thành niên vẫn giữ được tương quan gần gũi trong giai đoạn vị thành niên mặc dù
tần suất trao đổi, tương tác và các hoạt động chung giữa cha mẹ và con có thể
giảm. Mặc dù một số trẻ vị thành niên và cha mẹ có những vấn đề mâu thuẫn,
nhưng nhìn chung trong các gia đình, trẻ vị thành niên vẫn có mối quan hệ tốt với
cha mẹ, tôn trọng cha mẹ và cảm nhận được tình yêu thương, quan tâm, chăm sóc
cha mẹ dành cho mình (Steinberg, 2001).
Mặc dù xung đột
là yếu tố đặc trưng trong mối quan hệ giữa trẻ vị thành niên và cha mẹ, nhưng
nghiên cứu cho thấy rõ ràng những xung đột gay gắt, thường xuyên và dẫn đến bạo
lực là không bình thường. Những ảnh hưởng tiêu cực của xung đột giữa trẻ vị
thành niên và cha mẹ không nằm ở vấn đề của xung đột mà ở cách thức giải quyết
xung đột. Xung đột thường được giải quyết bằng sự phục tùng của trẻ hoặc bằng
việc rút lui (bỏ đi chỗ khác), hoặc bằng việc bỏ ngoài tai những lời của cha mẹ
(Đỗ Hạnh Nga, 2014). Các cách thức này đều không đem lại hiệu quả cải thiện mối
quan hệ cũng như giúp trẻ phát triển năng lực giải quyết vấn đề. Các nhà nghiên
cứu cũng nhận thấy các gia đình rất khác nhau trong vấn đề mâu thuẫn và xung đột
giữa cha mẹ và con tuổi vị thành niên. Smetana (1996) đưa ra ba nhóm mâu thuẫn
gia đình: i) nhóm đông nhất thường xuyên có xung đột, nhưng không mâu thuẫn
không gay gắt, lặt vặt và không có bạo lực; ii) một nhóm nhỏ các gia đình được
thấy là không hề có xung đột giữa cha mẹ và con vị thành niên; iii) nhóm gia
đình thứ ba cũng thường xuyên có xung đột, mâu thuẫn gay gắt và có thể dẫn đến
bạo lực. Theo Smetana (1996), nhóm gia đình 1 thuộc loại gia đình với những xáo
trộn điển hình trong thời kỳ này, nhóm 2 là một số ít các gia đình đã khéo léo
vượt qua được các khó khăn và thành công trong việc điều chỉnh lại các mối quan
hệ để phù hợp với đặc điểm phát triển của tuổi vị thành niên, nhóm 3 đại diện
cho các gia đình với nguy cơ rối loạn tâm thần và các vấn đề về điều chỉnh hành
vi nơi trẻ vị thành niên. Tóm lại, mâu thuẫn và xung đột thường xuyên, gay gắt,
bạo lực là điều không bình thường trong thời kỳ vị thành niên; trong khi những
tranh cãi về công việc nhà, quần áo, thời gian vào internet, hoặc các quy tắc,
quy định là điều bình thường trong các gia đình có con tuổi vị thành niên. Hầu
hết những mâu thuẫn này thể hiện sự thay đổi trong quá trình trưởng thành về nhận
thức của trẻ, đặc biệt sự nhìn nhận và thể hiện quan điểm cá nhân về quy ước xã
hội.
2.3 Phong cách
giáo dục của cha mẹ
Nghiên cứu của
Hoàng Mai Khanh (2014) về bốn yếu tố thể hiện phong cách giáo dục của cha mẹ tại
một trường THCS quận 1, TP. HCM cho thấy cha mẹ tự đánh giá mình thể hiện sự
yêu thương, quan tâm đến con cái tương đối khá, đồng thời không đề cao cách
giáo dục áp đặt, con cái phải hoàn toàn tuân theo yêu cầu của cha mẹ. Tuy nhiên,
cha mẹ vẫn sử dụng hình phạt với con cái. Cha mẹ vẫn sử dụng hình phạt như một
cách thức kỷ luật đối với con: 83,8% cha và mẹ đồng ý và hoàn toàn đồng ý dùng
hình phạt khi con hư, nhưng cha mẹ cũng nhận thức rằng hình thức chỉ trích và
la mắng không phải là cách giáo dục tốt để con tiến bộ (71% cha mẹ ít đồng ý và
không đồng ý với hình thức này).
Khuyến khích tự
chủ - tự lập là yếu tố được cha mẹ quan tâm thực hiện trong giáo dục con cái ở
độ tuổi THCS. 75% cha mẹ khuyến khích con tự tìm cách giải quyết vấn đề khi gặp
khó khăn. Cha mẹ chỉ đóng vai trò hướng dẫn, tư vấn, trẻ được tự do suy nghĩ và
chọn lựa. Một kết quả thú vị là cha mẹ rất chú trọng việc phát triển nhận thức,
suy nghĩ độc lập cho con qua việc khuyến khích con đặt câu hỏi và suy nghĩ về
cuộc sống (91% đồng ý và hoàn toàn đồng ý).
Một kết quả tích
cực từ nghiên cứu là các chỉ số thể hiện sự xung khắc giữa cha mẹ và con được
đánh giá thấp nhất. Chính trẻ vị thành niên cũng nhận xét ít có mâu thuẫn với
cha mẹ. Kết quả này cho thấy xung đột giữa cha mẹ và trẻ vị thành niên thường
là những xung đột nhỏ, lặt vặt, không gay gắt và không có bạo lực. Đây là những
xung đột điển hình trong thời kỳ này, cả cha mẹ và trẻ đều đang trải qua một thời
kỳ thích nghi với một giai đoạn/chu kỳ mới trong cuộc sống gia đình. Trẻ khám
phá chính bản thân mình, khám phá khả năng tiềm ẩn của chính mình, học hỏi và
rèn luyện những khả năng đó để định vị mình trong xã hội. Cha mẹ cũng học hỏi
và thích nghi với sự trưởng thành của con cái.
Cũng giống như
cha mẹ, cảm nhận của con về tình yêu thương quan tâm của cha mẹ có chỉ số cao
nhất, tiếp đến là yếu tố khuyến khích tự chủ - tự lập. Trẻ vị thành niên cũng
có nhận định cha mẹ mình không kiểm soát độc đoán cao trong giáo dục và ít có
xung khắc giữa cha mẹ và con.
Kết quả nghiên cứu
cũng cho thấy cha mẹ và trẻ vị thành niên đều đánh giá cao yếu tố khuyến khích
sự tự chủ - tự lập, và có sự tương đồng trong quan điểm, nhìn nhận sự tự chủ -
tự lập trên 3 khía cạnh: trách nhiệm, thể hiện bản thân và khả năng chọn lựa.
Cha mẹ và thiếu niên định nghĩa tự chủ - tự lập là có tinh thần trách nhiệm, chủ
động, tự giác, thể hiện bản thân và khả năng quyết định. Quan điểm này phù hợp
với khái niệm cái Tôi tự chủ trong liên đới (autonomous-related Self
(Kagitcibasi, 1996)) không trở nên tách biệt, độc lập hoàn toàn với người khác,
mà là hài hòa và phù hợp với người khác. Trong quá trình phát triển bản sắc cá
nhân và xã hội, gắn bó an toàn và khích lệ của cha mẹ là một trong những điều
kiện cần thiết. Trong quá trình đạt đến tự chủ - tự lập, trẻ phát triển bản sắc
cá nhân và xã hội trong các mối quan hệ xã hội bình đẳng và hỗ trợ tích cực. Sự
gắn bó an toàn và khích lệ của cha mẹ rõ ràng cần thiết và thúc đẩy quá trình
phát triển tự chủ - tự lập của thanh thiếu niên. Có thể kết luận trong các gia
đình lành mạnh, các thiếu niên thân thiết với cha mẹ, đáp ứng thẩm quyền của
cha mẹ và tiếp tục tin tưởng vào sự tư vấn của cha mẹ, trong khi vẫn thể hiện
tính tự chủ - tự lập ngày càng cao trong các hoạt động của cuộc sống.
2.4 Bàn luận về
giáo dục nhân bản qua các kết quả nghiên cứu về giáo dục gia đình và những
thách thức của gia đình
Giáo dục Nhân bản
(bản chất của con người) là giáo dục nhằm giúp nhận biết con người thật của
mình là hình ảnh của Thiên Chúa, duy nhất, độc đáo, độc lập, trọn vẹn giá trị.
Theo định nghĩa này, bức tranh giáo dục của cha mẹ được trình bày từ các kết quả
nghiên cứu có thể đưa đến kết luận như thế nào về giáo dục nhân bản trong gia
đình?
Với phong cách
giáo dục dân chủ - nghiêm minh, thể hiện tình yêu thương, quan tâm đối với con
và khuyến khích sự tự chủ - tự lập, khám phá và phát triển “cái Tôi” duy nhất,
độc đáo trong sự liên đới, trách nhiệm với con người, môi trường và xã hội, cha
mẹ đã đáp ứng mục tiêu của giáo dục nhân bản.
Tuy nhiên, cũng cần
nêu rõ là nghiên cứu thực hiện trên địa bàn quận trung tâm, các gia đình lành mạnh
và cha mẹ có trình độ và hiểu biết tốt. Vẫn còn một tỷ lệ không nhỏ các cha mẹ
bận rộn suốt ngày, trẻ con bị giảm thiểu các mối quan hệ giao tiếp và cũng là
giảm thiểu những bài tập đầu tiên và cơ bản của giao tiếp xã hội. Ở nông thôn,
cha mẹ bỏ ra thành phố kiếm việc dài ngày, con cái phó mặc cho ông bà già. Ở
thành thị, trẻ được giao phó cho người giúp việc, trẻ chỉ nhận được tình yêu của
cha mẹ qua vài dòng dặn dò ghi trên tấm bảng. Có trẻ tự nhận mình mồ côi ngay
khi vẫn còn bố mẹ. Các cha mẹ giáo dục con cái không đúng cách, làm ngơ cho lỗi
lầm của con trẻ, đánh đòn con bất kể lý do gì, hay có thái độ bất lực đối với
các hành vi mắc lỗi của con cái. Số liệu điều tra Thanh niên và vị thành niên
Việt Nam lần 2 (SAVY 2009) cho thấy, có đến 4,1% trẻ vị thành niên tuổi 14 - 17
cho biết đã bị người trong gia đình đánh thương tích, có thể hiểu chủ yếu là
cha mẹ đánh. Số liệu Điều tra Gia đình Việt Nam 2006 cho biết, có 1,4% người
làm cha mẹ đã đánh trẻ khi con cái mắc lỗi trong 12 tháng trước khảo sát. Sự
thiếu hụt kiến thức của các bậc cha mẹ về đặc điểm phát triển nhận thức, sự
thay đổi tâm sinh lý của con cái trong giai đoạn vị thành niên và không nắm được
các phương pháp giáo dục con một cách hiệu quả là nguyên nhân quan trọng làm
tăng nguy cơ xung đột giữa cha mẹ và con cái.
Bên cạnh những thách
thức như công việc bận rộn, thời gian eo hẹp, cả cha và mẹ đều đi làm. Xung đột
giá trị là một trong những thách thức lớn của gia đình. Trong bối cảnh của tiến
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhất là dưới sự tác động của toàn cầu
hóa, hệ giá trị gia đình ở Việt Nam đang có sự biến đổi rất lớn. Bên cạnh những
giá trị cổ truyền như “kính trên, nhường dưới”, “trọng xỉ” (tôn trọng người cao
tuổi), thì những giá trị mới như coi trọng “quyền tự do cá nhân”, “bình đẳng giới”,
“quyền trẻ em”, “sự tự chủ - tự lập” cũng ngày càng được khẳng định. Các nghiên
cứu xã hội học cũng ghi nhận xu hướng tiếp nhận giá trị mới, tiêu biểu nhất là
sự bình đẳng giới, bình đẳng giữa các thế hệ trong đời sống gia đình. Tỷ lệ ưu
tiên lựa chọn giá trị này ở mức trung bình (51,6%), phản ánh tính chất quá độ
trong sự chuyển đổi của gia đình từ truyền thống sang hiện đại. Bình đẳng là một
giá trị của xã hội hiện đại, hơn nữa, là một giá trị thuộc về chất lượng cuộc sống.
Trong thời kỳ hiện đại, nhất là ở các xã hội đang chuyển đổi, người ta không thể
không có sự lựa chọn giữa giá trị sinh tồn và giá trị tự biểu hiện, giá trị
nâng cao chất lượng cuộc sống.
Sự biến đổi này,
trong một chừng mực nhất định, đã làm cho mối quan hệ ông bà - cha mẹ - con
cháu không thuận chiều như trước đây và làm tăng những mâu thuẫn và xung đột thế
hệ. Điều tra Gia đình Việt Nam 2006 cho biết, có khoảng 1/10 số ý kiến từ các hộ
gia đình có 3 thế hệ chung sống thừa nhận có sự không thống nhất về các vấn đề
về lề lối sinh hoạt, cách quản lý tiền và tiêu tiền, cách thức làm ăn và phát
triển kinh tế gia đình, cũng như về phương pháp giáo dục con cháu.
Tuy nhiên, từ các
lý thuyết và kết quả nghiên cứu về phong cách giáo dục của cha mẹ, có thể thấy
các giá trị truyền thống hay các giá trị mới đều không hề xung đột với phong
cách giáo dục yêu thương, quan tâm, xây dựng tương quan gắn bó, tin tưởng, chia
sẻ, lắng nghe và tôn trọng giữa cha mẹ và con và khuyến khích sự tự chủ - tự lập.
Bên cạnh đó, giáo
dục nhân bản và giáo dục đức tin còn thông qua chính cuộc sống, công việc, các
tương quan, ứng xử, các quyết định, chọn lựa hằng ngày của cha mẹ. Đó chính là
cuốn sách sống động về giáo dục nhân bản và đức tin cho con cái.
Tóm lại, giáo dục
là một ơn gọi, sứ mạng cao cả nhất của cha mẹ được thực hiện qua cuộc sống hằng
ngày, qua từng ứng xử, từng lời nói với con cái. Giáo dục của cha mẹ mang tính
cách độc đáo - cha mẹ là “người mẫu” (dù muốn hay không muốn). Trẻ thẩm thấu từ
cha mẹ cách yêu thương chính mình và yêu thương người khác, các quan niệm và
giá trị, các hành động, ứng xử, giải quyết vấn đề và các chọn lựa trong cuộc sống.
Tương quan giữa cha mẹ và con cái là một tình yêu đặc biệt, không thể thay thế,
cùng với những hiểu biết khoa học về giáo dục, tâm lý sẽ giúp cha mẹ trở thành
Người thầy tuyệt vời nhất của con.
WHĐ (02-06-2020)
Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGMVN, Số 115 (tháng 11 & 12 năm 2019)
- Allen, J.,
Hauser, S., Bell, K., and O'Connor, T. (1994). Longitudinal assessment of
autonomy and relatedness in adolescent-family interactions as predictors
of adolescent ego development and self- esteem. Child Development 64, pp. 179-194.
- Đỗ Hạnh Nga
(2014), Xung đột tâm lý giữa cha mẹ
và con lứa tuổi học sinh trung học cơ sở về nhu cầu độc lập. TP. HCM:
NXB ĐHQG-HCM.
- Grotevant,
H. (1998). Adolescent development in family contexts. In W. Damon (Series
Ed.) and N. Eisenberg (Vol. Ed.), Handbook
of child psychology: Vol. 3. Social, emotional, and personality
development. (5th ed., pp. 1097-1150). New York: Wiley.
- Hoàng Mai
Khanh. (2005). Pratiques éducatives
parentales et l'autonomie de l'enfant. Comparaison France-Viet Nam.
Thèse de doctorat en Sciences de l'Éducation. Université
de Paris X - Nanterre, France.
- Hoàng Mai
Khanh. (2014). Phong cách giáo dục của
cha mẹ: tự đánh giá của cha mẹ và nhận định từ con cái lứa tuổi học sinh
THCS. Đề tài NCKH trường ĐH KHXH&NV, ĐHQG TP. HCM.
- Kagitcibasi,
C. (1996). Family and human
development across cultures: A view from the other side. Hillsdale,
NJ: Lawrence Erlbaum.
- Kandel, D.,
and Lesser, G. (1972). Youth in two
worlds. San Francisco: Jossey-Bass.
- Lã Thị Thanh
Thủy. 2009 Mức độ kỳ vọng của cha mẹ
đối với con cái lứa tuổi tiểu học. Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế
“Nhu cầu, định hướng và đào tạo tâm lý học đường tại Việt Nam”, Hà Nội,
08/2009, 232-237.
- Lưu Song Hà
(2007), Tự đánh giá của cha mẹ và những khác biệt giữa nó với cảm nhận của
con về cha mẹ trong quan hệ cha mẹ - con lứa tuổi học sinh trung học cơ sở,
Tạp chí Tâm lý học, số 2-2007,
tr.24-29.
- Lưu Song Hà.
(2008). Tác động của giáo dục gia đình đến động cơ thành đạt của thanh
niên. Tạp chí Tâm lý học, 8,
16-21.
- Montemayor,
R. (1983). Parents and adolescents in conflict: All families some of the
time and some families most of the time. Journal of Early Adolescence, 3, 83-103
- Montemayor, R. (1986). Family variation in parent-adolescent storm and stress. Journal of Adolescent Research, 1, 15-31.
- Montemayor, R., and
Brownlee, J. (1987). Fathers, mothers, and adolescents: Gender-based
differences in parental roles during adolescence. Journal of Youth and Adolescence, 16, 281-292.
- Nguyễn Hữu
Minh. (2015). Gia đình Việt Nam sau 30 năm Đổi mới. Tạp chí Khoa học xã hội
Việt Nam. 11 (96).
- Nguyễn Thị
Anh Thư, (2006), Ảnh hưởng của giáo dục gia đình đến tăng động giảm chú ý ở
trẻ em, Tạp chí Tâm lý học, số
11 (92), tr.34-39.
- Nguyễn Thị
Anh Thư và Bùi Minh Đức. (2012). Mối quan hệ giữa ứng xử trong gia đình và
kết quả học tập của học sinh trung học cơ sở. Tạp chí Tâm lý học, 8, 68-79.
- Smetana, J.
G. (1996). Adolescent-parent
conflict: Implications for adaptive and maladaptive development.
Rochester, NY: University of Rochester Press.
- Steinberg,
L., & Morris, A. S. (2001). Adolescent development. Annual Review Psychology, 52,
83-110.
- Thornton, A., Orbuch, T. L., and Axinn, W.G. (1995). Parent-child relationships during the transition to adulthood. Journal of Family Issues, 16, 538-564.