GIẢI ĐÁP THẮC MẮC CHO NGƯỜI TRẺ CÔNG GIÁO
Bài 74: VẤN ĐỀ ĐỘC THÂN CỦA LINH MỤC
Hỏi: Con thấy nếu linh mục có vợ, có gia
đình cũng tốt. Là con người, họ cũng cần được mái ấm gia đình.
Tại sao Giáo hội Công giáo luôn gay gắt bảo vệ luật độc thân linh
mục?
Trả lời:
Chào bạn,
Cùng với vấn đề phong chức linh mục cho nữ giới,
đây cũng là một chủ đề lâu nay vẫn tạo ra những cuộc tranh cãi sôi nổi. Có nhiều
người trình bày quan điểm giống như bạn: linh mục cũng là con người, họ cũng có
những nhu cầu căn bản của một con người, một trong số đó là có gia đình riêng,
vậy tại sao Giáo hội Công giáo không cho phép các linh mục của mình lập gia
đình? Bên Giáo hội Đông Phương, người ta được phép lập gia đình trước khi thụ
phong linh mục. “Được phép” có nghĩa là họ có quyền chọn lập gia đình hay
không. Khi đã chịu chức linh mục rồi thì không được phép nữa. Chỉ những linh mục
nào chọn không lập gia đình thì mới có thể được chọn để trở thành giáo chủ
(giám mục).[1]
Nhiều người Công giáo đã dựa vào điều này để cho rằng bên Công giáo quá khắt
khe. Tuy vậy, không có một quy định nào mà không có lý do của nó, mà nếu hiểu
rõ được, chúng ta sẽ dễ dàng chấp nhận hơn.
Lịch sử
của luật độc thân linh mục
Trong Cựu Ước, việc sống tiết dục là điều vô
cùng khó hiểu, nếu không muốn nói là một trừng phạt của Thiên Chúa. Người nào
không có con thì bị cho là do Thiên Chúa quyền rủa. Sự phong nhiêu, sinh con đẻ
cái là một phúc lành lớn lao. Ta được biết đến câu chuyện của những người phụ nữ
hiếm muộn đã bị người đời chê bai, nhưng được Thiên Chúa đoái thương ban cho mụn
con dù tuổi đời đã lớn, như vợ của ông Manoac, mẹ của Samson (x.Thp 13,1 –
14,20), hay bà Anna, mẹ của tiên tri Samuel (x.1Sam 1), hay gần hơn là bà
Elisabet, mẹ của Gioan Tẩy Giả. Tiên tri Giêrêmia là người bị Thiên Chúa bắt phải
sống độc thân. Thiên Chúa không cho ông kết hôn, sinh con đẻ cái như một hình ảnh
để ám chỉ sự khô cằn của dân Do Thái, do dân này đã bất tuân mệnh lệnh của
Thiên Chúa. Sự độc thân trở nên một hình phạt, chứ không phải là điều đáng ao ước.
Đức Giêsu cũng không nói nhiều đến sự độc thân
và khiết tịnh. Chỉ có một số ít trường hợp, Ngài nói một cách qua loa sơ sài để
dạy các môn đệ một số vấn đề liên quan đến luân lý và mầu nhiệm Nước Trời. Chẳng
hạn, nơi Mt 22,30–31, Đức Giêsu mặc khải rằng: “Trong ngày sống lại, người ta chẳng lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống
như các Thiên Thần trên trời.” Nơi khác, Ngài nói: “Quả vậy, có những người không kết hôn vì từ khi lọt lòng mẹ, họ đã
không có khả năng; có những người không thể kết hôn vì bị người ta hoạn; lại có
những người tự ý không kết hôn vì Nước Trời. Ai hiểu được thì hiểu!” (Mt
19,12). Trong số các Tông Đồ của Chúa Giêsu, cũng có các vị đã lập gia đình, có
vợ (như Phêrô chẳng hạn – x.Mc 1,29–31 – Đức Giêsu chữa bệnh cho nhạc mẫu ông
Phêrô). Lc 18,29 còn đề cập đến chuyện “bỏ nhà, bỏ vợ, bỏ anh em, cha mẹ hay
con cái vì Nước Thiên Chúa”. Thánh Phaolô cũng có nhắc đến sự độc thân theo
gương ngài để lo việc rao giảng Tin Mừng (x. 1Cor 7,8.25–40). Cũng chính Phaolô
trong thư gửi cho Timôthê, đã đưa ra những tiêu chuẩn cần thiết để chọn giám quản
(giám mục), trong đó, ngài nói đến “chỉ có một đời vợ, tiết độ, chừng mực…”
(x.1Tm 3,2–8).
Thế nhưng, sau đó, ngay từ khi đời tu vừa chớm
nở, các ẩn sĩ đã xem việc sống độc thân là một trong những điều kiện hàng đầu để
lo chuyên tâm chiêm niệm Thiên Chúa. Họ sống một mình trong sa mạc, ngoài chuyện
từ bỏ mọi của cải, ăn uống đạm bạc, hoà mình với thiên nhiên, họ còn kiêng khem
cả chuyện tính dục. Bởi thế, mới có những phong trào thánh hiến trinh nữ và các
goá bụa vào khoảng thế kỷ thứ 2 hoặc 3. Những ai muốn dâng hiến mình cho Chúa đều
tự thấy phải tách mình ra khỏi những tương quan gắn bó trần thế khác (đặc biệt
là những tương quan có dính líu đến tính dục và trách nhiệm) để chỉ chuyên chăm
cho việc phụng sự một mình Ngài.
Ban đầu, các giám mục và linh mục vẫn có gia
đình riêng. Chúng ta thấy “dấu vết” của quy định tiết dục dành cho các giám mục
xuất hiện trong tác phẩm Didascalia
Apostolorum (thế kỷ III), thậm chí đòi buộc họ phải hứa trước khi được
phong chức.[2]
Đến khoảng năm 300–303, công đồng Elvira (gần Granada–Tây Ban Nha ngày nay), lặp
lại đòi buộc này. Lưu ý là công đồng đòi “tiết dục” chứ không phải “không được
lập gia đình”. Điều 3 của công đồng Nicea (325) quy định rằng “cấm tất cả giám
mục, linh mục, phó tế hay bất cứ tu sĩ (nam) ở với một phụ nữ (ngoài trừ người
thân như mẹ, chị, cô dì và những người nào không gây ra nghi ngờ tương quan mờ
ám). Thư của Đức Siricus ở Rôma (385) và công đồng Carthage (390) cũng nhắc lại
luật này, buộc các giám mục, linh mục, phó tế đang có gia đình phải tiết dục.
Đến thế kỷ V, Giáo hội Công giáo đòi những ứng
viên linh mục, giám mục phải hứa sống độc thân. Công đồng Orange (441) và Arles
(524) chấp thuận đòi hỏi này. Công đồng Metz và Mainz (thế kỷ IX) chính thức cấm
linh mục và giám mục lập gia đình. Cuối thế kỷ XI, Đức Gregorio, trong quá
trình cải tổ giáo luật, đã buộc mọi linh mục và giám mục sống độc thân. Công đồng
Laterano I (năm 1123), điều 21, nhắc lại quy định này. Công đồng Laterano II
(1139), điều 6 và 7 quy định rằng những linh mục, phó tế hay phụ phó tế nào vi
phạm luật độc thân sẽ bị loại trừ khỏi chức vụ và cấm giáo dân dự lễ những linh
mục phạm luật này. Công đồng Trento (1542–1563), trong phiên họp thứ 24, điều
9, đã quy định rằng hôn phối được giao kết của người có chức thánh hay người có
lời khấn trọng giữ mình khiết tịnh thì vô hiệu.
Giáo Lý Hội Thánh Công giáo số 1579 nói rằng:
“Trong Giáo hội La–tinh, trừ các phó tế vĩnh viễn, mọi thừa
tác viên có chức thánh thường được tuyển chọn từ những người nam sống độc thân
và có ý giữ độc thân “vì Nước Trời” (Mt 19,12). Ðược mời gọi tận hiến cho Chúa
để “lo việc của Người” (x. 1Cor 7, 32), các ngài hiến thân trọn vẹn cho Thiên
Chúa và con người. Ðời sống độc thân là dấu chỉ của sự sống mới mà các thừa tác
viên của Hội Thánh được thánh hiến để phục vụ. Nếu hân hoan đón nhận đời sống độc
thân này, các ngài sẽ loan báo Nước Trời hữu hiệu hơn (x. PO 16).
Giáo Luật 1983 điều 1037:
“Người sắp được tiến chức phó tế vĩnh viễn mà không kết
hôn, cũng như người sắp được tiến chức Linh Mục, không được chấp nhận để chịu
chức phó tế nếu họ đã không công khai đảm nhận nghĩa vụ sống độc thân trước
Thiên Chúa và Giáo hội, theo nghi thức đã được quy định, hoặc nếu họ đã không
tuyên khấn vĩnh viễn trong một hội dòng.”
Giáo Luật Điều 1041 quy định rằng:
“Người đã mưu toan kết hôn, dầu chỉ là hôn nhân theo luật
dân sự, trong khi còn mắc ngăn trở không kết hôn được do dây hôn nhân, hoặc do
chức thánh, hoặc do lời khấn công vĩnh viễn giữ đức khiết tịnh, hoặc vì đương sự
đã kết hôn với một người nữ đã kết hôn thành sự hay đang bị ràng buộc bởi cùng
lời khấn giữ đức khiết tịnh ấy”, thì bất hợp luật để
chịu chức.
Chúng ta vừa lược qua đôi nét lịch sử về những
quy định liên quan đến luật độc thân linh mục. Hẳn là bạn đang thắc mắc: tại
sao lại phải quy định như thế? Chúng ta hãy cùng tìm hiểu lý do.
Vì sao
có luật độc thân linh mục?
Có hai điều chúng ta cần lưu ý trước khi bắt đầu
vào vấn đề chính. Điều thứ nhất, cần có sự phân biệt giữa các linh mục triều
(linh mục giáo phận) và các linh mục dòng (linh mục thuộc về một hội dòng nào
đó, bị ràng buộc bởi các lời khấn). Một linh mục dòng, vì đã tự nguyện khấn lời
khấn khiết tịnh, nên không thể kết ước hôn phối được. Hay nói cách khác, người
đó sống độc thân, ngoài việc phải tuân theo quy định của Giáo hội, còn do bởi
chọn lựa không kết hôn với người khác của chính mình. Giả như một ngày nào đó,
Giáo hội cho phép các linh mục được lập gia đình, thì các linh mục dòng cũng
không thể vì họ bị lời khấn khiết tịnh mà họ tự nguyện chọn khấn trói buộc.
Điều thứ hai, chúng ta thấy rằng quy định độc
thân linh mục trong Giáo hội Công giáo mang tính kỷ luật hơn là thần học. Có
nghĩa là ân sủng của bí tích truyền chức thánh và bí tích hôn phối không đối
nghịch và loại trừ nhau. Giả như có ai đó được lãnh nhận cách thành sự hai bí
tích này thì ân sủng của Thiên Chúa vẫn ban đầy đủ cho người ấy[3].
Vì thế, những lý do để có quy định độc thân sẽ đến từ lý do mục vụ. Nó là luật
do Giáo hội quy định nhằm giúp ích cho việc phục vụ của các linh mục và cho đời
sống chung của Giáo hội chứ không phải là một điều gì đó xấu xa, đối nghịch với
Thiên Chúa. Vậy, linh mục sống độc thân thì có lợi ích gì?
Chúng tôi tin là chính bạn cũng có thể tìm ra
vài lợi ích. Trong số đó, chắc chắn là có việc giúp các linh mục thoát khỏi những
mối bận tâm mà họ sẽ phải có nếu kết hôn, như trách nhiệm với vợ con. Không có
gia đình riêng, họ sẽ toàn tâm toàn ý cho việc chăm sóc mục vụ. Họ không phải vừa
lo cho xứ đạo, vừa phải dàn xếp những việc riêng ở nhà. Việc thuyên chuyển các
linh mục cũng sẽ trở nên dễ dàng hơn. Các tín hữu cũng sẽ thoải mái hơn khi tìm
đến với họ và chính họ cũng tự do hơn để lắng nghe, chia sẻ, nâng đỡ họ. Người
ta sẽ không sợ những tâm tư hay thậm chí là tội của mình sẽ bị vị linh mục “vô
tình” tiết lộ cho vợ. Việc điều hành giáo xứ cũng sẽ công tâm hơn, ít là không
bị “hậu cung” can thiệp vào. Việc linh mục độc thân cũng giúp Giáo hội tránh khỏi
những điều tiếng như phản bội, bất hoà, ly dị… (vì nếu linh mục có gia đình,
khó có thể chắc rằng những chuyện này không xảy ra trong gia đình riêng của họ).
Ngoài ra, Giáo hội cũng cảm thấy không đủ khả
năng để chu cấp cho các giáo sĩ có gia đình. Nếu linh mục có gia đình, linh mục
cần nhiều tiền hơn để trang trải cho cuộc sống mà nơi đó họ là trụ cột. Họ sẽ
phải dính dáng nhiều đến vấn đề tài chính, mà đây lại là nguồn cơn của nhiều vấn
đề khác…
Đến đây có thể bạn sẽ chất vấn chúng tôi bằng
những câu hỏi kiểu như: các linh mục ở Giáo hội Đông Phương có vợ con, đời sống
của họ, thậm chí là Giáo hội ấy vẫn phát triển tốt đẹp đấy thôi; hơn nữa, việc
linh mục sống độc thân cũng gây ra nhiều vấn nạn như họ sẽ cảm thấy cô đơn, họ
sẽ có vấn đề về tâm lý, những dồn nén về tính dục có thể dẫn họ đến những sai
phạm tính dục mà dạo gần đây Giáo hội đang phải đối mặt… Biết đâu, việc cho
phép các linh mục được lấy vợ có thể giải quyết được những vấn đề này, mà cũng
không làm mất đi những lợi ích (hoặc không làm tổn hại nhiều) đã được nói ở
trên?
Trả lời cho những câu hỏi này của bạn, chúng
ta buộc phải tìm hiểu ý nghĩa thiêng liêng của việc độc thân của các linh mục.
Sự độc thân của các linh mục không giống như kiểu độc thân của những người bị “ế”
hoặc không thích lập gia đình, nhưng là “độc thân vì Nước Trời”. Đó là kiểu độc
thân giúp cho vị linh mục dâng hiến cho Thiên Chúa khả năng yêu thương của
riêng mình để có thể đạt tới sự thánh hoá bản thân và mưu ích cho tha nhân cách
hữu hiệu hơn, dễ dàng hơn. Họ dâng lên Chúa một trái tim không hề bị sẻ chia, để
mong sao được thuộc về Chúa cách trọn vẹn hơn. Họ dâng hiến hết tất cả tâm
tình, phái tính, dục tính và mọi bản năng chiếm đoạt cũng như thống trị cho
Chúa Thánh Thần để được thanh luyện và thánh hoá. Con người họ sẽ được sử dụng
cho tình yêu, bắt xác thịt phụ thuộc tinh thần, chứ không có sự phân tách, sẻ
chia.
Chọn độc thân vì Nước Trời không phải là chọn
một tình yêu đối nghịch với tình yêu nhân loại, càng không phải là khinh miệt
hôn nhân, không phải biến mình trở nên khác người, nhưng là mở ra với một tương
quan mới, có dính dáng đến giới tính, nhưng không qua chuyện tính dục. Các linh
mục chọn yêu Chúa như đối tượng độc nhất và nguồn mạch, để rồi từ đó, họ được mời
gọi yêu mọi con người bằng một tình yêu phổ quát, cho đi, không thu vén. Họ chọn
không thuộc về ai để có thể thuộc về tất cả. Như thế, họ chẳng những không mất
khả năng trao hiến mà còn trao hiến cách phổ quát và rộng rãi hơn. Giáo luật
599 còn nói đến sự khiết tịnh trong đời tu như một dấu chỉ cho Thiên Đàng, cho
một thế giới mới sẽ đến và là nguồn sinh lực phong phú trong một con tim không
chia sẻ.
Qua đời sống độc thân vì Nước Trời, các linh mục
trở thành chứng nhân cho tình yêu Thiên Chúa mà họ cảm nghiệm được. Người ta
cho rằng sống độc thân là kỳ cục, ấy là vì họ không hiểu được nét huyền diệu của
sự quyến rũ nơi tình yêu Thiên Chúa. Sự độc thân của linh mục chứng minh cho thế
giới thấy Thiên Chúa và tình yêu của Ngài hoàn toàn có thực. Họ làm chứng cho sự
hiện diện của ơn Chúa trong thế gian này vì nếu không có ơn Chúa, không ai có
thể sống độc thân được.
Qua đời sống độc thân vì Nước Trời, các tu sĩ
làm chứng cho một tình yêu không cần đến thoả mãn nhục dục, nhờ đó, họ có thể tạo
nên một sức cảm hoá lớn. Họ cũng làm chứng cho sự phục sinh, sự sống mới nơi mà
người ta không còn dựng vợ gả chồng nhưng sống như các Thiên Thần (x.Mt
22,30–31). Sự độc thân giúp người tu sĩ thêm ứng trực và năng động hơn trong mọi
nơi mọi lúc. Sự phục vụ thêm cảm hoá vì không giới hạn đối tượng và không gian.
Không bị tương quan nào kiềm kẹp, người tu sĩ có thể đến với mọi hạng người, có
thể tiếp xúc với bất kỳ người nào và hình thành những tương quan tình yêu phổ
quát. Không bị mối bận tâm nào giữ, không phải lo kiếm kế sinh nhai cho gia
đình riêng, người tu sĩ không có bận tâm nào khác ngoài mối bận tâm lo mở mang
Nước Chúa. Tắt một lời, các linh mục chọn sống độc thân vì họ muốn nên giống
như Giêsu, vị linh mục thượng phẩm đã sống độc thân vì Nước Trời.
Để minh chứng cho những gì vừa nói, chúng tôi
xin trích dẫn tại đây đôi dòng của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong
Tông Huấn Pastores Dabo Vobis về sự
độc thân của linh mục:
“Trong sự trong trắng và độc thân, con người đợi chờ cuộc
hôn nhân cánh chung của Đức Kitô và Giáo hội, nhằm dâng hiến trọn vẹn bản thân
mình cho Giáo hội trong sự thật tròn đầy của cuộc sống vĩnh cửu… Dưới ánh sáng
này, chúng ta có thể chấp nhận lý do mà Giáo hội Công giáo Tây Phương đã chọn
và duy trì từ những thế kỷ trước về phẩm trật của hàng giáo sĩ nhằm chỉ những
người nam được xác nhận là được Chúa mời gọi với ân ban sống khiết tịnh hoàn
toàn và độc thân vĩnh viễn, mặc cho mọi khó khăn và phản đối nổi lên từ nhiều
thế kỷ… Việc linh mục hiểu biết động cơ thần học của giáo luật về độc thân có một
tầm quan trọng đặc biệt. Vì là luật, nó thể hiện ý muốn của Giáo hội, ý muốn đó
được tìm thấy trong sự liên đới giữa sự độc thân và việc phong chức thánh. Qua
chức thánh, linh mục đóng vai trò Chúa Giêsu với tư cách là đầu và hôn phu của
Giáo hội.” (số 29).
Không ai ép
các linh mục phải sống độc thân. Là chính họ đã chọn sống như thế khi được hỏi
lúc truyền chức. Vì thế, đây là một chọn lựa của họ. Nếu họ không muốn, họ có
thể từ chối và chọn cho mình con đường khác phù hợp hơn. Nhưng những ai chọn sống
độc thân vì Nước Trời thì tin vào tình yêu Thiên Chúa và mầu nhiệm Nước Trời, vốn
là nền tảng và cũng là động lực giúp họ chọn và sống đời độc thân vì Nước Trời
một cách hiệu quả nhất!
Hy vọng vài giải thích ở trên có thể giúp bạn
hiểu được lý do cho sự độc thân của các linh mục. Xin bạn cũng đừng quên cầu
nguyện cho họ.
(Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 4, Nxb Tôn Giáo, 04/2021)
Đọc thêm:
[2] Họ phải hứa là “có” trước câu hỏi “liệu có sống khiết tịnh,
và liệu vợ họ có là một người có đức tin và hứa sống khiết tịnh, và liệu người
đó có chăm lo cho con cái trở nên những người con kính sợ Thiên Chúa không”. (Didascalia Apostolorum, chương IV, ii,
2)
[3] Như các linh mục thuộc Giáo hội Công giáo Đông Phương,
hay vài trường hợp người đã có vợ, vợ qua đời, thì đi tu và được thụ phong linh
mục (chẳng hạn thánh Phanxico Borgia, SJ (1510-1572)).