GIẢI
ĐÁP THẮC MẮC CHO NGƯỜI TRẺ CÔNG GIÁO
Bài 84: QUAN ĐIỂM CỦA GIÁO
HỘI VỀ HÔN NHÂN ĐỒNG TÍNH
Hỏi: Giáo hội Công giáo có chấp nhận hôn nhân đồng
tính giống như một số quốc gia đã hợp thức hóa hay không?
Trả lời:
Bạn thân mến,
Trong những năm gần đây có nhiều người, đặc biệt là nhiều bạn
trẻ đã công bố mình là người đồng tính. Không chỉ thế, họ còn công
khai tình yêu cùng giới của mình và cũng đã tổ chức những lễ cưới
như bao nhiêu lễ cưới của các đôi nam nữ với nhau. Tại một số quốc
gia, chính phủ đã chấp nhận hôn nhân cho người đồng tình. Chắc có lẽ
vì thế mà bạn đang thao thức: Nên chăng Giáo hội Công giáo cũng chấp
nhận hôn nhân cho người đồng tính? Có lẽ để trả lời câu hỏi này,
chúng ta nên đi vào tìm hiểu về bản chất và ý nghĩa đích thực của
hôn nhân trong đời sống nhân loại.
Ý nghĩa và mục
đích của hôn nhân
Theo Kinh Thánh, sau khi tạo dựng muôn loài muôn vật, Thiên Chúa
đã tạo dựng con người có nam có nữ và chúc phúc cho họ: “Hãy sinh
sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất” (St 1,28). Đây không chỉ là lệnh truyền của Thiên Chúa, nhưng còn là sứ
mệnh của con người, và là bản chất của sự kết hợp vợ chồng.
Bên cạnh đó, Kinh Thánh còn khẳng định người nam và người nữ
được Thiên Chúa tạo dựng là để hỗ trợ cho nhau trong hành trình đời
sống của họ: “Đàn ông ở một mình thì không tốt. Ta sẽ làm cho nó một
trợ tá tương xứng với nó” (St
2,18). Vì thế, khi Ađam nhìn thấy bà Evà thì liền
thốt lên: “Đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi… Bởi thế,
người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một
xương một thịt.” (St 2,23-24).
Như thế, hôn nhân ngay từ khởi đầu được nằm trong kế hoạch yêu thương
của Thiên Chúa. Qua đó, người nam và người nữ kết hợp để hỗ tương
cho nhau trong đời sống, cũng như để tiếp tục công trình sáng tạo và
thánh hóa của Thiên Chúa trong việc truyền sinh.
Đến thời Tân Ước, Chúa Giêsu cũng đã từng nói với những người
Pharisêu rằng: “Thuở ban đầu, Đấng Tạo Hóa đã làm ra con người có
nam có nữ, và Người đã phán: ‘Vì thế, người ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với
vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt.’” (Mt 19,4-5).
Đồng thời, Ngài đã nâng đời sống hôn nhân lên hàng Bí Tích nhằm giúp đôi bạn sống cuộc đời nên thánh trong ơn gọi của mình (x. Mt 19,3-6). Như thế, Chúa
Giêsu một lần nữa khẳng định Thiên Chúa không dựng nên con người trong
sự cô độc, hoặc chỉ là người nam, hoặc chỉ là người nữ. Thiên Chúa dựng
nên con người có nam, có nữ và tác hợp họ thành vợ chồng, thành “một xương một
thịt”, thành một gia đình của tình yêu thương tương trợ lẫn nhau.
Giáo lý Hội Thánh Công Giáo dạy rằng: “Do giao ước hôn nhân, một người nam và một người nữ tạo thành một sự
hiệp thông trọn cả cuộc sống; tự bản chất, giao ước ấy hướng về lợi ích
của đôi bạn, cũng như đến việc sinh sản và giáo dục con cái.” (GLHTCG,
1601). Với ý nghĩa này, giao ước hôn nhân chỉ được thực hiện trong
tình yêu giữa một người nam và một người nữ, từ đó hướng đến việc
truyền sinh và giáo dục con cái trong vai trò và trách nhiệm của
mình. Bên cạnh đó, Công Đồng Vaticanô II diễn tả ý nghĩa nội dung hôn
nhân là “sự hiệp thông thân mật của đời sống và tình yêu” (Gaudium et Spes, 48). Cũng như: “Hôn
nhân và tình yêu vợ chồng, tự bản tính, quy hướng về sự sinh sản và
giáo dục con cái. Con cái là ơn huệ cao quý nhất của hôn nhân và
đóng góp rất nhiều vào niềm hạnh phúc của cha mẹ.” (Gaudium et
Spes, 50). Điều đó càng khẳng định cách rõ ràng hơn về đặc tính của
đời sống hôn nhân. Nó không dừng lại ở việc người nam và người nữ
sống cam kết trong tình yêu, nhưng còn hướng đến hoa trái của tình yêu
là việc sinh sản và giáo dục con cái.
Trong Tông Huấn Amoris Laetitia, Đức Thánh
Cha Phanxicô đã nhấn mạnh rằng: “Hôn nhân là một dấu chỉ quí giá, vì khi một
người nam và một người nữ cử hành Bí tích Hôn Phối, thì có thể nói, Thiên Chúa
được ‘phản chiếu’ nơi họ, và Ngài ghi khắc trong họ những nét phác thảo đặc thù
và dấu ấn tình yêu không thể xóa nhòa của Ngài.”[1]
Như vậy, hôn nhân là sự kết hợp trong giao ước tình yêu của một người nam
và một người nữ dành cho nhau. Tình yêu này được vun đắp qua hành vi
tự hiến trong đời sống vợ chồng, nhờ đó họ tiếp tục công trình
sáng tạo và cứu độ của Thiên Chúa trong việc sinh sản và giáo dục
con cái.
Lập trường của
Giáo Hội về hôn nhân đồng tính
Trước hết, Giáo Hội vẫn luôn xác tín và trung thành với ý
nghĩa và mục đích hôn nhân mà chính Thiên Chúa đã đặt để trong chương
trình sáng tạo và cứu độ của Ngài. Giáo hội dựa vào các bản văn
Kinh Thánh (x. St 19,1-29); đặc biệt là trong các thư của thánh Phaolô, như một sự chỉ
dẫn mục vụ đối với đời sống của người đồng tính. Thánh Phaolô đã
nói đến lối sống đồng tính trong các thư của ngài, để cảnh báo cho các
Kitô hữu về tình trạng sai đường lạc lối của một số người trong đời sống nhân loại. Ngài dạy rằng, những kẻ làm những
hành động đồng tính sẽ không được Nước Thiên Chúa làm cơ nghiệp (x. 1Cr 6,9-10; 1Tm 1,9-10). Cũng vậy, những người đàn bà và đàn
ông làm điều trái tự nhiên “đàn ông
bậy bạ với đàn ông” cũng bị ngài lên án là sẽ “chuốc vào thân hình phạt xứng với sự
lầm lạc của mình” (Rm 1,26-27). Điều này cho thấy những ai thực
hành lối sống này đều đi ngược lại với mục đích và ý nghĩa của
đời sống hôn nhân.
Trong “Tuyên ngôn về một số vấn
đề liên quan đến đạo đức tính dục” của Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin, ban hành ngày 29
tháng 12 năm 1975, số 8 có nói: “Những hành
động đồng tính luyến ái là điều đã bị Kinh Thánh lên án như những
sa đọa trầm trọng và bị coi là hậu quả đau thương của sự phủ nhận
Thiên Chúa. Phán đoán này… chứng tỏ các hành động đồng tính luyến ái là điều
xáo trộn và không thể chấp nhận
được trong bất cứ trường hợp nào.” Còn trong Thư gửi các Giám
mục Giáo hội Công giáo về chăm sóc mục vụ cho các người đồng tính luyến, do Bộ Giáo
Lý Đức Tin ban hành năm 1986, cũng xác định: “một người thực hiện hành
vi đồng tính luyến ái là hành động không hợp luân lý… Chọn một ai đó
cùng phái tính cho hoạt động tình dục của mình là phá hủy biểu trưng và ý nghĩa
phong phú của tạo dựng tính dục của Tạo Hóa, đó là chưa nói đến mục tiêu của
hành vi tình dục” (số 7). Và mới đây
nhất, trong Thông cáo công bố ngày 15/3/2021, Bộ Giáo Lý Đức Tin khẳng định rằng Giáo hội không có quyền làm phép
chúc lành cho sự kết hiệp của những người đồng phái, và vì thế, việc làm phép
chúc lành như vậy là điều bất hợp pháp.
“Giáo huấn của Giáo hội ngày nay là sự tiếp nối với quan
điểm Kinh Thánh và với Truyền Thống hằng định của Giáo hội”[2], nên Giáo Hội không thể chấp nhận hôn nhân
đồng tính như một số quốc gia đã hợp thức hóa: “Dựa trên Thánh Kinh, vốn xem chúng như những suy đồi nghiêm
trọng, truyền thống Hội Thánh luôn tuyên bố: “Các hành vi đồng tính
luyến ái tự bản chất là vô trật tự”. Chúng nghịch với luật tự
nhiên. Chúng khép kín hành vi tính dục khỏi việc ban tặng sự sống.
Chúng không phát xuất từ tính bổ sung thực sự về tình cảm và tính
dục. Những hành vi này không thể chấp nhận được trong bất kỳ trường
hợp nào” (GLHTCG, 2357). Như thế, Giáo hội vẫn sẽ luôn khẳng định
hôn nhân giữa một người nam và một người nữ. Bởi vì đây là một giao ước hôn
nhân do chính Thiên Chúa thiết lập và đã được Đức Kitô nâng lên hàng Bí tích.
Tuy Giáo Hội không thể chấp nhận hôn nhân đồng tính như các quốc
gia đã hợp thức hóa, nhưng Giáo Hội vẫn luôn yêu thương và đón nhận
mọi người trong sự tôn trọng và cảm thông. Giáo hội xem họ là những đứa
con cần được
yêu
thương hơn trong lòng Giáo hội: “Họ phải được đón nhận với sự tôn trọng,
thông cảm và tế nhị” (GLHTCG, 2358).
Đồng thời, Giáo hội mời gọi con cái mình là những người đồng tính sống đúng ơn gọi của
mình, vác thập giá đời mình trong niềm hy vọng, và tiến bước trên đường thánh thiện
Kitô giáo: “Những người đồng tính luyến ái được kêu gọi sống khiết
tịnh. Nhờ các nhân đức giúp tự chủ dạy cho biết sự tự do nội tâm, và khi
nhờ sự nâng đỡ của tình bằng hữu vô vị lợi, nhờ việc cầu nguyện và ân sủng bí
tích, chính họ có thể và phải dần dần và cương quyết tiến đến sự
trọn hảo Kitô giáo” (GLHTCG, 2358).
(Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 5, Nxb Tôn Giáo, 05/2021)