ĐỨC MARIA TRONG ÂM NHẠC
Sergio Militello
Phân khoa Thần học "Marianum" - Roma
|
Ngôn ngữ âm nhạc
là một tổng hợp của nghệ thuật, Thánh Mẫu học và linh đạo
"Sự hiện diện"
của Đức Maria trong âm nhạc rộng lớn đến độ để có được một nghiên cứu chuyên
sâu cần phải viết rất nhiều tập. Thật vậy, trải qua các thời đại, không có nhạc
sĩ nào mà không bày tỏ lòng tôn kính Mẹ Thiên Chúa bằng âm nhạc. Vì thế, nếu
không thể điểm lại lịch sử của hàng thế kỷ, người ta không thể không nhận ra lời
tiên tri “từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc” (Lc 1,48) đã được khẳng định
đúng lúc trong tác phẩm âm nhạc, những tác phẩm bác học lẫn bình dân, nơi mà
lòng đạo đức, lòng sùng kính và thần học đan xen với nhau.
Trong phạm vi bài viết
này, tôi giới hạn trong việc khảo sát về mối tương quan giữa lòng sùng kính Đức
Mẹ và âm nhạc, bằng cách nêu bật những lý do đầy cảm hứng để ca tụng Đức Maria,
như những trọng điểm của sự kết hợp chặt chẽ qua nhiều thế kỷ đã tạo ra một di
sản âm nhạc vô giá về Đức Maria và khó định lượng, rất rộng lớn và hấp dẫn đến
mức biện minh cho một khóa trình hàn lâm, chẳng hạn về “Đức Maria trong âm nhạc”,
do người ký tên dưới đây tổ chức tại Học viện Thần Học “Marianum”, của các sư
huynh dòng Tôi tớ Đức Bà, ở Rôma
Nguồn gốc và xuất
xứ
Chúng ta biết rằng việc cầu
nguyện và tôn sùng Đức Trinh Nữ có một lịch sử lâu dài, bắt nguồn từ Kinh Thánh
và đã được thể hiện nơi thế hệ Kitô hữu đầu tiên, và qua các thời kỳ đã tạo thuận
lợi cho chuỗi các biểu hiện ca ngợi, cầu khẩn, yêu mến và tín thác nơi Mẹ, cho
những yếu tố làm nên cứ liệu thường xuyên của lòng tôn sùng Đức Mẹ.
Nguồn gốc của việc ca ngợi
Đức Maria trong Tân Ước có thể được tóm tắt trong hai đoạn được thánh sử Luca
ghi lại: lời chào của thiên thần (Lc 1,28) và lời chào của bà Êlisabét (Lc
1,42.45). Từ những nguồn Kinh thánh này – bao hàm những hình ảnh báo trước của
Cựu Ước - đã nảy sinh vô số thuộc tính ngợi khen và cầu khẩn, làm nên "những
lời nguyện về Đức Mẹ" và do đó, đã trở thành những động cơ truyền cảm hứng
cho các tác phẩm âm nhạc.
Vì thế, Giáo Hội đã ca tụng
Mẹ Maria qua những kinh nguyện đầy tráng lệ, qua các bài giảng lễ, những bài ca
tụng, kinh cầu, điệp ca, thánh ca... qua tác phẩm của những tác giả vô danh hay
nổi tiếng, ở Đông phương cũng như Tây phương. Trong vùng biển bao la (mare
magnum) này, việc nghiên cứu âm nhạc về lòng tôn sùng Đức Mẹ phải đề cập đến cả
các sự kiện lịch sử và phụng vụ, kể cả lòng sùng kính và những tác phẩm ngoài
phụng tự.
Như chúng ta đã biết, không
có ký hiệu âm nhạc nào của thế hệ kitô giáo đầu tiên còn tồn tại, một thế hệ vốn
sử dụng lối hát của người Do Thái. Cho đến nay, lời kinh đầu tiên về Đức Mẹ được
biết đến là Sub Tuum praesidium, một bài thánh ca ngắn dành riêng cho Mẹ của
Chúa Giêsu, có từ thế kỷ thứ 3 và được phát hiện ở Ai Cập.
Bản văn này có thể phát
xuất từ bài hát của phụng vụ Giáng sinh thuộc giáo hội Coptic, vẫn còn sử dụng
cho đến ngày nay như một đối ca trong mọi nghi thức phụng vụ chính yếu.
Với chứng từ đầu tiên
này, chúng ta thấy bài ca phụng vụ gắn liền với lịch sử như thế nào: việc biên
soạn lời cầu khẩn chung này thực tế đã diễn ra vào thời kỳ bách hại, các Kitô hữu
đã hướng về Mẹ Maria để tìm nơi Mẹ một nơi ẩn náu an toàn khi gặp nguy hiểm.
Hình ảnh dưới bóng cánh (sub umbra alarum) thân thương đối với người Sêmít và
người Ai Cập, được nhắc lại như một biểu tượng diễn tả sự che chở của Thiên
Chúa (Is 49,2; 51,16; x. Tv 16,8), một đề tài thường xuyên trong các sáng tác về
Đức Mẹ.
Ngay cả các soạn tác âm
nhạc sau này, Byzantine và cả Đông phương nói chung, đều thể hiện niềm phó thác
vào sự chuyển cầu của Mẹ Thiên Chúa (Theotòkos), được cộng đồng kitô giáo khẩn
cầu ngay từ buổi đầu, là tước hiệu mà Công đồng Êphêsô chính thức công nhận vào
năm 431.
Do đó, chủ đề về sự chuyển
cầu của Mẹ Thiên Chúa trở thành nền tảng trong biểu thức ca tụng Đức Maria.
Ngoài ra, qua dòng lịch sử, còn có những chủ đề về lòng tôn sùng và noi gương Mẹ,
hiện diện trong các nhạc phẩm của mọi thời đại.
Tuy nhiên, tôi muốn chỉ
ra rằng đôi khi âm nhạc ca ngợi dành riêng cho Đức Maria không tìm thấy nền tảng
nơi Lời Chúa cũng như trong suy tư thần học, do đó nó tạo ra một chủ đề ca ngợi
xa lạ so với trước đó và có thể được định nghĩa như là chủ nghĩa sùng kính
chung chung, đề cập nhiều đến những khơi gợi về con người Đức Maria hơn là vai
trò của Mẹ trong nhiệm cục cứu độ.
Ở Đông phương
Quay trở lại lịch sử,
chương quan trọng để khám phá những bước đầu của việc tôn sùng Đức Maria bằng
âm nhạc nảy sinh từ các ngày lễ kính Mẹ, vốn được du nhập từ Đông sang Tây.
Mặc dù nảy sinh vào những
thời điểm cụ thể, liên quan đến các câu chuyện địa phương hoặc các cuộc hiện ra
ra cụ thể, nhưng các bản văn được chuyển tải trong phụng vụ đề cập đến nguồn mặc
khải, nơi người Mẹ Chí Thánh Vẹn Sạch của Thiên Chúa có một vị trí trung tâm
bên cạnh người Con của mình.
Chúng ta đang ở trong
giai đoạn của những hình thức thi ca cao nhất và những lối ca hát có liên quan
đến phụng vụ Byzantine: Thánh ca và Chuẩn mực (những hình thức sáng tác đầu
tiên do Thánh Basiliô và Thánh Gioan Kim Khẩu định hướng trong phụng vụ) được định
hình như một phản ứng đối với cuộc tranh luận bài trừ ảnh tượng, liên quan đến
nghệ thuật tượng ảnh, nhằm mục đích tấn công và triệt tiêu khả năng sáng tạo âm
nhạc. Đó là thời đại của những tuyển tập về Đức Maria, trong đó giai điệu (thơ
phổ nhạc) cố gắng diễn tả những tình cảm của tôn giáo Đông phương được trình
bày bằng dấu ấn khổ hạnh sâu đậm, nhắm đến sự chiêm niệm và chiều sâu tâm linh.
Qua việc gán nhiều "danh hiệu" cho Đức Trinh Nữ, nền thần học được thực
hiện dưới hình thức thơ ca, bằng cách sử dụng các phản luận và hình ảnh. Theo
cách này, phụng vụ ca hát đã hoàn thành nhiệm vụ tạo ra suy tư thần học qua các
tác phẩm âm nhạc, trong đó các chủ đề dành riêng cho Đức Maria có sự tham chiếu
kitô học rõ ràng và có mặt ở khắp mọi nơi. Để tìm ra những lý do ca ngợi mới
dành cho Đức Trinh Nữ, chúng ta phải đặt mình vào giữa thế kỷ thứ 4 và thứ 11,
thời của các nhạc sĩ lớn ở Đông phương, trong số đó có ít nhất là: Ephrem người
Syria (306-373), người đã viết ra những bài thánh ca của mình như bài giáo huấn
và giáo lý, đặc biệt nhấn mạnh đến Mẹ Chúa Giêsu trong vai trò “cộng tác viên”;
Romanus il Mèlode (490-556 ca), tác giả của Akathist, bài thánh ca về Đức Mẹ nổi
tiếng nhất mọi thời đại được coi là một kiệt tác văn chương và thần học, đồng
thời diễn tả sự chiêm ngắm và tán dương cao nhất của lòng tôn sùng Mẹ Thiên
Chúa; Andrea di
Creta (khoảng 660-740), người được cho là đã phát minh ra Canon; Giovanni Damasceno (676
ca-749), một trong những giọng ca Đông phương về Đức Trinh Nữ vĩ đại nhất, những
bài thánh ca được sáng tác như những luận thuyết thực sự về thần học; Teodoro (759-826)
và những người khác.
Các chủ đề thường xuyên
ca ngợi Đức Maria trong thánh ca Byzantine là lời cầu khẩn và đòi hỏi lòng tôn
sùng Đức Trinh Nữ để được cứu rỗi: đây là cách nó xuất hiện, chẳng hạn như
trong Paraklisis (kêu xin cứu giúp), một bài thánh ca phổ biến đến nỗi nó có thể
được hát trong mọi hoàn cảnh và mọi thời điểm trong năm; hơn nữa, Mẹ Maria được
tôn vinh vì sự thánh thiện của Mẹ, được trình bày như khí cụ của ơn cứu rỗi
trái ngược với Evà và Mẹ được hát lên trong mầu nhiệm Mẹ được nâng lên vinh
quang trên trời, nơi đó Mẹ không quên loài người và không ngừng giúp đỡ họ.
Ở Tây phương
Vai trò trung gian của Đức
Maria và tình mẫu tử thiêng liêng của Mẹ đối với con người cũng được tìm thấy ở
Tây phương, trong các bài thánh ca và trong các kinh nguyện được đưa vào trong
Kinh Nhật tụng và trong Thánh lễ. Việc sử dụng các bài thánh ca trong số này
(ra đời ở Tiểu Á vào thế kỷ thứ 2-3) lan rộng ở phương Tây bắt đầu từ thế kỷ thứ
4, trước hết là nhờ Thánh Ambrôsiô, vì nó dễ hát và phù hợp với mọi tín hữu.
Từ đây, sự phát triển nhạc
Bình Ca dẫn đến việc tạo ra một di sản đáng kể về những bài ca kính Đức Mẹ, bao
gồm bốn điệp ca "chính" được hát trong các giờ kinh phụng vụ hoặc khi
kết thúc thánh lễ: Alma Redemptoris Mater, Ave Regina Caelorum, Regina Caeli,
Salve Regina.
Do đó, đối với Đông
phương cũng như ở Tây phương, các lý do để hát mừng Đức Maria đó là lý do chuyển
cầu, tôn kính và bắt chước. Vì vậy, việc xây dựng một lộ trình có hệ thống liên
quan đến sự hiện diện của Đức Maria trong lịch sử âm nhạc có ích biết bao và liệu
âm nhạc dành riêng cho phụng vụ người ta có thực sự chú ý đến các lý do đầy cảm
hứng nói trên của những bài thánh ca về Đức Mẹ hay không.
Tôn sùng Đức
Maria và âm nhạc
Việc phân tích các sáng
tác về Đức Mẹ được nảy sinh qua nhiều thế kỷ cần phải bắt đầu trở lại với nguồn
gốc, nghĩa là, trở lại với các thúc đẩy lịch sử và thần học của thánh ca về Đức
Mẹ. Vì lý do này, một giáo trình về “Đức Maria và âm nhạc” không những phải
trình bày hình ảnh của Đức Maria trong lịch sử âm nhạc, mà còn phải đưa ra những
tiêu chuẩn đánh giá để hiểu đúng về việc sùng kính Đức Mẹ được thể hiện qua việc
ca hát.
Nếu thần học đã sử dụng
ngôn ngữ âm nhạc để diễn tả lòng sùng kính Đức Maria, điều đó có nghĩa là âm nhạc
là phương tiện ưu tiên cho việc dạy giáo lý về Đức Mẹ. Thực vậy, ca hát được
hình thành như một trong những yếu tố tự nhiên đầu tiên của các ngày lễ về Mẹ
và là một phương tiện dễ dàng để diễn tả suy tư thần học trong việc thờ phượng,
khi nó diễn tả phẩm giá của Đức Maria, vị trí và vai trò của Mẹ trong mầu nhiệm
Chúa Kitô, trong lịch sử cứu độ và trong lịch sử Giáo hội.
Mỗi giai đoạn lịch sử đã
trình bày một cách tốt nhất có thể những nội dung cơ bản của bài nhạc về Đức Mẹ:
tình mẫu tử thiêng liêng của Đức Maria và sự liên kết của Đức Maria với mầu nhiệm
Chúa Kitô.
Tôi tin rằng bắt đầu từ
những ngày lễ về Mẹ, lịch sử âm nhạc có thể được vẽ lại, bằng cách làm nổi bật
nơi chốn và thời đại mà trong đó nội dung của bài ca về Đức Maria được nhấn mạnh
hoặc bị phản bội nhiều nhất. Ngay cả một danh sách đơn giản và ngắn gọn của các
ngày lễ cũng rất quan trọng.
Các ngày lễ về Đức Mẹ có
thể được tóm lược như sau: ở Đông phương, có Lễ Sinh nhật Đức Mẹ (được cử hành
tại Giáo hội Giêrusalem), Maria Mẹ Thiên Chúa; Dâng Con Trong Đền Thờ hoặc Lễ Nến
(Đức Maria là người đã kết hợp với những đau khổ cứu chuộc của Chúa Kitô, được
tiên tri bởi ông già Simeon), Lễ Truyền Tin của Mẹ Thiên Chúa và Đức Maria Trọn
Đời Đồng Trinh (Đức Maria là Eva mới kết hợp cách bất khả phân ly với Chúa Kitô
là Ađam mới), Lễ Acathistus (được
cử hành long trọng bằng bài thánh ca nổi tiếng, một bản tóm tắt thực sự về
Thánh Mẫu học), Lễ Đức Mẹ Ngủ (Mẹ đã chiến thắng tội lỗi, đã bước theo Con của
Mẹ đến sự sống; Mẹ cũng đã bước theo người Con của mình đến sự thánh thiện bằng
sự vâng phục hoàn toàn của Mẹ) và các ngày lễ mang tính sùng mến hơn; ở phương
Tây, các ngày lễ được cô đọng qua Lễ Giáng Sinh (ra đời ngay sau khi xây dựng đền
thờ Liberia ở Roma), Lễ Dâng Mình, Lễ Truyền Tin, Lễ Mông Triệu và Sinh nhật Đức
Maria.
Sự tiến triển tiếp
theo
Những kinh nghiệm đầu
tiên đề cập đến “hai lá phổi thiêng liêng” giữa Đông và Tây xác định mức độ sâu
rộng của ý hướng hát mừng Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, gắn liền với mầu nhiệm Cứu
Chuộc, trong khi ở các thời đại tiếp theo, chúng ta cũng tìm thấy một cách thức
để cầu nguyện và xây dựng mối liên hệ với Thiên Chúa, và nhờ đó mà Đức Maria được
tôn sùng và gần gũi hơn. Vì thế, nếu ở Đông phương có thánh ca Byzantine và nhạc
Bình Ca ở Tây phương thì chúng vẫn duy trì những điểm trọng tâm là luôn quy chiếu
đến sự phong phú và tính vững chắc về nội dung. Các ngôn ngữ âm nhạc sau này đã
dần dần bộc lộ một “khuôn mặt” mới hoặc khác của Đức Maria, có khi tương phản
và có khi bổ túc cho nhau.
Chẳng hạn như Ars
Antiqua, vào khoảng thế kỷ IX-X trong môi trường văn hóa của Pháp và Tây Ban
Nha, và môi trường dân gian ở thế kỷ XIII, tác phẩm âm nhạc rất đặc thù được thực
hiện bằng tiếng bản ngữ, tiếng Ý, nơi mà hình ảnh Đức Trinh Nữ hiện diện tầng
suất cao với những hình ảnh đầy thi vị (viên ngọc quý, người phụ nữ đội vương
miện, nguồn suối nước v.v.), nhưng không phải lúc nào cũng liên quan đến Kinh
thánh.
Tuy nhiên, vào thế kỷ 15,
trong các bản chép tay quan trọng nhất, các bài hát thể hiện lòng nhiệt thành đối
với Đức Mẹ vẫn chiếm ưu thế, gây bất lợi cho suy tư thần học.
Thời Phục hưng đã chứng
kiến sự gia tăng thực sự của âm nhạc dành cho Đức Mẹ trong phụng vụ (bốn đối
ca kết thúc, Magnifcat, Litanies, Motets, Messa).
Giai đoạn Barốc, nhiều
tác phẩm âm nhạc về Đức Mẹ nhìn thấy ánh sáng trong các hình thức đặc thù và
hoa mỹ nơi các oratorio và cantata, với những sáng tác tự do đầy chất thơ.
Thời kỳ cổ điển ca ngợi Đức
Maria với nền âm nhạc tinh tế và sự quý giá qua đó nó thêu dệt nên bản văn (chẳng
hạn như tác phẩm nổi tiếng Litanies Lauretane của Mozart), trước khi nhường chỗ
cho "thời lãng mạn", đã lồng vào âm nhạc về Đức Mẹ một cảm giác chủ
quan và không đúng cách của giáo hội, ngay cả khi nó được hỗ trợ bởi một tôn giáo
sống động và chân thành.
Thế nhưng, thời hiện đại,
không thiếu những tác phẩm xuất sắc dành riêng cho Đức Maria, với sự trở lại với
các bản văn phụng vụ và những nội dung chân thực hơn về lòng tôn sùng Đức Mẹ.
Do đó, mỗi tác giả, tùy
theo bối cảnh, đã ca ngợi Đức Maria với cảm thức tôn giáo đặc trưng của thời đại
của mình. Vì vậy, chúng ta không thể luôn luôn và trong mọi tình huống nói về
"sự phát triển" của thánh ca về Đức Mẹ, đặc biệt là nơi lòng sùng
kính đã thất bại trong việc đan kết danh Đức Mẹ với bài ca về các mầu nhiệm của
Chúa Kitô.
Kết luận
Việc phân tích sự hiện diện
của Đức Maria trong lịch sử âm nhạc không thể thiếu tham chiếu Kitô học và Giáo
hội học, để sao cho Đức Maria cùng được chiêm ngắm cách hòa hợp trong mầu nhiệm
Chúa Kitô và Giáo hội.
Dưới ánh sáng này, tôi hy
vọng rằng một Lịch sử “mới” đối với âm nhạc về Đức Mẹ có thể được viết ra,
không có nghĩa là đưa ra một danh sách các tác giả và tác phẩm, nhưng đúng hơn
là làm nổi bật tầm quan trọng vị trí của Đức Maria trong kế hoạch cứu độ. Điều
này có thể được viết, bằng cách làm nổi bật và phân biệt các lý do truyền cảm hứng
và nội dung cơ bản của bài ca về Đức Mẹ, thông qua một cuộc nghiên cứu lịch sử-mỹ
học dành riêng cho con người Đức Trinh Nữ Maria trong tài liệu âm nhạc, từ khởi
đầu cho đến ngày nay, nhằm nắm bắt các mô hình văn hóa – những hạn chế hoặc đôi
khi bị biến dạng - ở mọi thời đại và mọi miền lãnh thổ.
G. Võ Tá Hoàng
Chuyển ngữ từ tạp chí Riparazione Maria; số tháng 2/2019; Trang 4-6
Nguồn: gpquinhon.org
(10.5.2023)