ĐỨC GIÊ-SU
KI-TÔ – ĐƯỜNG TRONG CHÚA THÁNH THẦN
Gm. Phêrô Nguyễn Văn Viên
WHĐ (03.7.2022) – Hình ảnh hay biểu tượng đóng
vai trò rất quan trọng trong xã hội loài người bởi vì nhờ đó con người có thể cảm
nghiệm được các thực tại mầu nhiệm sâu thẳm. Chẳng hạn, gió hay hơi thở là những
hình ảnh căn bản trong hầu hết các tôn giáo nhằm diễn tả sự hiện diện và hoạt động
của thần khí nơi vạn vật. Đối với dân Do-thái thời Cựu Ước, thần khí liên quan
mật thiết đến đời sống cá nhân cũng như cộng đoàn. Nội dung mặc khải Ki-tô Giáo
cho chúng ta biết rằng việc sử dụng khái niệm thần khí (viết thường - chỉ tính
chất hoặc phẩm tính) tới Thần Khí (viết hoa - chỉ Ngôi Vị Thiên Chúa) là một
hành trình lâu dài. Để có thể phân biệt cách dễ dàng hơn, trong bài viết này,
thần khí (viết thường) chỉ thần khí theo nghĩa chung, còn Thần Khí/ Thánh Thần
(viết hoa) chỉ Chúa Thánh Thần, Ngôi Ba Thiên Chúa, chẳng hạn như Thần Khí Chúa
hay Thần Khí Đức Chúa (the Spirit of the Lord), Thần Khí Thiên Chúa (the Spirit
of God), Thần Khí Đức Ki-tô (the Spirit of Christ), Thần Khí Đức Giê-su (the
Spirit of Jesus).
Trong tiếng Do-thái, רוּחַ (ruah/
spirit) có nghĩa là thần khí. Từ tương đương với רוּחַ
của tiếng Do-thái trong tiếng Hy-lạp là πνεῦμα (pneuma/ spirit/ thần khí). Ruah
trong tiếng Do-thái còn có những nghĩa khác nữa, chẳng hạn như năng lực, năng
lượng, gió, hơi thở. Trong bối cảnh Kinh Thánh, ruah của Thiên Chúa rất mạnh, mạnh
đến nỗi nhờ đó vũ trụ được dựng nên. Từ ruah/ thần khí xuất hiện ngay trong những
câu đầu tiên, trang đầu tiên, cuốn sách đầu tiên của bộ Kinh Thánh. Trình thuật
sáng thế Chương 1 (St 1,1-2,4) cho chúng ta biết rằng: “Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất. Đất còn trống rỗng, chưa
có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và thần khí Thiên Chúa bay lượn trên
mặt nước. Thiên Chúa phán: Phải có ánh sáng. Liền có ánh sáng” (St 1,1-3).
Nhờ thần khí Thiên Chúa אֱלֹהִ֔ים ר֣וּחַ (ruah
Elohim/ breath of God) bay lượn trên mặt nước và lời Thiên Chúa phán, muôn vật
muôn loài được tạo thành từ cảnh hư vô (nothingness), trống rỗng (formless), hỗn
loạn (chaos), tăm tối (darkness). Đặc biệt, trình thuật sáng thế Chương 2 (St
2,2-25) cho chúng ta biết: “Đức Chúa là
Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con
người trở nên một sinh vật” (St 2,7).
Theo mặc khải Kinh Thánh, vũ trụ này không phải là kết quả của tiến
trình tiến hóa tự nhiên mà là kết quả hay sản phẩm của Thiên Chúa sáng tạo nhờ
thần khí bay lượn trên mặt nước và lời của Người. Thánh vịnh 33 khẳng định: “Một lời Chúa phán làm ra chín tầng trời,
một hơi Chúa thở tạo thành muôn tinh tú” (Tv 33,6). Đỉnh cao của chương
trình Thiên Chúa sáng tạo là con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa
và giống như Thiên Chúa (St 1,26). Những gì trong thế giới thụ tạo đều tốt đẹp
và trở thành dấu chỉ giúp con người hướng về Thiên Chúa. Nhờ thần khí, Thiên
Chúa sáng tạo muôn vật muôn loài, duy trì muôn vật muôn loài và đưa muôn vật
muôn loài tới thời viên mãn. Tác giả Thánh Vịnh 104 viết: “Chúa ẩn mặt đi, chúng rụng rời kinh hãi; lấy sinh khí lại, là chúng tắt
thở ngay, mà trở về cát bụi. Sinh khí của Ngài, Ngài gửi tới, là chúng được dựng
nên, và Ngài đổi mới mặt đất này” (Tv 104,29-30). Bài Ca Người Tôi Trung của
sách ngôn sứ I-sai-a có câu: “Đây là lời
Thiên Chúa, lời Đức Chúa, Đấng sáng tạo và căng vòm trời, Đấng trải rộng mặt đất
với hoa màu tràn lan, Đấng ban hơi thở cho dân trên mặt đất, ban sinh khí cho
toàn thể cư dân” (Is 42,5).
Trong Cựu Ước, thần khí đóng nhiều vai trò và có những tác động khác
nhau. Người được xức dầu là người được trao ban thần khí để thực thi ý định của
Thiên Chúa đối với toàn dân. Chẳng hạn, Đức Chúa nói với Mô-sê: “Ngươi cũng xức dầu cho A-ha-ron và các con
ông; ngươi sẽ thánh hiến họ làm tư tế phục vụ Ta” (Xh 30,30) hay Sa-mu-en xức
dầu cho Đa-vít: “Ông Sa-mu-en cầm lấy sừng
dầu và xức cho cậu, ở giữa các anh của cậu. Thần khí Đức Chúa nhập vào Đa-vít từ
ngày đó trở đi” (1 Sm 16,13). Mọi người phải tôn trọng những kẻ được xức dầu:
"Đừng đụng tới những kẻ Ta xức dầu tấn
phong, chớ làm hại các ngôn sứ của Ta” (1 Sb 16,22). Trên bình diện tập thể,
thần khí hướng dẫn dân Do-thái thực thi giao ước giữa họ với Thiên Chúa trong
dòng lịch sử. Thần khí được xem như quyền năng của Thiên Chúa thâm nhập và lan
tỏa khắp hoàn vũ. Thần khí thẩm thấu lịch sử và truyền thống Do-thái để hướng dẫn
mọi người. Thần khí đem lại sự sống cho những bộ xương khô không còn da thịt
(Ed 37,1-14). Nhìn chung, hình hài và chức năng của thần khí trong Cựu Ước vẫn
khá trừu tượng, thần khí (viết thường) chứ chưa phải Thần Khí (viết hoa), nghĩa
là chưa phải Chúa Thánh Thần, Ngôi Ba Thiên Chúa, phân biệt với Chúa Cha và Chúa
Con trong mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, mầu nhiệm nền tảng của Ki-tô Giáo.
Tân Ước đã đề cập đến sự hiện diện của thần khí trong hành trình trần thế
của Đức Giê-su. Sự hiện diện này đã được nói đến trong Cựu Ước, chẳng hạn, lời
của Thiên Chúa trong sách ngôn sứ I-sai-a cho chúng ta biết: “Từ gốc tổ Gie-sê, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ,
từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non. Thần khí Đức Chúa sẽ ngự trên vị này: Thần
khí khôn ngoan và minh mẫn, thần khí mưu lược và dũng mãnh, thần khí hiểu biết
và kính sợ Đức Chúa” (Is 11,1-2) hay: “Đây
là người tôi trung Ta nâng đỡ, là người Ta tuyển chọn và quý mến hết lòng, Ta
cho thần khí Ta ngự trên nó; nó sẽ làm sáng tỏ công lý trước muôn dân” (Is
42,1). Những trích đoạn này nói về Đức Giê-su, ‘con vua Đa-vít’, được xức dầu
Chúa Thánh Thần để đến với gia đình nhân loại. Chúng ta biết rằng các vua
Do-thái chẳng hạn như Sa-un hay Đa-vít được xức dầu như là dấu chỉ sự hiện diện
của thần khí Đức Chúa để hướng dẫn dân Do-thái, còn Đức Giê-su được xức dầu
Chúa Thánh Thần để hướng dẫn mọi người trong gia đình nhân loại. Nói cách khác,
đây là mặc khải tiệm tiến, từ thần khí như là phẩm tính hay tác động trong Cựu
Ước đến Thần Khí như là Ngôi Vị trong Tân Ước. Trong tiếng Hy-lạp, từ ‘Ki-tô’
mà chúng ta thường dùng có nghĩa là ‘Đấng Được Xức Dầu’ (Χριστός/ Christós/
Christ/ the Anointed One). Đoạn văn Cựu Ước diễn tả tương quan rõ nét nhất giữa
thần khí và Đức Giê-su là: “Thần khí của
Đức Chúa là Chúa Thượng ngự trên tôi, vì Đức Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai
đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh
ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố một năm hồng
ân của Đức Chúa, một ngày báo phục của Thiên Chúa chúng ta; Người sai tôi đi
yên ủi mọi kẻ khóc than, tặng cho những kẻ khóc than ở Xi-on tấm khăn đại lễ
thay tro bụi, dầu thơm hoan lạc thay tang chế, áo ngày hội thay tâm thần sầu
não” (Is 61,1-3).
Trong Tân Ước, thánh Lu-ca trình thuật rằng khi Đức Ma-ri-a đã đính hôn
với thánh Giu-se (thuộc dòng tộc Đa-vít) nhưng chưa ăn ở với nhau thì sứ thần
Gáp-ri-en đến miền Na-da-rét gặp Đức Ma-ri-a và chào: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà” (Lc 1,28).
Sứ thần báo tin cho Đức Ma-ri-a rằng Bà sẽ có thai và sinh hạ Con Đấng Tối Cao
(Lc 1,32). Đức Ma-ri-a diễn tả sự băn khoăn: "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!"
(Lc 1,34). Sứ thần Gáp-ri-en nói tiếp: “Thánh
Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì
thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1,35). Còn
thánh Mát-thêu thì viết: “Sau đây là gốc
tích Đức Giê-su Ki-tô: Bà Ma-ri-a, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giu-se. Nhưng
trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần”
(Mt 1,18). Điều này cho chúng ta nhận thức rằng Đức Ma-ri-a có thai cách ngoại
thường, cách nhiệm mầu, ‘bởi phép Đức Chúa Thánh Thần’, chứ không phải do ý muốn
hay bất cứ sự can thiệp đặc biệt nào của con người.
Theo thánh Lu-ca, sau khi sứ thần Gáp-ri-en truyền tin, Đức Ma-ri-a vừa
cưu mang Đức Giê-su đã vội vã lên đường thăm bà chị họ Ê-li-sa-bét đang mang
thai Gio-an Tẩy Giả sáu tháng: “Bà
Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Ma-ri-a chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và
bà được đầy tràn Thánh Thần” (Lc 1,41). Vì được đầy tràn Thánh Thần, bà
Ê-li-sa-bét hiểu được chương trình của Thiên Chúa thực hiện nơi Đức Ma-ri-a: "Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ,
và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu
Chúa tôi đến với tôi thế này?” (Lc 1,42-43). Thánh Lu-ca cũng trình thuật rằng
khi Gio-an Tẩy Giả chịu phép cắt bì, ông Da-ca-ri-a, bố của Gio-an Tẩy Giả, cất
lên Bài Ca Chúc Tụng: “Bấy giờ, người cha
của em, tức là ông Da-ca-ri-a, được đầy Thánh Thần, liền nói tiên tri rằng:
Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa Ít-ra-en đã viếng thăm cứu chuộc dân Người” (Lc
1,67-68). Như vậy, Thánh Thần hiện diện nơi Đức Ma-ri-a trong biến cố truyền
tin cũng hiện diện nơi Ê-li-sa-bét và Da-ca-ri-a, cha mẹ của thánh Gio-an Tẩy
Giả.
Để chuẩn bị cho Đức Giê-su xuất hiện công khai, thánh Gio-an Tẩy Giả kêu
gọi mọi người ăn năn thống hối: “Tôi làm
phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng đến sau
tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép
rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa” (Mt 3,11). Với Đức Giê-su, sau ba
mươi năm sống ẩn dật ở Na-da-rét, Người đến sông Gio-đan xin thánh Gio-an Tẩy
Giả làm phép rửa. Các tác giả Tin Mừng
Nhất Lãm cho chúng ta biết sự hiện diện của Chúa Thánh Thần dưới hình chim bồ
câu trong biến cố này (Mt 3,13-17; Mc 1,9-11; Lc 3,21-22). Theo trình thuật của
thánh Mát-thêu: “Khi Đức Giê-su chịu phép
rửa xong, vừa ở dưới nước lên, thì các tầng trời mở ra. Người thấy Thần Khí
Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người” (Mt 3,16). Thánh
Gio-an Tông Đồ trình thuật cách rõ ràng hơn rằng thánh Gio-an Tẩy Giả nhìn thấy
Chúa Thánh Thần như chim bồ câu ngự trên Đức Giê-su khi thánh nhân làm phép rửa
cho Người (Ga 1,32).
Thánh Gio-an Tẩy Giả nói cho mọi người biết: “Tôi đã không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa
trong nước đã bảo tôi: Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó
chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần” (Ga 1,33). Với thánh Gio-an Tẩy
Giả, Thần Khí đồng hành cùng Đức Giê-su mọi nơi mọi lúc. Trong lời chứng cuối
cùng, thánh nhân nói về Đức Giê-su cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần như
sau: “Đấng được Thiên Chúa sai đi, thì
nói những lời của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa ban Thần Khí cho Người vô ngần vô hạn.
Chúa Cha yêu thương người Con và đã giao mọi sự trong tay Người” (Ga
3,34-35). Theo thánh Lu-ca, sau khi chịu phép rửa ở sông Gio-đan, “Đức Giê-su được đầy Thánh Thần, từ sông
Gio-đan trở về. Suốt bốn mươi ngày, Người được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa
và chịu quỷ cám dỗ” (Lc 4,1-2). Cũng theo thánh Lu-ca: “Được quyền năng Thần Khí thúc đẩy, Đức Giê-su trở về miền Ga-li-lê, và
tiếng tăm Người đồn ra khắp vùng lân cận” (Lc 4,14). Khi trở về Na-da-rét,
quê hương của Người, Đức Giê-su vào hội đường và người ta trao cho Người sách
ngôn sứ I-sai-a. Mở sách ra, Người gặp ngay đoạn nói về Người được xức dầu Chúa
Thánh Thần để loan báo Tin Mừng cho những người nghèo khó hay chịu muôn vàn
hình thức đau khổ khác mà sách ngôn sứ I-sai-a nói đến trong Cựu Ước (Lc
4,18-19; Is 61,1-3).
Câu hỏi đặt ra là tại sao Đức Giê-su, là Ngôi Hai Thiên Chúa và là Thiên
Chúa, lại được xức dầu Thánh Thần? Quả thực, Đức Giê-su đồng bản tính với Chúa
Cha và Chúa Thánh Thần. Tuy nhiên, trong tư cách là con người, Đức Giê-su được
xức dầu Chúa Thánh Thần, đón nhận Chúa Thánh Thần, lớn lên trong Chúa Thánh Thần
và loan báo Tin Mừng trong Chúa Thánh Thần. Thánh Phê-rô minh định rõ điểm này
khi rao giảng Tin Mừng tại nhà ông Co-nê-li-ô: “Quý vị biết rõ biến cố đã xảy ra trong toàn cõi Giu-đê, bắt đầu từ miền
Ga-li-lê, sau phép rửa mà ông Gio-an rao giảng. Quý vị biết rõ: Đức Giê-su xuất
thân từ Na-da-rét, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn
phong Người. Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ
bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người” (Cv 10,37-38). Như vậy,
lời rao giảng của thánh Phê-rô tại nhà Co-nê-li-ô ứng nghiệm lời của Thiên Chúa
trong sách ngôn sứ I-sai-a (Is 61,1-3). Khi diễn tả tương quan giữa Ba Ngôi
Thiên Chúa và việc xức dầu, thánh I-rê-nê giải thích rằng Chúa Cha là Đấng xức
dầu, Chúa Con (Đức Giê-su) là Đấng được xức dầu bởi Chúa Thánh Thần là Dầu [it
is the Father who anoints, but the Son who is anointed by the Spirit, who is
the unction] (Against Heresies, III, 3). Vì được xức dầu Thánh Thần, Đức Giê-su
nói năng và hành động như người có thẩm quyền chứ không như các kinh sư hay những
người lãnh đạo Do-thái đương thời (Mc 1,22).
Mỗi lần đọc Kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng ‘Chúa Thánh Thần là Đấng
ban sự sống’. Điều này có nền tảng vững chắc trong Kinh Thánh. Hơn ai hết,
chính Đức Giê-su đã mặc khải cho mọi người biết vai trò chính yếu của Chúa
Thánh Thần. Người nói: “Không ai có thể
vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí. Cái bởi xác thịt
sinh ra là xác thịt; cái bởi Thần Khí sinh ra là thần khí. Ông đừng ngạc nhiên
vì tôi đã nói: Các ông cần phải được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên. Gió muốn
thổi đâu thì thổi; ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi
đi đâu. Ai bởi Thần Khí mà sinh ra thì cũng vậy” (Ga 3,5-8). Những câu đầu
của sách Sáng Thế cho chúng ta thấy hình ảnh nước và thần khí của Thiên Chúa
bay lượn trên mặt nước. Trong Cựu Ước, nước và thần khí là những biểu tượng
chính yếu của sự sống, sự sống được Thiên Chúa ban tặng, duy trì và tiến triển
trong thế giới thụ tạo. Thánh Gio-an Tông Đồ trình thuật rằng ngày bế mạc lễ Lều,
Đức Giê-su nói với những người trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem: “Ai khát, hãy đến với tôi, ai tin vào tôi,
hãy đến mà uống! Như Kinh Thánh đã nói: Từ lòng Người, sẽ tuôn chảy những dòng
nước hằng sống. Đức Giê-su muốn nói về Thần Khí mà những kẻ tin vào Người sẽ
lãnh nhận. Thật thế, bấy giờ họ chưa nhận được Thần Khí, vì Đức Giê-su chưa được
tôn vinh” (Ga 7,38-39). Những người Do-thái đã quen thuộc trình thuật sáng
tạo trong đó nước và thần khí đóng vai trò chủ đạo sẽ hiểu những điều Đức
Giê-su nói trong hoàn cảnh này.
Thánh Sy-ri-lô (315-386) cho rằng nước là hình ảnh Chúa Thánh Thần và
hình ảnh này rất phù hợp bởi vì muôn sinh vật đều lệ thuộc vào nước. Hơn nữa,
nước đem lại hiệu quả khác nhau nơi sinh vật cần nước. Chúa Thánh Thần cũng vậy,
mỗi người đón nhận ân sủng của Người và sinh hoa kết trái theo những cách thức
khác nhau nhằm đem lại lợi ích thiết thực cho mỗi cá nhân cũng như cộng đoàn.
Trong đời sống thể xác, mọi người đều phải uống nước để được sống. Trong đời sống
tâm linh cũng vậy, Đức Giê-su mời gọi mọi người ‘uống Thánh Thần’ của Người để
được sống dồi dào. Dưới nhãn quan của thánh Gio-an Tông Đồ, với sự hiện diện của
Đức Giê-su trong thân phận con người, đặc biệt, với sự chết và phục sinh của
Người, Chúa Thánh Thần đến với con người. Điều này có nghĩa rằng Chúa Thánh Thần
không hành động cách độc lập với Đức Giê-su, nhưng hành động nhờ và qua Biến Cố
Đức Giê-su trong hành trình trần thế. Trong cuộc đối thoại với người phụ nữ
Sa-ma-ri, Đức Giê-su nói với bà: “Ai uống
nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người
ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời” (Ga 4,14). Nhờ Đức
Giê-su, con người được nối kết với nguồn nước trong sạch, nguồn nước đem lại sự
sống mới, sự sống vĩnh cửu.
Liên quan đến việc thờ phượng Thiên Chúa, trong cuộc trò chuyện với người
phụ nữ Sa-ma-ri, Đức Giê-su nói: “Những
người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì
Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế” (Ga 4,23). Đức Giê-su
còn nói thêm rằng: “Thiên Chúa là thần
khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật”
(Ga 4,24). Với người phụ nữ Sa-ma-ri, những người Do-thái thờ phượng Thiên Chúa
ở Giê-ru-sa-lem, những người Sa-ma-ri thờ phượng ở núi Gơ-ri-dim. Tuy nhiên, Đức
Giê-su cho chị biết thờ phượng Thiên Chúa cách đích thực là thờ phượng trong thần
khí và sự thật. Với Đức Giê-su, sự thờ phượng đích thực không lệ thuộc vào nơi
chốn nhưng lệ thuộc vào tâm trí con người. Việc thờ phượng chỉ chú tâm đến nơi
chốn vẫn là việc thờ phượng bề ngoài. Khi tranh luận với những người Pha-ri-sêu
và các kinh sư ở Giê-ru-sa-lem về truyền thống, Đức Giê-su trích lại lời của Thiên
Chúa trong sách ngôn sứ I-sai-a: “Dân này
tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta” (Mt 15,8; Is
29,13). Với việc mặc khải về căn tính, đời sống và sứ mệnh của Người và Chúa
Thánh Thần trong Bữa Ăn Cuối Cùng, Đức Giê-su cho chúng ta biết thờ phượng
Thiên Chúa đích thực là thờ phượng qua Người là Sự Thật và trong Thần Khí của
Người là Thần Khí Sự Thật. Đặc biệt, trong thư gửi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô
viết: “Có Thần Khí giúp đỡ chúng ta là những
kẻ yếu hèn, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải; nhưng chính Thần
Khí cầu thay nguyện giúp chúng ta, bằng những tiếng rên siết khôn tả” (Rm
8,26).
Thánh Gio-an Tông Đồ cho chúng ta biết Đức Giê-su mặc khải căn tính, đời
sống và sứ mệnh của Thần Khí là Chúa Thánh Thần cách rõ ràng nhất. Trong những
chương đầu, Đức Giê-su diễn tả Chúa Thánh Thần phù hợp với tâm thức của những
người Do-thái am hiểu Cựu Ước, chẳng hạn như con người cần phải sinh lại bởi nước
và thần khí (Ga 3,5); sự tự do của thần khí trong thế giới thụ tạo (Ga 3,8);
xung khắc giữa thần khí và xác thịt (Ga 6,63). Tuy nhiên, trong Bữa Ăn Cuối
Cùng trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Đức Giê-su mặc khải Thần Khí cách rõ ràng
hơn. Chẳng hạn, Đức Giê-su mặc khải Thần Khí là Đấng Bảo Trợ (Παράκλητος, Ga
14,16): “Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà
thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người.
Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em” (Ga
14,17). Trong lịch sử mặc khải, đây là lần đầu tiên Đức Giê-su cho nhân loại biết
rằng Chúa Thánh Thần không chỉ là gió, hơi thở, suối nguồn hay bồ câu, dầu, lửa
mà là ‘Đấng’, nghĩa là một trong Ba Ngôi Thiên Chúa. Theo trình thuật của thánh
Gio-an, Đấng Bảo Trợ cũng là Đấng Dạy Dỗ, Đấng Giải Thích, Đấng An Ủi, Đấng
Giúp Đỡ (Teacher, Interpreter, Comforter, Helper: Ga 14,25-26; Ga 15,26-27; Ga
16,7-8). Như vậy, hơn ai hết, Đức Giê-su là Đấng mặc khải mầu nhiệm Chúa Ba
Ngôi cho mọi người trong gia đình nhân loại. Từ thần khí được hiểu như là tác
nhân sống động của Thiên Chúa biến đổi con người và vạn vật đến Thần Khí được
hiểu như là Đấng Bảo Trợ hay một trong Ba Ngôi Thiên Chúa là một tiến trình mặc
khải lâu dài.
Đức Giê-su cho các môn đệ biết rằng khi Đấng Bảo Trợ đến, “Người sẽ chứng minh rằng thế gian sai lầm về
tội lỗi, về sự công chính và việc xét xử” (Ga 16,8). Người còn giải thích thêm: “Về
tội lỗi: Vì chúng không tin vào Thầy; về sự công chính: Vì Thầy đến cùng Chúa
Cha, và anh em không còn thấy Thầy nữa; về việc xét xử: Vì Thủ lãnh thế gian
này đã bị xét xử rồi” (Ga 16,9-11). Chúng ta biết rằng tội lỗi, sự công
chính và việc xét xử là ba chủ đề quan trọng trong Kinh Thánh và đây cũng là những
chủ đề mà con người thường lầm lẫn khi giải thích theo ý riêng mình. Đức Giê-su
nói rằng tội lỗi của con người là từ chối, không tin tưởng vào Người hay không
thực thi giáo huấn của Người. Về sự công chính, Đức Giê-su cho biết rằng Người
là Đấng Công Chính bởi vì Người luôn kết hợp mật thiết với Chúa Cha. Về việc
xét xử thì Đấng Bảo Trợ sẽ cho mọi người biết rằng Đức Giê-su bị thế gian, bị
con người kết án cách bất công trong Biến Cố Thập Giá. Chính Đức Giê-su là Đấng
sẽ xét xử mọi người cách công minh trong thời cánh chung.
Sứ mệnh của Chúa Thánh Thần là làm rõ thêm giáo huấn của Đức Giê-su và
giúp mọi người tiếp cận giáo huấn này. Đặc biệt, với sự trợ giúp của Chúa Thánh
Thần, các Ki-tô hữu ngày càng hiểu biết Đức Giê-su và sứ mệnh của Người cách rõ
ràng hơn hầu có thể thấm nhuần và nội tâm hóa chương trình của Người trong đời
sống mình. Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng: “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ, anh em không
có sức chịu nổi. Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật
toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe,
Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến. Người sẽ
tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em”
(Ga 16,12-14). Điều này có nghĩa rằng những gì Đức Giê-su chưa nói sẽ được Chúa
Thánh Thần tiếp tục diễn tả. Dĩ nhiên, Chúa Thánh Thần không đem đến những điều
xa lạ với những điều Đức Giê-su đã giảng dạy và thực thi. Nói cách khác, những
điều Chúa Thánh Thần bày tỏ cho các môn đệ và Giáo Hội tương lai không bao giờ
ngược với những điều Đức Giê-su đã nói và thực thi trong quá khứ. Như vậy, sự
ra đi của Đức Giê-su nối kết với sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, Đấng tiếp tục
sứ mệnh của Đức Giê-su giữa lòng nhân thế. Chúa Thánh Thần giúp mọi người hiểu
biết rằng, về căn bản, Ki-tô Giáo không phải là những gì đó trừu tượng, phức tạp,
khó hiểu nhưng là Đức Giê-su, con người bằng xương bằng thịt sống trong môi trường
nhân loại để nâng đỡ và cứu giúp mọi người.
Sau khi phục sinh, Đức Giê-su hiện ra với các môn đệ và ‘thổi hơi vào
các ông’. Hành động Đức Giê-su thổi hơi gợi lại cho chúng ta trình thuật tạo dựng
trong sách Sáng Thế khi Đức Chúa lấy bùn đất nặn ra con người và thổi sinh khí
vào lỗ mũi (St 2,7). Nhờ đó, con người trở nên một sinh vật. Cùng là hành động
thổi hơi nhưng thổi hơi ở Ga 20,22 kỳ diệu hơn thổi hơi ở St 2,7 bởi vì thổi
hơi ở Ga 20,22 là thổi hơi trong chương trình Thiên Chúa cứu chuộc. Thổi hơi
trong chương trình Thiên Chúa sáng tạo là hành động trao ban sự sống cho con
người trong khi đó thổi hơi của Đức Giê-su phục sinh trong Tân Ước là hành động
trao ban sự sống mới cho con người là thụ tạo mới, thụ tạo được biến đổi nhờ
công nghiệp Đức Giê-su. Trong Lời Nguyện Nhập Lễ (Lễ Sáng, Giáng Sinh) có câu: “Chúa đã sáng tạo con người cách kỳ diệu, lại
còn phục hồi phẩm giá con người cách kỳ diệu hơn nữa” (ý tưởng của thánh
An-sen-mô: “Indeed, God restored human
nature more wonderfully than he first established it”, St. Anselm, Basic
Writings, Ed. and Trans. by Thomas Williams, 309). Quả thực, mặc khải Kinh
Thánh cho chúng ta biết rằng trong chương trình Thiên Chúa sáng tạo không có sự
hiện diện bằng xương bằng thịt của Con Thiên Chúa. Còn trong chương trình cứu
chuộc, Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người, sống thân phận con người, giống
con người mọi sự ngoại trừ tội lỗi. Người đã chịu nhiều đau khổ, chịu chết và
phục sinh vì con người. Như vậy, hành động Đức Giê-su phục sinh thổi hơi vào
các môn đệ là hành động trao ban Chúa Thánh Thần và làm cho họ trở thành khí cụ
hữu hiệu của Người giữa lòng nhân thế.
Tin Mừng Đức Giê-su theo thánh Gio-an cho chúng ta nhận thức bốn điểm
quan trọng về tương quan giữa Đức Giê-su và Chúa Thánh Thần: (1) Đức Giê-su đón
nhận Chúa Thánh Thần qua lời của thánh Gio-an Tẩy Giả: “Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người”
(Ga 1,32); (2) Đức Giê-su xin Chúa Cha gửi Chúa Thánh Thần (Đấng Bảo Trợ) đến với
các môn đệ: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người
sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi” (Ga
14,16); (3) Chúa Thánh Thần được Chúa Cha gửi đến nhân danh Đức Giê-su: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai
đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại
mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14,26) và (4) sau khi phục sinh, Đức
Giê-su trao ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ để họ thực thi chương trình
thánh hóa: "Anh em hãy nhận lấy
Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai,
thì người ấy bị cầm giữ" (Ga 20,22-23). Như vậy, Đức Giê-su vừa đón nhận
Chúa Thánh Thần, vừa cầu xin Chúa Cha ban Chúa Thánh Thần, vừa cùng với Chúa
Cha gửi Chúa Thánh Thần, vừa trực tiếp trao ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ.
Tắt một lời, Đức Giê-su đón nhận Chúa Thánh Thần để thực thi sứ mệnh trong hành
trình trần thế của Người, đồng thời, Người trao ban Chúa Thánh Thần để các môn
đệ tiếp tục thực thi sứ mệnh của Người cho đến tận thế.
Đức Giê-su hoàn tất mầu nhiệm vượt qua trong Chúa Thánh Thần và mầu nhiệm
này tiếp tục hiện diện giữa lòng nhân thế nhờ Chúa Thánh Thần. Trước khi bước
vào cuộc khổ nạn, Đức Giê-su cho các môn đệ biết: “Thầy ra đi thì có lợi cho anh em. Thật vậy, nếu Thầy không ra đi, Đấng
Bảo Trợ sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với
anh em” (Ga 16,7). Như vậy, chúng ta cần xác tín hai điều: (1) Chúa Thánh
Thần luôn hiện diện trong mọi biến cố của Đức Giê-su và (2) Chúa Thánh Thần tiếp
tục công việc của Đức Giêsu khi tác động mãnh liệt vào đời sống và sứ mệnh của
các môn đệ và Giáo Hội. Cũng trong Bữa Ăn Cuối Cùng, Đức Giê-su nói với các môn
đệ: “Ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ
làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì
Thầy đến cùng Chúa Cha” (Ga 14,12). Quả thực, sự hiện diện của Đức Giê-su
trong hành trình trần thế chủ yếu chỉ diễn ra trong miền đất Pa-lét-tin, nhưng
với sự hiện diện và hoạt động của Chúa Thánh Thần, các môn đệ đã ra đi loan báo
Đức Giê-su và Tin Mừng của Người cho muôn dân tộc trên mặt đất này.
Đức Giê-su báo cho các môn đệ của Người biết rằng, giữa lòng nhân thế, họ
phải đương đầu với muôn gian lao khốn khổ khi loan báo Tin Mừng cho anh chị em
đồng loại, bởi vì không phải mọi người đều sẵn lòng đón nhận: “Khi người ta nộp anh em, thì anh em đừng lo
phải nói làm sao hay phải nói gì, vì trong giờ đó, Thiên Chúa sẽ cho anh em biết
phải nói gì: Thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh
em nói trong anh em” (Mt 10,19-20). Chính trong Thần Khí của Đức Giê-su,
các môn đệ trừ quỷ, chữa bệnh, an ủi những người bất hạnh trong xã hội: “Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều
người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh” (Mc 6,13). Những lời cuối cùng của Đức
Giê-su sau khi phục sinh và trước khi về trời là: "Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy
đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa
Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền
cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế" (Mt
28,18-20). Như vậy, việc trở thành môn đệ của Đức Giê-su hệ tại ở việc chịu
phép rửa nhân danh Chúa Ba Ngôi và trung tín thực thi việc loan báo Tin Mừng.
Như đề cập ở trên, không có biến cố nào trong hành trình trần thế của Đức
Giê-su lại vắng bóng sự hiện diện của Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Đức Giê-su
là Lời Thiên Chúa, còn Chúa Thánh Thần là Thần Khí Thiên Chúa. Trong Giáo Hội
sơ khai, khi trình bày về Chúa Ba Ngôi, thánh I-rê-nê (130-202) cho rằng Chúa
Con (Đức Giê-su) và Chúa Thánh Thần là ‘đôi tay’ của Thiên Chúa. Chính Thiên
Chúa tạo dựng con người và muôn vật muôn loài với ‘đôi tay’ này (Against
Heresies, Book V, Chapter 6.1). Tương tự như vậy, Thiên Chúa cứu chuộc, thánh
hóa con người cũng như vạn vật với ‘đôi tay’ này. Dựa trên nội dung đức tin
Ki-tô Giáo và những khai triển của các giáo phụ tiên khởi, thánh
Am-rô-xi-ô (340-397) là người đầu tiên viết rằng Chúa Thánh Thần nhiệm xuất
bởi Chúa Cha và Chúa Con (qui a Patre Filioque procedit), Người không tách biệt
Chúa Cha cũng như Chúa Con [the Holy Spirit also, when He proceeds from the
Father and the Son, is not separated from the Father nor separated from the
Son] (St. Ambrose, on the Holy Spirit, Book I, 120). Đặc biệt, theo thánh
Am-rô-xi-ô: “Nơi nào Chúa Cha hiện diện
thì ở đó cũng có Chúa Con và nơi nào Chúa Con hiện diện thì ở đó cũng có Chúa
Thánh Thần” [where the Father is there is also the Son, and
where the Son is there is the Holy Spirit] (St.
Ambrose, on the Holy Spirit, Book III, 122).
Sau khi phục sinh, Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên
anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp
các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Trong
ngày Lễ Ngũ Tuần (Πεντηκοστή/ Pentecost, ngày thứ 50 sau Chúa Nhật Phục Sinh),
các môn đệ đón nhận Chúa Thánh Thần cách đặc biệt. Với sự hiện diện của Chúa
Thánh Thần, các ngài trở thành những con người mạnh mẽ loan báo Đức Giê-su và
Tin Mừng của Người cho anh chị em đồng loại. Bốn điểm chúng ta cần quan tâm
trong biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống: (1) Chúa Thánh Thần là sức mạnh (gió
lớn), (2) có hình dáng như lưỡi bằng lửa, (3) đậu trên các tông đồ và (4) các
ngài nói những thứ tiếng do Chúa Thánh Thần ban tặng (Cv 2,1-4). Thánh Phê-rô
nói với dân chúng trong Lễ Ngũ Tuần: “Thiên
Chúa Cha đã ra tay uy quyền nâng Người lên, trao cho Người Thánh Thần đã hứa, để
Người đổ xuống: Đó là điều anh em đang thấy đang nghe” (Cv 2,33). Hình ảnh
Chúa Thánh Thần hiện xuống cũng như các môn đệ nói được nhiều thứ tiếng mà ai
cũng hiểu gợi lên trong chúng ta hình ảnh nhân loại ban đầu chỉ nói một thứ tiếng.
Tuy nhiên, dần dần mọi người đã vô ơn, kiêu ngạo, không vâng nghe lời Thiên
Chúa, họp nhau định xây tháp Ba-ben với đỉnh cao chọc trời. Hậu quả là Đức Chúa
làm cho tiếng nói họ xáo trộn, không ai hiểu ai và tháp Ba-ben mà họ định xây dựng
không trở thành hiện thực, họ bị phân tán khắp mặt đất (St 11,1-9). Như vậy,
khi con người không màng quan tâm đến Thần Khí Thiên Chúa, thần khí tự tôn của
con người chỉ gây tai họa.
Như đề cập ở trên, trong Cựu Ước, thần khí Thiên Chúa đóng vai trò chủ đạo
trong việc hướng dẫn các ngôn sứ và những người lãnh đạo dân Do-thái thực thi
thánh ý Thiên Chúa. Thời Tân Ước cũng vậy, trước Thượng Hội Đồng Do-thái, thánh
Phê-rô làm chứng cho Đức Giê-su và những công việc Người làm: “Thiên Chúa đã ra tay uy quyền nâng Người
lên, đặt làm thủ lãnh và Đấng Cứu Độ, hầu đem lại cho Ít-ra-en ơn sám hối và ơn
tha tội. Về những sự kiện đó, chúng tôi xin làm chứng, cùng với Thánh Thần, Đấng
mà Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng lời Người” (Cv 5,31-32). Các tông đồ
nhận thức vai trò quan trọng của Chúa Thánh Thần trong các quyết định của Giáo
Hội: “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định
không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác” (Cv 15,28). Quả thực,
trong ngày Lễ Ngũ Tuần, Thiên Chúa trao ban Chúa Thánh Thần là tình yêu của
Chúa Cha và Chúa Con cho các môn đệ. Với tình yêu này, các môn đệ có sứ mệnh
làm cho muôn dân nhận biết Thiên Chúa. Biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống trong
ngày Lễ Ngũ Tuần cũng chính là biến cố Giáo Hội được thiết lập để tiếp tục sứ mệnh
trần thế của Đức Giê-su. Điều này có nghĩa rằng Đức Giê-su lịch sử không còn hiện
diện nữa, nhưng tính lịch sử của Biến Cố Đức Giê-su tiếp tục trong gia đình
nhân loại cho đến tận thế. Trong ngày Lễ Ngũ Tuần, đặc tính Giáo Hội duy nhất,
thánh thiện, công giáo và tông truyền được diễn tả. Với sự hiện diện và hoạt động
của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội trong ngày Lễ Ngũ Tuần là Giáo Hội của mọi quốc
gia, dân tộc, văn hóa, truyền thống.
Trong ngày Lễ Ngũ Tuần, các môn đệ nói được nhiều thứ tiếng. Các thứ tiếng
của các ngài đều phát xuất từ một ngôn ngữ duy nhất của Chúa Thánh Thần, chẳng
hạn như bác ái, bình an, hoan lạc, hiền
hòa, nhân hậu, nhẫn nhục, tiết độ, trung tín, từ tâm (Gl 5,22-23). Đây là
thứ ngôn ngữ mà con cái của gia đình nhân loại trong mọi thời và khắp mọi nơi đều
hiểu cả. Đây là thứ ngôn ngữ phát sinh hành động cao cả, thứ ngôn ngữ thẩm thấu
tâm can những ai lòng ngay thiện chí. Lễ Ngũ Tuần là Lễ không bao giờ chấm dứt
trong Giáo Hội bao lâu con cái Giáo Hội còn nói thứ ngôn ngữ này. Quả thực, nếu
hoa trái của Chúa Thánh Thần là như vậy thì không ai trong gia đình nhân loại lại
không có khả năng lãnh nhận. Chúng ta cần ý thức rằng, ân sủng của Chúa Thánh
Thần được thông ban cho tất cả mọi người, chứ không chỉ cho một số người thuộc
tầng lớp ưu tuyển nào đó. Nhờ Đức Giê-su và trong Chúa Thánh Thần, Thiên Chúa
kêu gọi mọi người trở thành con cái Thiên Chúa. Thánh Phao-lô viết: “Chúng ta đã lãnh nhận Thần Khí như ân huệ mở
đầu, nhưng còn trông đợi Thiên Chúa ban cho trọn quyền làm con, nghĩa là cứu
chuộc thân xác chúng ta nữa” (Rm 8,23). Ngài cũng viết: “Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa
đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: Áp-ba, Cha
ơi!” (Gl 4,6). Như vậy, là Ki-tô hữu nghĩa là đón nhận ân sủng Chúa Thánh
Thần, sống theo ân sủng Chúa Thánh Thần và sinh hoa kết trái trong ân sủng Chúa
Thánh Thần.
Xét về tương quan giữa Chúa Thánh Thần và Giáo Hội, thánh I-rê-nê viết: “Ở đâu có Giáo Hội, ở đó có Thần Khí Thiên
Chúa và ở đâu có Thần Khí Thiên Chúa ở đó có Giáo Hội và muôn ân sủng của Người”
[Where the Church is, there is the Spirit of God; and where
the Spirit of God is, there is the Church, and every kind
of grace] (Against Heresies, Book III, Chapter 24,1). Thánh Au-gút-ti-nô
khẳng định rằng: “Linh hồn ở trong con
người thế nào thì Chúa Thánh Thần ở trong Giáo Hội là Thân Thể Đức Ki-tô như vậy”
(Sermon 267,4). Theo thánh nhân, Chúa Thánh Thần hoạt động trong Giáo Hội như
linh hồn hoạt động trong thân thể. Các Đức Giáo Hoàng như Lê-ô XIII, Pi-ô XII,
Gio-an Phao-lô II, Bê-nê-đích-tô XVI cũng như nhiều thần học gia lỗi lạc tiếp tục
khẳng định và khai triển tư tưởng của thánh Au-gút-ti-nô trong các tác phẩm của
các ngài. Như vậy, Giáo Hội là Thân Thể Mầu Nhiệm Đức Ki-tô và Chúa Thánh Thần
là linh hồn của Giáo Hội. Đây là khẳng định rất quan trọng đối với thực tại có
tên là Giáo Hội. Xét bề ngoài, Giáo Hội tương tự như nhiều thực thể hay tổ chức
khác trong xã hội loài người. Tuy nhiên, Giáo Hội phân biệt với các thực thể
khác trong xã hội loài người bởi vì Giáo Hội là Thân Thể Mầu Nhiệm Đức Ki-tô và
Chúa Thánh Thần là linh hồn của Giáo Hội. Nhờ Chúa Thánh Thần, Giáo Hội được
thiết lập, tồn tại và phát triển luôn mãi cho tới thời cánh chung. Chúa Thánh
Thần không ngừng thánh hóa Giáo Hội để qua Giáo Hội, Chúa Thánh Thần thánh hóa
muôn người. Công Đồng Vatican II minh định: “Chúa
Thánh Thần thúc đẩy Giáo Hội cộng tác với Ngài để hoàn tất trọn vẹn kế hoạch của
Thiên Chúa là Ðấng đã đặt Chúa Kitô làm nguyên lý cứu độ cho cả thế giới”
(LG 17).
Chúa Thánh Thần duy trì sự hiệp nhất của các thành phần thuộc Nhiệm Thể
Đức Ki-tô: Sự hiệp nhất trong đa dạng hay sự hiệp nhất của các cá thể (unity of
diversity or unity of individuals), chứ không phải sự đồng đều của các cá thể
(uniformity of individuals). Điều này có nghĩa là các thành phần trong Giáo Hội
có ân sủng phân biệt nhau nhưng hiệp nhất cùng nhau để xây dựng Nhiệm Thể Đức
Ki-tô. Thánh Phao-lô viết: “Có nhiều đặc
sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng
chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa
làm mọi sự trong mọi người. Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì
ích chung… chính Thần Khí duy nhất ấy làm ra tất cả những điều đó và phân chia
cho mỗi người mỗi cách, tùy theo ý của Người” (1 Cr 12,4-11). Do đó, các
thành phần trong Giáo Hội luôn được mời gọi hiệp thông với Chúa Thánh Thần và với
nhau trong việc xây dựng Giáo Hội để Giáo Hội luôn diễn tả mình là bí tích của
sứ mệnh Đức Giê-su và cũng là của Chúa Thánh Thần giữa gia đình nhân loại (LG
1; GLGHCG 738).
Chúng ta có thể khẳng định rằng nhờ Đức Giê-su trong Chúa Thánh Thần, luật
lệ và lời các ngôn sứ của Cựu Ước được kiện toàn. Nhờ Đức Giê-su trong Chúa
Thánh Thần, ơn cứu độ của Thiên Chúa đến với tất cả mọi người. Nhờ Đức Giê-su
trong Chúa Thánh Thần, con người trở nên thụ tạo mới, thụ tạo thấm nhuần ân sủng
và được định hướng tới sự sống muôn đời. Nhờ Đức Giê-su trong Chúa Thánh Thần,
con người gặp gỡ chính mình, gặp gỡ Thiên Chúa, gặp gỡ anh chị em và gặp gỡ
muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo cách đúng đắn và phù hợp nhất. Nhờ Đức
Giê-su trong Chúa Thánh Thần, tình yêu của Thiên Chúa được diễn tả, sự cứu độ của
Người được thực hiện và tương lai xán lạn mở ra cho tất cả những ai trung tín với
Người.
Trong hành trình trần thế, chúng ta cần phân biệt Thần Khí của Thiên
Chúa, thần khí của con người và ác thần hay thần khí của ma quỷ, thế gian, xác
thịt. Nếu chúng ta không để Thần Khí của Thiên Chúa hướng dẫn thì chúng ta
không thể vượt thắng được thần khí của con người cũng như ác thần. Theo thánh
Gio-an Tông Đồ: “Căn cứ vào điều này, anh
em nhận ra thần khí của Thiên Chúa: Thần khí nào tuyên xưng Đức Giê-su Ki-tô là
Đấng đã đến và trở nên người phàm, thì thần khí ấy bởi Thiên Chúa; còn thần khí
nào không tuyên xưng Đức Giê-su, thì không bởi Thiên Chúa; đó là thần khí của
tên phản Ki-tô” (1 Ga 4,2-3); “Ai biết
Thiên Chúa thì nghe chúng ta. Ai không thuộc về Thiên Chúa thì không nghe chúng
ta. Chúng ta cứ dựa vào đó mà nhận ra thần khí dẫn đến sự thật và thần khí làm
cho sai lầm” (1 Ga 4,6). Theo thánh Phao-lô: “Con người sống theo tính tự nhiên thì không đón nhận những gì của Thần
Khí Thiên Chúa, vì cho đó là sự điên rồ; họ không thể biết được, bởi vì phải nhờ
Thần Khí mới có thể xét đoán” (1 Cr 2,14). Như vậy, dưới nhãn quan của hai
thánh Gio-an và Phao-lô, con người sẽ không làm được gì đúng đắn, tốt đẹp, lành
thánh nếu như thần khí của họ không chung nhịp với Thần Khí của Đức Giê-su, Thần
Khí của Thiên Chúa là Chúa Thánh Thần.
Chúng ta cần
luôn đặt những câu hỏi và trả lời cho những câu hỏi đó, chẳng hạn như thần khí
nào đang ngự trị trong tâm hồn mình (Thần Khí Thiên Chúa, thần khí con người
hay thần khí ma quỷ)? Đâu là những dấu chỉ của Thần Khí Đức Giê-su trong thế giới
thụ tạo? Làm cách nào để phân định các hình thức thần khí trong cuộc sống mình?
Trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Đức Giê-su nói rằng người là Đường (Ga 14,6).
Chúng ta có thể khẳng định rằng Đường Đức Giê-su là Đường trong Chúa Thánh Thần.
Nhờ Đức Giê-su là Đường trong Chúa Thánh Thần, con người mới có thể suy nghĩ,
ăn nói và hành động xứng hợp với nhân phẩm mình. Nhờ Đức Giê-su là Đường trong
Chúa Thánh Thần, thần khí của con người mới được biến đổi hầu có thể thực thi
thánh ý Thiên Chúa cách xứng hợp. Nhờ Đức Giê-su là Đường trong Chúa Thánh Thần,
con người mới có thể chiến thắng thần khí ma quỷ, thế gian, xác thịt. Nhờ Đức
Giê-su là Đường trong Chúa Thánh Thần, con người mới thực sự là thành phần
trong Giáo Hội, Thân Thể Mầu Nhiệm Đức Ki-tô giữa dòng đời.
Theo thánh Phao-lô, trong Đức Giê-su và Chúa Thánh Thần, con người trở
nên thụ tạo mới (2 Cr 5,17). Để được
như vậy, thánh nhân mời gọi mọi người cộng tác với Chúa Thánh Thần trong việc
biến đổi bản thân mình: “Anh em phải cởi
bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn
lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con
người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống
công chính và thánh thiện” (Ep 4,23-24). Trong thư gửi Ti-tô, thánh Phao-lô
viết: “Không phải vì tự sức mình chúng ta
đã làm nên những việc công chính, nhưng vì Người thương xót, nên Người đã cứu
chúng ta nhờ phép rửa ban ơn Thánh Thần, để chúng ta được tái sinh và đổi mới”
(Tt 3,5). Chúa Thánh Thần đổi mới bộ mặt thế giới thụ tạo, đổi mới bộ mặt địa cầu,
đổi mới bộ mặt nhân loại cùng trái tim mọi người sao cho phù hợp với chương
trình của Thiên Chúa. Quả thực, con người bị chi phối bởi tội lỗi và sự chết
nhưng nhờ sự nâng đỡ và hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, con người được biến đổi
luôn mãi cho tới khi được chung hưởng sự sống vĩnh cửu trong Nước Thiên Chúa.
Thánh Phao-lô cho chúng ta biết rằng mọi người đều được lãnh nhận ân sủng
của Chúa Thánh Thần và ân sủng mà mỗi người lãnh nhận là vì lợi ích chung (1 Cr
12,7). Khi mỗi người ý thức rằng ân sủng phân biệt nhau nơi họ đều phát xuất từ
Chúa Thánh Thần cũng là khi mỗi người cần quan tâm đến sự hiệp thông và hòa hợp
trong các hình thức cộng đoàn. Điều này có nghĩa là, với ân sủng Chúa Thánh Thần,
mỗi người hãy quan tâm đến lợi ích cộng đoàn, lợi ích tập thể trước lợi ích cá
nhân. Quả thực, việc đặt ưu tiên ‘bức tranh lớn’ của cộng đoàn trước ‘bức tranh
nhỏ’ của cá nhân là điều cần thiết giúp con người tránh được nhãn quan duy chủ
thể hay lãnh đạm. Giáo huấn này của thánh Phao-lô luôn đúng cho mọi thời, nhất
là cho con người trong thời đại hôm nay thường cổ xúy cho não trạng quy chủ thể,
đặt lợi ích mình trên lợi ích người khác, trên lợi ích cộng đoàn, bàng quan
lãnh đạm trước các hình thức sự dữ hay những khó khăn, đau khổ của anh chị em đồng
loại.
Thánh Phao-lô khẳng định: “Không
ai có thể nói rằng: ‘Đức Giê-su là Chúa’, nếu người ấy không ở trong Thần Khí”
(1 Cr 12,3). Chúng ta có thể diễn tả thêm tư tưởng của thánh nhân rằng chỉ
trong Chúa Thánh Thần, con người mới có thể tin nhận và thực thi thánh ý Thiên
Chúa cách phù hợp. Chỉ trong Chúa Thánh Thần, con người mới có thể nhận thức được
căn tính, đời sống và sứ mệnh của Đức Giê-su giữa lòng nhân thế. Chỉ trong Chúa
Thánh Thần, các thành phần trong Giáo Hội là Thân Thể Mầu Nhiệm Đức Ki-tô mới
có thể hiệp nhất với nhau đúng nghĩa. Chỉ trong Chúa Thánh Thần, các Ki-tô hữu
mới có thể sẵn sàng loan báo Đức Giê-su và Tin Mừng của Người cho anh chị em đồng
loại. Để nhận thức rõ hơn vai trò trung tâm của Chúa Thánh Thần trong đời sống
con người, chúng ta cần tham chiếu giáo huấn của thánh Gio-an Tông Đồ trong thư
thứ nhất của ngài. Khi trình bày về việc Thiên Chúa ở trong con người, thánh
Gio-an viết: “Căn cứ vào điều này, chúng
ta biết được Thiên Chúa ở lại trong chúng ta, đó là nhờ Thần Khí, Thần Khí Người
đã ban cho chúng ta” (1 Ga 3,24). Khi trình bày về việc con người ở trong
Thiên Chúa, thánh nhân viết: “Căn cứ vào
điều này, chúng ta biết được rằng chúng ta ở lại trong Người và Người ở lại
trong chúng ta: Đó là Người đã ban Thần Khí của Người cho chúng ta” (1 Ga
4,13). Như vậy, Thần Khí là tác nhân chính yếu trong việc Thiên Chúa ở lại với
con người và con người ở lại với Thiên Chúa.
Sứ mệnh của các môn đệ Đức Giê-su là cộng tác với Chúa Thánh Thần trong
việc loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Theo tác giả sách Tông Đồ Công Vụ,
trong bối cảnh Lễ Ngũ Tuần tại Giê-ru-sa-lem, thánh Phê-rô nói với dân chúng: “Anh em hãy sám hối, và mỗi người hãy chịu
phép rửa nhân danh Đức Giê-su Ki-tô, để được ơn tha tội; và anh em sẽ nhận được
ân huệ là Thánh Thần” (Cv 2,38). Tác giả sách Tông Đồ Công Vụ cũng cho
chúng ta biết rằng hôm đó có thêm khoảng ba ngàn người theo đạo (Cv 2,41). Sau
khi Đức Giê-su phục sinh và lên trời, Chúa Thánh Thần đóng vai trò quyết định
trong mọi hoạt động của Giáo Hội, nhất là việc loan báo Tin Mừng. Theo tác giả
sách Tông Đồ Công Vụ: “Một hôm, đang khi
họ làm việc thờ phượng Chúa và ăn chay, thì Thánh Thần phán bảo: Hãy dành riêng
Ba-na-ba và Sao-lô cho Ta, để lo công việc Ta đã kêu gọi hai người ấy làm"
(Cv 13,2) hay: “Các ông đi qua miền
Phy-ghi-a và Ga-lát, vì Thánh Thần ngăn cản không cho các ông rao giảng lời
Chúa ở A-xi-a. Khi tới sát ranh giới My-xi-a, các ông thử vào miền Bi-thy-ni-a,
nhưng Thần Khí Đức Giê-su không cho phép. Các ông bèn đi qua miền My-xi-a mà xuống
Trô-a” (Cv 16,6-8). Lịch sử Giáo Hội sơ khai cho chúng ta biết rằng khi
loan báo Đức Giê-su và Tin Mừng của Người cho anh chị em đồng loại, các môn đệ
phải đương đầu với muôn vàn khó khăn gian khổ. Tuy nhiên, Chúa Thánh Thần luôn
hiện diện và nâng đỡ các ngài. Thánh Phê-rô nói với các tín hữu: “Nếu bị sỉ nhục vì danh Đức Ki-tô, anh em
thật có phúc, bởi lẽ Thần Khí vinh hiển và uy quyền, là Thần Khí của Thiên
Chúa, ngự trên anh em” (1 Pr 4,14).
Chúng ta có thể kết luận rằng Đường của Đức Giê-su trong hành trình trần thế là Đường trong Chúa Thánh Thần. Bởi vì, trong Chúa Thánh Thần, Đức Ma-ri-a đã cưu mang và sinh hạ Đức Giê-su. Trong Chúa Thánh Thần, Đức Giê-su đã sang Ai-cập, trở về Na-da-rét, chịu phép rửa, chịu ma quỷ cám dỗ. Trong Chúa Thánh Thần, Đức Giê-su loan báo và công bố sự hiện diện của Nước Thiên Chúa trên trần gian. Nói cách khác, mọi biến cố trong hành trình trần thế của Người gắn liền với sự hiện diện và hoạt động của Chúa Thánh Thần. Sau khi chịu đau khổ, chịu chết và phục sinh, cùng với Chúa Cha, Đức Giê-su đã trao ban Chúa Thánh Thần cho gia đình nhân loại và toàn thể thế giới thụ tạo. Nhờ đó, ân sủng Chúa Thánh Thần tràn ngập vũ trụ, đổi mới bộ mặt trái đất, đổi mới con tim muôn người. Ân sủng của Chúa Thánh Thần sưởi ấm lương tâm những người nguội lạnh, ban sức mạnh cho những người yếu đau, đem hy vọng cho những người sầu khổ, củng cố sức lực cho những kẻ yếu hèn, ban niềm vui cho những người gặp gian nan thử thách. Trong Chúa Thánh Thần, Đức Giê-su đã thiết lập Giáo Hội để Giáo Hội trở thành bí tích sứ mệnh của Người và cũng là của Chúa Thánh Thần hầu quy tụ con người và muôn vật muôn loài. Mọi người trong gia đình nhân loại được mời gọi theo Đường Đức Giê-su, Đường trong Chúa Thánh Thần, để được ơn tha thứ tội lỗi, được đổi mới và trở nên khí cụ hữu hiệu của Người trên hành trình về với sự hiệp thông viên mãn của Ba Ngôi Thiên Chúa.