ĐỨC GIÊ-SU KI-TÔ – ĐƯỜNG TẠ ƠN
Gm. Phê-rô Nguyễn Văn Viên
WHĐ (04.04.2022) -Trong tiếng Do-thái, תּוֹדָה/ todah có nghĩa là tạ ơn.
Từ tương đương với תּוֹדָה/ todah của tiếng Hy-lạp là εὐχαριστία/ eucharistia.
Trong từ εὐχαριστία, ‘εὐ’ có nghĩa là tốt (good) và ‘χάρις’/ cháris (grace/
grâce) có nghĩa là ân/ơn sủng, ân/ơn huệ, ơn lành, quà tặng. Đặc biệt, từ
χάρις/ cháris (grace/ grâce) cũng có nghĩa là tạ ơn (gratitude, thanks), chẳng
hạn như “τῷ δὲ θεῷ χάρις τῷ διδόντι ἡμῖν
τὸ νῖκος διὰ τοῦ κυρίου ἡμῶν Ἰησοῦ Χριστοῦ” [Nhưng tạ ơn Thiên Chúa, vì Người đã cho chúng ta chiến thắng nhờ Đức
Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta] (1 Cr 15,57) hay “Χάρις δὲ τῷ θεῷ τῷ δόντι τὴν αὐτὴν σπουδὴν ὑπὲρ ὑμῶν ἐν τῇ καρδίᾳ Τίτου”
[Cảm tạ Thiên Chúa đã đặt vào lòng anh
Ti-tô một sự nhiệt thành như thế đối với anh em] (2 Cr 8,16). Như vậy, về
phía người cho hay ân nhân (benefactor), χάρις có nghĩa là ân sủng; về phía người
nhận hay người thụ ơn (recipient), χάρις có nghĩa là tạ ơn. Từ tương đương với
εὐχαριστία trong tiếng La-tinh là eucharistia; tiếng Anh là eucharist/ thanksgiving/
thankfulness/ gratitude/ gratefulness.
Khi chuyển ngữ sang tiếng
Việt, תּוֹדָה/ εὐχαριστία/ eucharistia/ thanksgiving thường được dịch là tạ ơn,
cảm ơn, cảm tạ, tri ân. Theo đó, người thụ ơn nhìn nhận, ý thức rõ ràng và tạ
ơn ân nhân của mình. Nói cách khác, tạ ơn biểu lộ thiện tình của người lãnh nhận
ân huệ, tình thương hay điều gì đó từ ân nhân và thông thường là từ người có địa
vị cao hơn. Tâm tình tạ ơn hướng về người khác, chứ không hướng về bản thân bởi
vì không ai lại tạ ơn chính mình. Tâm tình tạ ơn diễn tả tương quan mật thiết
giữa con người với con người, giữa con người với Thiên Chúa cũng như giữa con
người với các thực thể khác. Người trao ban ân huệ có thể quên hành động của
mình nhưng người lãnh nhận có bổn phận phải diễn tả tâm tình tạ ơn đối với người
trao ban. Tâm tình tạ ơn thật đa dạng và liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau
trong đời sống con người. Bài viết này chủ yếu trình bày tâm tình tạ ơn theo
nghĩa thần học (đặc biệt là Ki-tô học) hơn là theo nghĩa văn hóa, xã hội hay
tâm lý.
Chủ đề tạ ơn được trình
bày trong hầu hết các sách Kinh Thánh. Đặc biệt, trong Cựu Ước, tạ ơn được đề cập
nhiều ở các Thánh Vịnh. Còn trong Tân Ước, chủ đề này khá phổ biến nơi bốn tác
phẩm Tin Mừng, sách Tông Đồ Công Vụ, thư gửi tín hữu Do-thái, sách Khải Huyền
và nhất là trong các thư của thánh Phao-lô. Dưới nhãn quan Kinh Thánh, trong tương
quan giữa Thiên Chúa và con người, ân sủng/ ân huệ hay ơn thánh thuộc về Thiên
Chúa, còn tạ ơn/ cảm ơn hay tri ân thuộc về bổn phận của con người. Với nghĩa rộng
hơn của hạn từ, thánh Tô-ma A-qui-nô cho rằng tạ ơn được hiểu như là nhớ lại
tình nghĩa cũng như lòng quảng đại của người khác đối với mình, đồng thời, mong
muốn được đền đáp (Thomas Aquinas, Summa
Theologiae IIaIIæ, Q.80, a.1). Cũng theo thánh nhân, tạ ơn gắn liền với đức
công bình, trong đó tạ ơn Thiên Chúa là hình thức tạ ơn cao cả nhất mà con người
cần phải thực thi (Thomas Aquinas, Summa
Theologiae IIaIIæ, Q.106, a.1). Hơn nữa, theo thánh nhân, tạ ơn là một nhân
đức đặc biệt (Thomas Aquinas, Summa
Theologiae IIaIIæ, Q.107, a.2).
Dưới nhãn quan Kinh
Thánh cũng như thần học thời các Giáo Phụ, người tạ ơn Thiên Chúa cũng là người
thờ lạy, chúc tụng, tán dương và ngợi khen Người. Nói theo cách tổng quát hơn,
tất cả các hình thức phụng tự đích thực đều mang nghĩa tạ ơn. Hơn nữa, tâm tình
tạ ơn của con người đối với Thiên Chúa phân biệt với các hình thức tạ ơn khác trong
thế giới thụ tạo. Bởi vì, con người được hiện diện, sống và hoạt động cũng như
đạt được hạnh phúc viên mãn là bởi tình yêu nhiệm mầu của Thiên Chúa. Con người
tạ ơn Thiên Chúa bởi vì Thiên Chúa cho ‘con người là’ và cho ‘con người có’,
nghĩa là nhờ Thiên Chúa, con người được hiện diện và hoạt động trên trần gian.
Đồng thời, Thiên Chúa ban cho con người những điều kiện cần thiết để sống xứng
đáng với phẩm giá của mình. Do vậy, tạ ơn Thiên Chúa là cần thiết nhất, các
hình thức tạ ơn khác, chẳng hạn như tạ ơn cha mẹ, người thân hay bạn bè được
xem là dẫn xuất từ việc tạ ơn Thiên Chúa.
Mặc khải Kinh Thánh
cho chúng ta biết rằng tâm tình tạ ơn Thiên Chúa được trình bày từ rất sớm
trong Cựu Ước, chẳng hạn, A-ben biểu lộ tâm tình tạ ơn Thiên Chúa qua việc dâng
những con đầu lòng của bầy chiên cho Người (St 4,4); Nô-ê biểu lộ tâm tình tạ
ơn Thiên Chúa qua việc dựng bàn thờ và lấy những động vật thanh sạch làm lễ
toàn thiêu dâng kính Người (St 8,20-21); Áp-ra-ham biểu lộ tâm tình tạ ơn Thiên
Chúa bằng nhiều hình thức khác nhau (St 12,6-9; St 14,17-24; St 22,1-14). Nhìn
chung, các lý do để tạ ơn Thiên Chúa trong Cựu Ước thật đa dạng. Chẳng hạn, vua Đa-vít tạ
ơn Thiên Chúa vì Người đã cứu vua khỏi chết: “Vì thế, tâm hồn con ca ngợi Chúa, và không hề nín lặng. Lạy Chúa là
Thiên Chúa con thờ, xin tạ ơn Ngài mãi mãi ngàn thu” (Tv 30,13); Đa-vít
cũng tạ ơn Thiên Chúa vì Người chống lại phường miệng lưỡi thâm độc: “Lạy Chúa, con nguyện tạ ơn Ngài luôn mãi,
vì Ngài đã ra tay. Trước mặt những người hiếu trung với Chúa, con trông đợi
danh Ngài, vì danh Ngài thiện hảo” (Tv 52,11); tạ ơn Thiên Chúa bởi vì được
Người thử thách: “Chúng ta hãy tạ ơn Đức
Chúa, Thiên Chúa chúng ta, Người đã thử thách chúng ta cũng như đã thử thách
cha ông chúng ta” (Gđt 8,25); tạ ơn Thiên Chúa vì Người nhân từ: “Hãy tạ ơn Chúa, vì Chúa nhân từ: Muôn ngàn
đời Chúa vẫn trọn tình thương” (1 Sb 16,34); tạ ơn Thiên Chúa vì tình
thương và lòng thành tín của Người: “Lạy
Thiên Chúa, trước mặt chư dân, con dâng lời cảm tạ, giữa lòng muôn nước, con
đàn hát xướng ca. Vì tình thương của Ngài cao ngất trời xanh, và lòng thành tín
vượt ngàn mây thẳm” (Tv 57,10-11); tạ ơn Thiên Chúa vì Người luôn đồng
hành, hướng dẫn: “Ước gì muôn nước reo hò
mừng rỡ, vì Chúa cai trị cả hoàn cầu theo lẽ công minh, Người cai trị muôn nước
theo đường chính trực và lãnh đạo muôn dân trên mặt đất này. Ước gì chư dân cảm
tạ Ngài, lạy Thiên Chúa, chư dân phải đồng thanh cảm tạ Ngài” (Tv 67,5-6);
tạ ơn Thiên Chúa vì Người nhân hậu, yêu thương và thành tín: “Hãy vào cửa thánh điện cất tiếng tạ ơn, tới
khuôn viên đền vàng dâng lời ca ngợi, tạ ơn Chúa và chúc tụng danh Người. Bởi
vì Chúa nhân hậu, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương, qua bao thế hệ, vẫn
một niềm thành tín” (Tv 100,4-5); tạ ơn Thiên Chúa vì những kỳ công Người
thực hiện: “Ước chi họ dâng lời cảm tạ vì
tình thương của Chúa, và vì những kỳ công Chúa đã thực hiện cho người trần. Ước
chi họ dâng lễ tế tạ ơn Chúa, cất tiếng hò reo, tường thuật việc Chúa làm”
(Tv 107,21-22); tạ ơn Thiên Chúa vì tai qua nạn khỏi: “Được Thiên Chúa giải thoát khỏi những tai họa lớn lao, chúng tôi hết
lòng tạ ơn Người, vì Người đã chiến đấu chống lại nhà vua” (2 Mcb 1,11).
Cựu Ước cho chúng ta
biết nhiều khuôn mặt điển hình diễn tả tâm tình tạ ơn Thiên Chúa và người đặc
biệt nhất là ông Gióp: “Ông là một con
người vẹn toàn và ngay thẳng, kính sợ Thiên Chúa và lánh xa điều ác. Ông sinh
được bảy người con trai và ba người con gái. Ông có một đàn súc vật gồm bảy
ngàn chiên dê, ba ngàn lạc đà, năm trăm đôi bò, năm trăm lừa cái và một số rất
đông tôi tớ. Ông là người giàu có nhất trong số các con cái Phương Đông” (G
1,1-3). Tuy nhiên, những tai họa không ngừng giáng xuống: Gia sản của ông bị lửa
thiêu, súc vật và các đầy tớ cũng như con cái của ông đều bị giết chết. Ông chịu
muôn vàn hình thức đau khổ về tâm hồn, thể xác (chẳng hạn như thân đầy ghẻ lở,
đau yếu, bị vợ đay nghiến, hắt hủi, xa lánh, bạn bè khinh chê) nhưng: “Trong tất cả những chuyện ấy, ông Gióp
không hề phạm tội cũng không buông lời trách móc phạm đến Thiên Chúa” (G
1,22). Giữa cảnh đau thương, tối tăm mù mịt, ông Gióp vẫn lên tiếng tạ ơn, chúc
tụng Thiên Chúa. Ông nói: "Thân trần
truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng. Đức Chúa đã ban cho,
Đức Chúa Cha lại lấy đi: Xin chúc tụng danh Đức Chúa!” (G 1,21). Trong mọi
hoàn cảnh, ông không ngừng tạ ơn Thiên Chúa và đặt trọn niềm hy vọng nơi Người.
Cuối cùng, ông được Thiên Chúa khôi phục tài sản, sinh nhiều con cái, hậu duệ
sum vầy và qua đời trong bình an với tuổi thọ đáng mơ ước (G 42,10-17).
Dân Do-thái có ba ngày
lễ quan trọng trong năm là Lễ Vượt Qua (Pesach/ Passover), Lễ Ngũ Tuần (Shavuot/
Pentecost) và Lễ Lều (Sukkoth/ Tabernacles). Đây là những ngày tạ ơn giúp họ tưởng
nhớ bao kỳ công Thiên Chúa đã thực hiện để củng cố giao ước mà Thiên Chúa thiết
lập với tổ tiên mình. Trong các ngày đó, dân Do-thái dâng lễ tạ ơn hay lễ kỳ an và dành trọng
tâm tình hướng Thiên Chúa vì Người đã giải phóng dân tộc họ ra khỏi ách nô lệ
Ai-cập cũng như nuôi dưỡng dân tộc họ bốn mươi năm trong sa mạc trên đường về với
Đất Hứa. Đồng thời, họ tạ ơn Thiên Chúa vì cho họ được tự do, đất đai màu mỡ,
mùa màng bội thu. Đặc biệt, họ tạ ơn Thiên Chúa vì Người đã ban lề luật (Torah)
cũng như muôn ơn lành khác mà cha ông họ lãnh nhận qua dòng lịch sử cũng như trong
cuộc sống hiện tại. Chúng ta có thể khẳng định rằng các hình thức tạ ơn trong Cựu
Ước báo trước hình thức tạ ơn cao cả nhất mà Đức Giê-su, Con Thiên Chúa, thực
hiện trong Tân Ước.
Theo trình thuật của thánh
Gio-an, Đức Giê-su là Lời vĩnh cửu của Thiên Chúa, Lời đã trở thành người phàm
và hiện diện trong gia đình nhân loại (Ga 1,14; 1 Ga 1,1). Tác giả thư gửi tín
hữu Do-thái cũng cho chúng ta biết rằng, trong lịch sử, Thiên Chúa đã nhiều lần
nhiều cách phán dạy cha ông họ qua các ngôn sứ nhưng vào thời sau hết đã phán dạy
qua Đức Giê-su là Thánh Tử chí ái của Người (Dt 1,1-2). Với Biến Cố Nhập Thể, Đức
Giê-su là Lời vĩnh cửu (the eternal Word), Lời khôn ngoan (the Word of wisdom),
Lời sáng tạo (the Word of creation) của Thiên Chúa đã trở thành ‘Lời tạ ơn’ bởi
vì Người nhân danh mọi người trong gia đình nhân loại tạ ơn Thiên Chúa. Với Biến Cố Thập Giá, Đức Giê-su đã dâng Lời tạ ơn ‘εὐχαριστήσας’
(having given thanks) cùng với Hy Lễ tạ ơn là chính mình Người (Lc 22,19; 1 Cr 11,24).
Nói cách khác, trong thân phận con người,
Đức Giê-su là Lời tạ ơn và cũng là Hy Lễ tạ ơn cao cả và hoàn hảo nhất dâng lên Thiên Chúa. Nhờ
Đức Giê-su trong thân phận con người là Lời và Hy Lễ tạ ơn, mọi người được giải
thoát khỏi quyền lực tối tăm, được tha thứ tội lỗi, được ơn cứu độ, được đưa
vào vương quốc ánh sáng của Thiên Chúa (Cl 1,13-14).
Trong ba năm loan báo
Tin Mừng, Đức Giê-su dành nhiều thời gian cho những người dân vùng Ga-li-lê. Theo
trình thuật của thánh Lu-ca, Đức Giê-su chứng kiến nhiều người Do-thái ở Kho-ra-din,
Bết-xai-đa và Ca-phác-na-um không sẵn lòng đón nhận sứ điệp của Người. Đồng thời,
khi chứng kiến những thành công của các môn đệ trong việc loan báo Tin Mừng, Đức
Giê-su nói: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất,
con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái
biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha,
vì đó là điều đẹp ý Cha” (Lc 10,21). Kết hợp với trình thuật song song theo
thánh Mát-thêu, chúng ta nhận thức rằng Đức Giê-su loan báo Tin Mừng Nước Thiên
Chúa nhưng nhiều người Do-thái lãnh đạm với sứ mệnh cũng như sứ điệp của Người
(Mt 11,20-27). Đức Giê-su cảm tạ Chúa Cha bởi vì mầu nhiệm Nước Trời mà Người
diễn tả được những người tầm thường đón nhận. Trong khi đó, những người cho
mình là thông thái tài giỏi lại không quan tâm. Phải chăng họ lấy làm đủ vì những
kiến thức họ sở đắc? Họ tự định hình chương trình của Thiên Chúa và đúc khuôn
chân dung Đấng Mê-si-a theo ý họ. Do đó, họ đóng mình trước mầu nhiệm Nước
Thiên Chúa mà Đức Giê-su loan báo và minh chứng bằng cuộc sống của Người.
Trong khi Đức Giê-su
luôn sống, giảng dạy và diễn tả tâm tình tạ ơn Thiên Chúa thì nhiều người được
Đức Giê-su thi ân giáng phúc lại không biểu lộ tâm tình đó. Chẳng hạn, thánh
Lu-ca trình thuật về chuyện mười người phong hủi được Người chữa khỏi nhưng chỉ
một người quay lại tôn vinh Thiên Chúa và sấp mình dưới chân Đức Giê-su mà tạ
ơn. Anh ta không phải là người Do-thái mà là người Sa-ma-ri (Lc 17,11-19). Chúng
ta biết rằng người Do-thái và người Sa-ma-ri không giao thiệp với nhau, thậm
chí coi nhau là địch thù nhưng trong nhóm mười người phong hủi lại có một người
Sa-ma-ri. Đây thật là điều đáng được chúng ta quan tâm bởi vì những người
Do-thái và những người Sa-ma-ri khỏe mạnh thì không giao thiệp với nhau nhưng
những người bệnh tật lại liên kết với nhau, nâng đỡ nhau, sống chết có nhau
trong cảnh khốn cùng. Mười người phong hủi tâm đầu ý hợp về hoàn cảnh éo le của
mình. Tuy nhiên, họ đã không tâm đầu ý hợp trong việc tạ ơn Thiên Chúa. Thật trớ
trêu, người Sa-ma-ri là người ngoại giáo (những người Do-thái thường gọi họ như
vậy), người ‘không có đạo’ lại trở thành người ‘có đạo’, người thuộc về Nước
Thiên Chúa. Chín người Do-thái khác là những người ‘có đạo’ nhưng thực tế họ là
những người ‘vô đạo’, những người hữu danh vô thực, những người ngoại giáo trước
mặt Thiên Chúa bởi vì họ không có tâm tình tạ ơn theo thánh ý Người. Trong khi
đó, người Sa-ma-ri lại tạ ơn vì nhờ Đức Giê-su mà được khỏi bệnh. Chắc rằng những
năm tháng còn lại của cuộc đời mình, người Sa-ma-ri không ngừng tạ ơn Thiên
Chúa, tạ ơn Đức Giê-su và loan báo Tin Mừng cho anh chị em đồng loại.
Nhiều trình thuật Kinh
Thánh cho chúng ta biết tâm tình tạ ơn trổi vượt của những người ngoại đạo, chẳng
hạn như câu chuyện về ông Na-a-man, người xứ Xy-ri, bị phong hủi. Sau khi nghe
lời ngôn sứ Ê-li-sa, ông xuống sông Gio-đan tắm bảy lần và được khỏi. Ông đã biểu
lộ tâm tình tạ ơn Thiên Chúa và nói: “Nay
tôi biết rằng trên khắp mặt đất, không đâu có Thiên Chúa, ngoại trừ ở Ít-ra-en.
Bây giờ, xin ngài vui lòng nhận món quà của tôi tớ ngài đây. Ông Ê-li-sa nói:
Có Đức Chúa hằng sống là Đấng tôi phụng sự, tôi thề sẽ không nhận gì cả. Ông
Na-a-man nài ép ông nhận, nhưng ông vẫn từ chối. Ông Na-a-man nói: Nếu ngài từ
chối, thì xin cho phép tôi tớ ngài đây mang về một số đất vừa sức hai con lừa
chở được, vì tôi tớ ngài sẽ không còn dâng lễ toàn thiêu và hy lễ cho thần nào
khác ngoài Đức Chúa” (2 V 5,15-17). Trong Tân Ước, trước sự cứng lòng của
dân Do-thái, nhất là giới lãnh đạo, Đức Giê-su đã nhắc họ về câu chuyện ông
Na-a-man trong Cựu Ước. Tương tự như vậy, chúng ta cũng nhận ra tâm tình tạ ơn
của viên sĩ quan cận vệ nhà vua khi Đức Giê-su cho con trai của ông được khỏi bệnh
hay tâm tình tạ ơn của người đàn bà Ca-na-an ở vùng đất dân ngoại diễn tả tâm
tình tạ ơn khi Đức Giê-su trục xuất quỷ ra khỏi con gái của bà (Ga 4,46-54; Mt
15,21-28).
Các trình thuật Tân Ước
cho chúng ta thấy hai hình ảnh trái ngược của dân Do-thái: Thông thường, những
người nhận ra tội lỗi của mình diễn tả tâm tình tạ ơn Thiên Chúa, còn những người
cho mình là thánh thiện, công chính thì không. Trình thuật Tin Mừng theo thánh
Lu-ca giúp chúng ta hiểu thêm điều này: Đức Giê-su đến nhà một người thuộc nhóm
Pha-ri-sêu (tên là Si-môn) dùng bữa. Một người phụ nữ tội lỗi trong thành đã đến
nhà này. Chị khóc lóc, nước mắt tưới ướt chân Đức Giê-su và chị lấy tóc mình mà
lau rồi hôn chân Người cũng như đổ dầu thơm lên đó. Người Pha-ri-sêu nghĩ bụng:
“Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn
phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là thứ người nào: Một người tội
lỗi!” (Lc 7,39). Đức Giê-su biết vậy liền nói với người Pha-ri-sêu về một
chủ nợ có hai con nợ, một người nợ ít, một người nợ nhiều và chủ nợ tha cho cả
hai. Đức Giê-su hỏi người Pha-ri-sêu: Ai sẽ yêu mến chủ hơn? Ông trả lời: Người
được tha nhiều hơn (Lc 7,40-43). Sau khi giải thích thêm cho người Pha-ri-sêu,
Đức Giê-su nói với người phụ nữ: “Lòng
tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an” (Lc 7,50). Quả thực, người phụ
nữ tội lỗi nhưng nhận ra Đức Giê-su đang thực thi quyền năng và tình yêu của
Thiên Chúa cũng như diễn tả niềm tin tưởng và tâm tình tạ ơn Người, còn người
Pha-ri-sêu thì không. Rõ ràng cách cư xử của Đức Giê-su đối với người phụ nữ tội
lỗi khác với cách cư xử của người Pha-ri-sêu hay các tầng lớp người khác trong
xã hội Do-thái.
Khi công bố và triển
khai bài giảng Tám Mối Phúc, Đức Giê-su nói: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù.
Còn Thầy, Thầy bảo anh em: Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi
anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên
trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt,
và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5,43-45)
hay “Anh em hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và
cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả. Như vậy, phần thưởng dành cho anh em
sẽ lớn lao, và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao, vì Người vẫn nhân hậu với cả phường
vô ân và quân độc ác” (Lc 6,35). Đức Giê-su mời gọi các môn đệ hãy tỏ lòng
nhân hậu với những người vô ơn, tiếp tục sống tốt với những người vô ơn, làm ơn
cho những người vô ơn với mục đích giúp họ hoán cải, biến họ thành những người
biết sống trong tâm tình tạ ơn. Nói cách khác, Đức Giê-su mời gọi các môn đệ lấy
tâm tình tạ ơn để cảm hóa những người vô ơn, lấy tình yêu để đáp trả hận thù, lấy
điều tốt để che lấp điều xấu. Sau này, chính thánh Phao-lô cũng căn dặn các tín
hữu thực thi như vậy, chẳng hạn, thánh nhân viết: “Đừng để cho sự ác thắng được mình, nhưng hãy lấy thiện mà thắng ác” (Rm
12,21).
Trong bối cảnh Kinh
Thánh, bất cứ hình thức cầu nguyện nào cũng mang nghĩa tạ ơn. Khi các môn đệ
xin Đức Giê-su chỉ bày cách thức cầu nguyện, Người đã dạy họ Kinh Lạy Cha. Mặc
dù từ ‘tạ ơn’, ‘cảm ơn’ hay ‘biết ơn’ không xuất hiện trong kinh này, chúng ta
vẫn thấy toát lên tâm tình tạ ơn khi Đức Giê-su dạy các môn đệ cầu nguyện. Kinh
này không bắt đầu với việc ‘xin’, nhưng bắt đầu với việc hướng về Thiên Chúa và
cho Thiên Chúa, đó chính là tâm tình tôn vinh hay tạ ơn Thiên Chúa: “Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời,
xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển, triều đại Cha mau đến, ý Cha thể hiện dưới
đất cũng như trên trời” (Mt 6,9-10). Như vậy, Kinh Lạy Cha không bắt đầu với
‘tâm tình sở hữu’, tâm tình muốn có những điều tốt lành hầu thỏa mãn cái tôi của
mình nhưng bắt đầu với tâm tình của người con thảo ý thức về Thiên Chúa là Cha,
Đấng đáng mọi lời tôn vinh, chúc tụng, tạ ơn. Phần sau của Kinh Lạy Cha là việc
bày tỏ những nhu cầu thiết yếu của bản thân cũng như cầu xin Thiên Chúa tha thứ
tội lỗi. Kinh Lạy Cha trở thành kinh nguyện tiêu biểu cho các Ki-tô hữu luôn
mãi với ưu tiên là tâm tình tạ ơn hướng về Thiên Chúa trước khi hướng về nhu cầu
của bản thân mình.
Trong hành trình loan
báo Tin Mừng, Đức Giê-su đã thực hiện nhiều phép lạ hay dấu lạ để minh chứng
cho mọi người biết rằng Người từ Thiên Chúa mà đến và thực thi những công việc
của Thiên Chúa. Đồng thời, sự hiện diện của Người là sự hiện diện của Nước
Thiên Chúa (Lc 11,20; Ga 5,18; Ga 6,41-42). Thông thường, các thính giả của Đức
Giê-su gồm ba nhóm: (1) Những người với tâm hồn chai cứng không tin tưởng Đức
Giê-su, thậm chí còn lên án Người. Chẳng hạn, thánh Mát-thêu trình thuật rằng
khi Đức Giê-su xua đuổi quỷ câm ra khỏi nạn nhân thì những người Pha-ri-sêu nói:
“Ông này trừ được quỷ chỉ là nhờ dựa thế
quỷ vương Bê-en-dê-bun” (Mt 12,24); (2) những người không bao giờ thỏa mãn
với những phép lạ hay dấu lạ mà Đức Giê-su thực hiện. Chẳng hạn, thánh Lu-ca
trình thuật rằng: “Khi đám đông tụ họp
đông đảo, Đức Giê-su bắt đầu nói: Thế hệ này là một thế hệ gian ác; chúng xin dấu
lạ. Nhưng chúng sẽ không được thấy dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Giô-na. Quả thật,
ông Giô-na đã là một dấu lạ cho dân thành Ni-ni-vê thế nào, thì Con Người cũng
sẽ là một dấu lạ cho thế hệ này như vậy” (Lc 11,29-30). (3) Những người tin
tưởng và tạ ơn Đức Giê-su qua các phép lạ hay dấu lạ Người thực hiện. Chẳng hạn,
thánh Gio-an trình thuật rằng sau khi Đức Giê-su làm cho nước trở thành rượu tại
tiệc cưới Ca-na thì các môn đệ đã tin vào Người hay người mù từ lúc mới sinh tạ
ơn Đức Giê-su và trở thành người loan báo Tin Mừng (Ga 2,1-11; Ga 9,1-41).
Theo trình thuật của
thánh Gio-an, khi nghe tin La-da-rô lâm bệnh nặng, Đức Giê-su còn lưu lại hai
ngày tại nơi đang ở. Sau đó, Người cho các môn đệ biết rằng La-da-rô đã chết và
Người đến thăm gia đình La-da-rô. Khi tới nơi, cô chị là Mác-ta nói với Đức
Giê-su: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em
con đã không chết” (Ga 11,21). Đức Giê-su nói với Mác-ta: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống.
Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ
không bao giờ phải chết. Chị có tin thế không?” (Ga 11,25-26). Cô Mác-ta
thưa với Đức Giê-su rằng cô tin như vậy. Trước sự chứng kiến của chị em Mác-ta
và Ma-ri-a cũng như nhiều người khác, Đức Giê-su ngước mắt cầu nguyện cùng Chúa
Cha: "Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì
Cha đã nhậm lời con. Phần con, con biết Cha hằng nhậm lời con, nhưng vì dân
chúng đứng quanh đây, nên con đã nói để họ tin là Cha đã sai con. Nói xong, Người
kêu lớn tiếng: Anh La-da-rô, hãy ra khỏi mồ! Người chết liền ra, chân tay còn
quấn vải, và mặt còn phủ khăn. Đức Giê-su bảo: Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi
để anh ấy đi” (Ga 11,41-44). Lời tạ ơn của Đức Giê-su đối với Chúa Cha cho
chúng ta biết ba điều quan trọng (1) Đức Giê-su không đơn độc trong hành trình
trần thế bởi vì Người luôn hiệp thông với Chúa Cha, (2) quyền năng Đức Giê-su thực
hiện là quyền năng từ trời chứ không phải từ bất cứ thế lực nào khác thuộc thế
giới thụ tạo và (3) quyền năng Đức Giê-su thực hiện nhằm gia tăng niềm tin cho
các tín hữu. Thông thường, trong thinh lặng, Đức Giê-su cầu nguyện cùng Chúa
Cha nhưng ở đây Người đã cầu nguyện công khai để cho mọi người nhận biết tỏ tường
hơn về tình yêu Thiên Chúa đối với nhân loại qua sự hiện diện và hoạt động của
Người.
Các tác giả Tin Mừng Nhất
Lãm đều trình thuật việc Đức Giê-su hóa bánh và cá ra nhiều cho hơn năm ngàn
người ăn từ năm chiếc bánh và hai con cá (Mt 14,19-21; Mc 6,41-43; Lc 9,16-17).
Theo thánh Mác-cô: “Người cầm lấy năm chiếc
bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ bánh ra,
trao cho môn đệ để các ông dọn ra cho dân chúng. Người cũng chia hai con cá cho
mọi người. Ai nấy đều ăn và được no nê. Người ta thu lại những mẩu bánh được mười
hai thúng đầy, cùng với cá còn dư” (Mc 6,41-43). Chúng ta cũng gặp trình
thuật tương tự trong Tin Mừng Đức Giê-su theo thánh Gio-an: “Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi
phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ, Người cũng phân phát như vậy, ai muốn
ăn bao nhiêu tuỳ ý. Khi họ đã no nê rồi, Người bảo các môn đệ: Anh em thu lại
những miếng thừa kẻo phí đi. Họ liền đi thu những miếng thừa của năm chiếc bánh
lúa mạch người ta ăn còn lại, và chất đầy được mười hai thúng” (Ga
6,11-13). Ở đây, Đức Giê-su tạ ơn trong việc hóa bánh ra nhiều để nuôi sống thể
xác con người. Noi gương Đức Giê-su, các môn đệ của Người cũng làm như vậy,
nghĩa là diễn tả tâm tình tạ ơn trước bữa ăn vì Thiên Chúa ban lương thực hằng
ngày. Chẳng hạn, sau vụ đắm tàu, thánh Phao-lô nói với mọi người: “Cho đến hôm nay là mười bốn ngày, các bạn
nhịn đói chờ đợi, không ăn gì cả. Vậy tôi khuyên các bạn nên ăn uống, vì có thế
các bạn mới được cứu. Không ai trong các bạn sẽ mất một sợi tóc trên đầu. Nói
thế rồi, ông cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn Thiên Chúa trước mặt mọi người, bẻ ra
và bắt đầu ăn. Mọi người lấy lại được can đảm và họ cũng ăn uống” (Cv 27,33-36).
Thánh Phao-lô viết thư cho Ti-mô-thê: “Tất
cả những gì Thiên Chúa tạo dựng đều tốt, và không có gì phải loại bỏ, nếu biết
dùng trong tâm tình tri ân cảm tạ, vì lời Thiên Chúa và lời cầu nguyện thánh hóa
những thứ đó” (1 Tm 4,4-5).
Các phép lạ hay dấu lạ
mà Đức Giê-su thực hiện để nuôi dưỡng thể xác con người hầu báo trước việc Người
thiết lập Bí Tích Thánh Thể nhằm nuôi sống tâm hồn mọi người. Các tác giả Tin Mừng
Nhất Lãm đều trình thuật việc Đức Giê-su thiết lập Bí Tích Thánh Thể (Mt
26,26-29; Mc 14,22-25; Lc 22,19-20). Chẳng hạn, thánh Lu-ca trình thuật: “Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ
ra, trao cho các ông và nói: Đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy
làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy. Và tới tuần rượu cuối bữa ăn, Người cũng
làm như vậy và nói: Chén này là Giao Ước Mới, lập bằng Máu Thầy, Máu đổ ra vì
anh em” (Lc 22,19-20). Theo trình thuật của các tác giả Tin Mừng Nhất Lãm,
tâm tình tạ ơn của Đức Giê-su trong việc thiết lập Bí Tích Thánh Thể liên quan
đến ‘máu’, ‘giao ước’, ‘hiến tế’, ‘tha tội’. Thánh Phao-lô truyền lại việc Đức
Giê-su thiết lập Bí Tích Thánh Thể cách tỏ tường hơn: “Điều tôi đã lãnh nhận từ nơi Chúa, tôi xin truyền lại cho anh em:
Trong đêm bị nộp, Chúa Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, rồi bẻ ra
và nói: Anh em cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em; anh em hãy
làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy. Cũng thế, cuối bữa ăn, Người nâng
chén và nói: Đây là chén Máu Thầy, Máu đổ ra để lập Giao Ước Mới; mỗi khi uống,
anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy” (1 Cr 11,23-25). Trong
các trình thuật này, Đức Giê-su đều dâng lời tạ ơn Thiên Chúa, vì thế, Bí tích
Thánh Thể còn có tên gọi là ‘Lễ tạ ơn/ Eucharist’ (GLGHCG 1328). Quả thực, đây
là hình thực tạ ơn Thiên Chúa cách hoàn hảo và đặc biệt nhất bởi vì Đức Giê-su cầm
bánh và nói ‘đây là Mình Thầy’; Người cũng cầm chén rượu và nói ‘đây là Máu Thầy’.
Hình thức tạ ơn này không còn theo nghĩa thông thường nữa mà là nghĩa siêu
nhiên, nghĩa nhiệm mầu, nghĩa bí tích. Bởi vì, nhờ lời của Đức Giê-su, bánh và
rượu, sản phẩm của hoa màu ruộng đất và công lao của con người, đã trở thành
Mình và Máu thánh Người hầu nuôi dưỡng tâm hồn các tín hữu trong hành trình trần
thế. Vâng theo lệnh truyền của Đức Giê-su ‘anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ
đến Thầy’, trong Giáo Hội sơ khai, các môn đệ đã thực thi như vậy. Chẳng hạn, tác
giả sách Tông Đồ Công Vụ viết: “Các tín hữu
chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng
năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng” (Cv 2,42). Qua muôn thế
hệ, Giáo Hội, Thân Thể Mầu Nhiệm Đức Ki-tô, vẫn tiếp tục cử hành Bí Tích Thánh
Thể để diễn tả căn tính, đời sống và sứ mệnh của mình bởi vì ở đâu Bí Tích
Thánh Thể được cử hành thì ở đó có Giáo Hội.
Trong Cựu Ước, tác giả
Thánh Vịnh 116 viết: “Biết lấy chi đền
đáp Chúa bây giờ vì mọi ơn lành Người đã ban cho? Tôi xin nâng chén mừng
ơn cứu độ và kêu cầu thánh danh Đức Chúa” (Tv 116,12-13). Cảm thức của
tác giả Thánh Vịnh trở thành hiện thực nơi Đức Giê-su khi Người thiết lập Bí
Tích Thánh Thể. Ơn lành của Thiên Chúa làm sao con người có thể đền đáp cho cân
xứng bởi vì con người bất xứng, tội lỗi, xấu xa. Đó là lý do tại sao Đức Giê-su
là Ân Sủng của Thiên Chúa đã hiện diện trong gia đình nhân loại. Người là Ân Sủng Bất Thụ Tạo (Gratia Increata/ Uncreated Grace/ Grâce Incrée), là Nguồn ân sủng và là Đấng ban ân sủng đã trở
nên người phàm để tạ ơn Thiên Chúa thay cho con người. Như đề cập ở trên, từ εὐχαριστία
bao gồm ‘εὐ’ có nghĩa là tốt (good) và ‘χάρις’ vừa có nghĩa là ân sủng (grace)
vừa có nghĩa là tạ ơn (gratitude). Khi con người rước Mình và Máu Đức Giê-su là
rước lấy chính Đức Giê-su là Ân Sủng (Χάρις) và cùng với Đức Giê-su tạ ơn Thiên
Chúa. Trong Bí Tích Thánh Thể, các tín hữu ‘ăn’ Đức Giê-su là Thiên Chúa thật
và là con người thật. Đây là hình thức ăn huyền diệu, vượt trên mọi hiểu biết
hay lý giải của con người qua mọi thời đại. Vì Nguyên Tổ ăn trái cấm, tội lỗi
đã xâm nhập trần gian và làm cho mọi người phải chết. Nhờ ‘ăn’ Đức Giê-su trong
Bí Tích Thánh Thể, các tín hữu được thông hiệp sự sống vĩnh cửu ngay trong hành
trình trần thế này. Nói cách khác, ‘của ăn vô ơn’ với hình ảnh trái cây biết điều
thiện điều ác mà Nguyên Tổ nhân loại đã ăn và hậu quả là mọi người phải chết đã
được thay thế bằng ‘Của Ăn Tạ Ơn’ là Mình và Máu Đức Giê-su dưới hình bánh rượu
là của ăn đem lại sự sống đời đời. Như vậy, trong chương trình tái tạo của
Thiên Chúa, con người được mời gọi ‘ăn Đức Giê-su’ để được sống muôn đời như lời
Người dạy: “Thật, tôi bảo thật các ông: Nếu
các ông không ăn thịt và uống Máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình.
Ai ăn thịt và uống Máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống
lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và Máu tôi thật là của uống.
Ai ăn thịt và uống Máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy”
(Ga 6,53-56). Giáo huấn này của Đức Giê-su cho chúng ta biết Người không chỉ nhập
thế, sống thân phận con người, chịu muôn hình thức đau khổ, chịu chết trên thập
giá và phục sinh vinh hiển để cứu độ muôn người mà còn ở lại với gia đình nhân
loại mọi ngày cho đến tận thế theo nhiều hình thức khác nhau, nhất là trong Bí
Tích Thánh Thể.
Đức Giê-su thiết lập
Bí Tích Thánh Thể trong bối cảnh Lễ Vượt Qua của Người Do-thái. Trở lại với lịch
sử, chúng ta biết rằng Thiên Chúa giải phóng dân Do-thái khỏi ách nô lệ của người
Ai-cập và nuôi dưỡng họ bằng man-na trong sa mạc bốn mươi năm trên đường về với
Đất Hứa. Hằng năm, trong tâm tình tạ ơn, dân Do-thái vẫn tưởng niệm biến cố vĩ
đại này. Lễ Vượt Qua của người Do-thái là hình ảnh hướng tới Lễ Vượt Qua mà Đức
Giê-su thực hiện để dẫn đưa mọi người về với Đất Hứa là Nước Thiên Chúa. Trong
hành trình này, mọi người được mời gọi rước lấy Mình và Máu của Người cho đời sống
tâm hồn mình. Khi Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng ‘hãy làm việc này mà nhớ đến
thầy’, Người muốn các môn đệ tiếp tục hiện tại hóa Hiến Tế Tạ Ơn mà Người đã thực
hiện nhân danh toàn thể gia đình nhân loại. Hiến Tế được Đức Giê-su thực hiện một
lần cho tất cả và được hiện tại hóa trong đời sống Giáo Hội mọi ngày cho đến tận
thế.
Các trình thuật Kinh
Thánh cho chúng ta biết rằng trong bối cảnh Lễ Vượt Qua của người Do-thái, tâm
tình tạ ơn của Đức Giê-su đạt tới đỉnh điểm khi Người chịu chết trên cây thập
giá với trái tim bị đâm thủng, máu cùng nước chảy ra. Sự kiện này trùng với thời
gian mà dân Do-thái sát tế chiên để lấy máu rảy lên bàn thờ của Đền Thờ
Giê-ru-sa-lem trong Lễ Vượt Qua. Nhờ Đức Giê-su, cây trái cấm, cây kiêu ngạo,
cây vô ơn đã được thay thế bằng cây thập giá, cây khiêm hạ, cây tạ ơn hầu đem lại
sự sống vĩnh cửu cho mọi người. Trong tâm tình tạ ơn, thánh Phao-lô viết: “Hỡi tử thần, đâu là chiến thắng của ngươi?
Hỡi tử thần, đâu là nọc độc của ngươi? Tử thần có độc là vì tội lỗi, mà tội lỗi
có mạnh cũng tại có Lề Luật. Nhưng tạ ơn Thiên Chúa, vì Người đã cho chúng ta
chiến thắng nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta” (1 Cr 15,55-57). Quả thực,
Đức Giê-su đã chịu nhiều đau khổ, chịu chết để biểu lộ tâm tình tạ ơn Thiên
Chúa nhân danh mọi người. Nhờ Đức Giê-su đến với nhân loại trong tâm tình tạ
ơn, nhân loại được cứu độ, được thứ tha tội lỗi. Đặc biệt, nhờ Đức Giê-su phục
sinh, nhân loại có được chiếc cầu bắc qua thung lũng sự chết để đến với sự sống
trong Nước Thiên Chúa. Tâm tình tạ ơn của Đức Giê-su trên thập giá diễn tả tình
yêu cao cả nhất mà Người dạy các môn đệ khi thiết lập Bí Tích Thánh Thể (Ga
13,34; Ga 15,13-15).
Tác giả thư gửi tín hữu
Do-thái cho chúng ta biết rằng qua dòng lịch sử, dân Do-thái không ngừng giết
chiên bò để dâng lễ tạ ơn Thiên Chúa: “Năm
này qua năm khác, chính những hy lễ đó nhắc cho người ta nhớ mình có tội. Thật
thế, máu các con bò, con dê không thể nào xóa được tội lỗi. Vì vậy, khi vào trần
gian, Đức Ki-tô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một
thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới
thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh
đã chép về con” (Dt 10,3-7). Cũng theo tác giả thư gửi tín hữu Do-thái: “Chúng ta được thánh hóa nhờ Đức Giê-su Ki-tô
đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ” (Dt 10,10). Hiến tế tạ
ơn mà Đức Giê-su dâng lên Thiên Chúa diễn ra một lần trong dòng lịch sử nhưng
hiệu quả của hiến tế này đem lại ơn cứu độ cho mọi người trong mọi thời và khắp
mọi nơi. Hiến tế này tiếp tục được hiện tại hóa trong đời sống Giáo Hội khi Bí
Tích Thánh Thể được cử hành. Đây là bí tích bao gồm cả ‘ba thì’ (quá khứ, hiện
tại và tương lai) của hiến tế duy nhất mà Đức Giê-su đã biểu lộ. Do đó, lời của
Đức Giê-su ‘hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy’ không chỉ mời gọi mọi người nhớ về
hiến tế Người đã dâng tiến mà còn hiện tại hóa hiến tế này, đồng thời, hướng
tâm hồn mọi người về sự kiện toàn viên mãn của hiến tế này trong thời cánh
chung.
Hơn ai hết, thánh
Phao-lô là người có kinh nghiệm sâu xa về Đức Giê-su là Lời tạ ơn liên lỉ dâng
lên Thiên Chúa nhân danh mọi người. Các thư của thánh nhân cho chúng ta biết rằng
từ khi gặp gỡ Đức Giê-su phục sinh trên đường Đa-mát, thánh nhân không ngừng tạ
ơn Thiên Chúa, tạ ơn Đức Giê-su và mời gọi mọi người sống tâm tình tạ ơn (Rm
14,6; Ep 1,16; 2 Tx 1,3). Trong thư gửi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, thánh nhân viết:
“Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em
hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Ki-tô Giê-su” (1 Tx
5,18). Thánh nhân còn chỉ dạy cách cụ thể hơn: “Hãy cùng nhau đối đáp những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca do
Thần Khí linh hứng; hãy đem cả tâm hồn mà ca hát chúc tụng Chúa. Trong mọi hoàn
cảnh và mọi sự, hãy nhân danh Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, mà cảm tạ Thiên
Chúa là Cha” (Ep 5,19-20). Sở dĩ thánh Phao-lô tạ ơn Thiên Chúa trong mọi
hoàn cảnh là vì ngài cảm nhận được tình yêu huyền diệu của Thiên Chúa được biểu
lộ nơi Đức Giê-su (Rm 8,38-39). Thánh nhân viết cho các tín hữu Cô-lô-xê: “Ước chi lời Đức Ki-tô ngự giữa anh em thật
dồi dào phong phú. Anh em hãy dạy dỗ khuyên bảo nhau với tất cả sự khôn ngoan.
Để tỏ lòng biết ơn, anh em hãy đem cả tâm hồn mà hát dâng Thiên Chúa những bài
thánh vịnh, thánh thi và thánh ca, do Thần Khí linh hứng” (Cl 3,16). Thánh nhân
không chỉ mời gọi mọi người tạ ơn Thiên Chúa mà còn trở nên mẫu gương trong việc
tạ ơn anh chị em mình nữa. Chẳng hạn, trong thư gửi tín hữu Rô-ma, thánh nhân
viết: “Tôi xin gửi lời thăm chị Pơ-rít-ca
và anh A-qui-la, những người cộng tác với tôi để phục vụ Đức Ki-tô Giê-su; hai
anh chị đã liều mất đầu để cứu mạng tôi. Không chỉ mình tôi, mà còn các Hội
Thánh trong dân ngoại cũng phải mang ơn anh chị” (Rm 16,3-4).
Dưới nhãn quan của
thánh Phao-lô, ân sủng (χάρις/ grace) của Thiên Chúa và tâm tình tạ ơn (εὐχαριστία/
gratitude) của con người liên quan chặt chẽ với nhau. Tuy nhiên, ân sủng của
Thiên Chúa luôn đi bước trước. Thánh nhân minh định điểm này khi viết: “Tôi hằng cảm tạ Thiên Chúa của tôi vì anh
em, về ân huệ Người đã ban cho anh em nơi Đức Ki-tô Giê-su. Quả vậy, trong Đức
Ki-tô Giê-su, anh em đã trở nên phong phú về mọi phương diện, phong phú vì được
nghe lời Chúa và hiểu biết mầu nhiệm của Người. Thật thế, lời chứng về Đức
Ki-tô đã ăn sâu vững chắc vào lòng trí anh em, khiến anh em không thiếu một ân
huệ nào, trong lúc mong đợi ngày Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, mặc khải vinh
quang của Người” (1 Cr 1,4-7). Với thánh Phao-lô, gẫm suy về muôn vàn ân sủng
mà Thiên Chúa rộng ban cho bản thân mình cũng là cách thức giúp con người sống
trong tâm tình tạ ơn Người. Quả thực, trong tâm tình tạ ơn, con người nhận thức
rằng Thiên Chúa là nguồn mạch ân sủng và Người thông ban ân sủng cho mọi người.
Dĩ nhiên, người vô ơn thì không thể đón nhận ân sủng cách xứng hợp và không thể
làm cho ân sủng của Thiên Chúa sinh hoa kết trái theo thánh ý Người. Do đó, ân
sủng của Thiên Chúa cần được nhìn nhận, được sống và gia tăng thiện ích. Ai
không nhận ra ân sủng của Thiên Chúa thì cũng không thể diễn tả tâm tình tạ ơn
đối với Người cách xứng hợp.
Trở về với mặc khải
Kinh Thánh, những chương đầu của sách Sáng Thế cho chúng ta biết rằng A-đam và
E-và được Thiên Chúa phú ban những điều kiện cần thiết để sống xứng đáng với phẩm
giá của mình trong bầu khí hòa hợp với muôn vật muôn loài và tâm tình tạ ơn
Thiên Chúa. Tuy nhiên, A-đam và E-và đã sa chước cám dỗ bởi vì đã lắng nghe và
làm theo sự xúi dục của ma quỷ. Quả thực, A-đam và E-và đã vô ơn bội nghĩa, bất
tuân phục mệnh lệnh của Thiên Chúa. Trước câu hỏi ‘Tội Nguyên Tổ là tội gì?’, chúng
ta thường trả lời là tội kiêu ngạo hay bất tuân phục Thiên Chúa. Tuy nhiên,
chúng ta có thể nhận thức rằng nguyên nhân sâu xa mà Nguyên Tổ kiêu ngạo hay bất
tuân phục là vô ơn. Quả thực, nếu Nguyên Tổ sống trong tâm tình tạ ơn Thiên
Chúa thì chắc chắn rằng Nguyên Tổ đã không kiêu ngạo, không bất tuân phục. Kinh
nghiệm cuộc sống cho chúng ta nhận thức rằng người vô ơn cũng là người kiêu ngạo,
người bất tuân phục, người mở đường cho muôn hình thức sự dữ xâm nhập đời sống và
mọi hoạt động của mình.
Mang trong mình ‘dòng
máu A-đam’, con người thường quan tâm đến những gì mình sở hữu, quan tâm đến của
cho hơn là người cho, quan tâm đến ‘ân’ hơn là ‘ân nhân’. Thực ra, con người cần
hướng sự quan tâm về phía Thiên Chúa hơn là về phía những gì mình lãnh nhận,
nghĩa là hướng về ‘người cho’ và ‘cách cho’ hơn là ‘của cho’. Con người tạ ơn
Thiên Chúa vì Người là Đấng sáng tạo, cứu độ và thánh hóa; con người tạ ơn
Thiên Chúa vì bao kỳ công của Người trong thế giới thụ tạo; con người tạ ơn
Thiên Chúa “bởi vì Người công minh chính
trực” (Tv 7,18); con người tạ ơn Thiên Chúa “vì danh Người thiện hảo” (Tv 52,11); con người tạ ơn Thiên Chúa vì
Người là Đấng trung thành và công chính (1 Ga 1,9); con người tạ ơn Thiên Chúa
vì Người là tình yêu (1 Ga 4,8.16). Tắt một lời, con người cần tạ ơn Thiên Chúa
‘vì Thiên Chúa là’ và tạ ơn Thiên Chúa ‘vì Thiên Chúa làm’ trong mọi hoàn cảnh
và ưu tiên là hướng trọn tâm tình về phía Thiên Chúa.
Nội dung đức tin Ki-tô
Giáo cho chúng ta biết rằng, một mặt, con người không bao giờ tạ ơn Thiên Chúa
cách xứng hợp như lời Thánh Vịnh: “Nào có
ai tự chuộc nổi mình và trả được giá thục hồi cho Thiên Chúa?” (Tv 49,8). Mặt
khác, khi con người đón nhận và sống trong ân sủng (χάρις/
grace) thì đã diễn tả tâm tình tạ ơn. Vì thế, các hình thức tạ ơn của con
người thật đa dạng, chẳng hạn: Khi con người ý thức rằng mình bất xứng với ân sủng
của Thiên Chúa cũng là tạ ơn; ngạc nhiên trước sự hài hòa của vũ trụ cũng là tạ
ơn; tán dương Thiên Chúa vì bao việc kỳ diệu người làm cũng là tạ ơn; tin tưởng
vào Thiên Chúa cũng là tạ ơn; hy vọng vào Thiên Chúa cũng là tạ ơn; kể cho người
khác nghe về lòng nhân hậu của Thiên Chúa cũng là tạ ơn; ăn chay hãm mình cũng
là tạ ơn; trở về và hoán cải cũng là tạ ơn; luôn ý thức mình là Ki-tô hữu cũng
là tạ ơn; chịu thương khó vì Thiên Chúa hay vì anh chị em cũng là tạ ơn; bố thí
cho người khác cũng là tạ ơn. Tắt một lời, những tư tưởng, lời nói hay việc làm
diễn tả sự vâng phục, khiêm hạ, yếu đuối của bản thân trước quyền năng và lòng
quảng đại bao dung của Thiên Chúa với tâm hồn hướng về Người, về anh chị em cũng
như muôn vật muôn loài, đều mang nghĩa tạ ơn.
Ngược với tâm tình tạ
ơn là vô ơn. Kinh nghiệm cuộc sống cho chúng ta biết rằng người vô ơn không chỉ
không nhận ra ân sủng của Thiên Chúa mà còn xúc phạm Thiên Chúa là Đấng ban ân
sủng. Trong nhiều trường hợp, người vô ơn vừa xúc phạm Thiên Chúa, vừa xúc phạm
anh chị em mình. Chẳng hạn, chúng ta biết điều đó qua trình thuật của thánh
Mát-thêu trong dụ ngôn người mắc nợ không biết thương xót (Mt 18,21-35). Khi
con người vô ơn cũng là khi con người phạm tội. Dĩ nhiên, mức độ của tội thuộc
về mức độ của sự vô ơn trong những chuyện quan trọng hay bình thường (Thomas
Aquinas, Summa Theologiae IIaIIæ,
Q.107, a.3). Người vô ơn không bao giờ chúc tụng, tán dương, thờ lạy Thiên Chúa
cách xứng hợp. Người vô ơn không chỉ lỗi phạm đức công bình mà còn lỗi phạm các
nhân đức khác nữa, nhất là ba nhân đức đối thần: Đức tin, đức cậy và đức mến. Bởi
vì, người vô ơn tin tưởng vào những gì phù phiếm hơn là tin tưởng vào Thiên Chúa
toàn năng, toàn thiện, toàn mỹ; người vô ơn cậy dựa vào sức mình hay sự trợ
giúp của các thế lực đêm tối hơn là sự trợ giúp của Thiên Chúa hằng sống; người
vô ơn thì không yêu mến Thiên Chúa cũng như không yêu mến anh chị em mình theo
thánh ý Người. Dưới nhãn quan của thánh Tô-ma A-qui-nô, người vô ơn là người
thiếu vắng tình yêu hay lỗi phạm đức mến (Thomas Aquinas, Summa Theologiae IIaIIæ, Q.107, a.1).
Ai không quan tâm nuôi
dưỡng và thực thi tâm tình tạ ơn thì sẽ chiều theo những thói quen hoặc khuynh
hướng xấu và hậu quả là xa rời Thiên Chúa, tự hủy hoại bản thân cũng như gây
đau khổ cho anh chị em đồng loại. Do đó, con người cần phải thanh luyện bản
thân sao cho tâm tình tạ ơn luôn quán xuyến đời mình. Con người cần biết hướng
nhìn lên Thiên Chúa, kết hiệp mật thiết với Người và cộng tác với Người hầu làm
cho tâm tình tạ ơn luôn hiện diện và hoạt động cách hiệu quả nhất. Tác giả sách
Châm Ngôn viết: “Tâm trí hân hoan [tạ ơn]
làm thân xác lành mạnh, tinh thần suy sụp khiến xương cốt rã rời” (Cn 17,22).
Như vậy, tâm tình tạ ơn không chỉ dưỡng nuôi, xây dựng tinh thần hay đời sống luân
lý, đạo đức mà còn là trợ lực căn bản giúp con người phát triển toàn diện. Đặc
biệt, tâm tình tạ ơn của các cá nhân có ảnh hưởng lớn lao đến các hình thức cộng
đoàn mà các cá nhân tham dự. Khi một gia đình, một cộng đoàn mà các thành phần
trong đó là những người ý thức xây dựng tâm tình tạ ơn thì gia đình hay cộng
đoàn đó được hạnh phúc, đồng thời, các thành phần trong gia đình hay cộng đoàn
đó cũng biết dưỡng nuôi niềm hy vọng chân thành.
Người vô ơn cũng là
người sống trong hy vọng hão huyền. Tác giả sách Khôn Ngoan viết: “Hy vọng của đứa vô ơn bạc nghĩa tan chảy
như sương giá mùa đông, trôi đi như dòng nước vô dụng” (Kn 16,29). Còn tác
giả sách Huấn Ca thì viết: “Ân huệ người
bảo lãnh, kẻ tội lỗi không đếm xỉa gì; người đã cứu mạng mình, đứa vô ơn không
buồn nghĩ tới” (Hc 29,16). Những lời giảng dạy của Đức Giê-su trong Tân Ước
giúp chúng ta có tầm nhìn rộng mở hơn trong việc ‘làm ơn’ cho anh chị em đồng
loại: “Nếu anh em làm ơn cho kẻ làm ơn
cho mình, thì còn gì là ân với nghĩa? Ngay cả người tội lỗi cũng làm như thế. Nếu
anh em cho vay mà hy vọng đòi lại được, thì còn gì là ân với nghĩa? Cả người tội
lỗi cũng cho kẻ tội lỗi vay mượn để được trả lại sòng phẳng. Trái lại, anh em
hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả” (Lc
6,33-35). Quả thực, niềm hy vọng chân thành và tâm tình tạ ơn đích thực đều hướng
về Thiên Chúa. Ai sống trong tâm tình tạ ơn đích thực thì người đó cũng đặt niềm
hy vọng chân thành vào Thiên Chúa và ai đặt niềm hy vọng chân thành vào Thiên
Chúa thì người đó cũng sống trong tâm tình tạ ơn đích thực. Người sống trong
tâm tình tạ ơn đích thực và hy vọng chân thành luôn cảm nhận được quyền năng,
tình yêu và sự thiện hảo của Thiên Chúa, đồng thời, họ cũng cảm nhận được biết
bao ân sủng hay quà tặng mà Thiên Chúa thông ban cho mình.
Người ta thường nói đến
các hình thức quyền lực trong thế giới thụ tạo. Tuy nhiên, quyền lực của tâm
tình tạ ơn thật là mạnh mẽ. Quyền lực này giúp con người có thể vượt qua những
giới hạn của bản thân để kết hiệp với Thiên Chúa, với anh chị em và với muôn vật
muôn loài trong thế giới thụ tạo. Quyền lực tâm tình tạ ơn giúp con người biết
trút bỏ những lợi lộc thấp hèn hầu có thể hướng đến những giá trị cao thượng.
Quyền lực của tâm tình tạ ơn giúp con người thoát khỏi nanh vuốt của kiêu ngạo
để biết sống đời tự hạ trước mặt Thiên Chúa và anh chị em mình. Tâm tình tạ ơn
tạo cho con người khả năng đón nhận, sống và chuyển tải năng lượng tích cực cho
anh chị em đồng loại. Đôi khi, người diễn tả tâm tình tạ ơn bị người khác cho là
yếu thế nhưng thực tế không phải như vậy, bởi vì tâm tình tạ ơn là nguồn lực
giúp con người vượt qua chính mình để có thể đối diện với muôn vàn khó khăn,
gian khổ. Do đó, khi tâm tình tạ ơn trở thành đặc tính căn bản, trở thành tiêu
chuẩn, trở thành lối sống cũng là khi con người có khả năng thiết lập các tương
quan lành mạnh giúp bản thân được hạnh phúc, gia đình được an bình và xã hội được
phồn thịnh.
Địa chỉ của tâm tình tạ
ơn là cõi thâm sâu nhất của thực thể có tên gọi là ‘con người’. Ai không có
kinh nghiệm về tâm tình tạ ơn thì cũng không thể thiết lập các tương quan thích
hợp với các thực thể khác. Như đề cập ở trên, tâm tình tạ ơn cho phép con người
thiết lập tương quan mật thiết với Thiên Chúa, với tha nhân và với muôn vật
muôn loài trong thế giới thụ tạo. Con người không thể trở nên nghĩa thiết với
Thiên Chúa nếu thiếu vắng tâm tình tạ ơn khởi đi từ trái tim mình. Thánh
Phao-lô viết: “Để tỏ lòng biết ơn, anh em
hãy đem cả tâm hồn mà hát dâng Thiên Chúa những bài thánh vịnh, thánh thi và
thánh ca, do Thần Khí linh hứng. Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói
nhân danh Chúa Giê-su và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha” (Cl 3,16-17). Khi
trái tim vắng bóng tâm tình tạ ơn cũng là khi trái tim chứa đầy những gì là nhỏ
nhen, ích kỷ, hận thù và người mang trái tim như thế cũng là người hay oán trời
trách đất, oán thân trách phận và thường xuyên gắt gỏng, kêu ca, phàn nàn với
người khác.
Trong mọi hoàn cảnh,
tâm tình tạ ơn của con người chỉ có thể diễn tả cách đúng đắn và phù hợp khi
thông hiệp với tâm tình tạ ơn của Đức Giê-su bởi vì ‘chính nhờ Người, với Người
và trong Người’ mà con người mới có thể đến với Chúa Cha. Quả thực, trong hành
trình trần thế, Đức Giê-su cho mọi người biết rằng người luôn kết hiệp mật thiết
với Chúa Cha. Chẳng hạn, trong dịp lễ Cung Hiến Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, Đức
Giê-su nói với những người Do-thái: “Tôi
và Chúa Cha là một” (Ga 10,30) hay: “Nếu
tôi không làm các việc của Cha tôi, thì các ông đừng tin tôi. Còn nếu tôi làm
các việc đó, thì dù các ông không tin tôi, ít ra cũng hãy tin các việc đó. Như
vậy, các ông sẽ biết và ngày càng biết thêm rằng: Chúa Cha ở trong tôi và tôi ở
trong Chúa Cha” (Ga 10,37-38). Trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Đức Giê-su
nói với các môn đệ thân tín: “Ai ở lại
trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì
không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Như vậy, với tâm tình tạ
ơn, con người được liên kết, hiệp nhất, nên một với Đức Giê-su và nhờ đó, được
liên kết, hiệp nhất, nên một với Chúa Cha ngay trong hành trình trần thế này
(Ga 17,25). Tâm tình tạ ơn sẽ ngày
càng lớn lên khi con người biết gắn bó với Đức Giê-su là Lời tạ ơn và noi gương
Người sống tinh thần vâng phục, khiêm hạ, trút bỏ giữa thế giới đầy cám dỗ,
thách đố cũng như muôn vàn hình thức bất hòa hợp.
Trong Bữa Ăn Cuối
Cùng, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng Người là Đường (Ga 14,6). Câu hỏi đặt
ra: ‘Đường của Đức Giê-su là Đường gì vậy?’ Thưa, đó là Đường Tạ Ơn. Nhân danh
nhân loại, Đức Giê-su đã đi ngược lại đường của A-đam đã đi. Đường của A-đam là
đường vô ơn, đường làm cho con người xa rời chính mình, xa rời Thiên Chúa, xa rời
anh chị em đồng loại, xa rời muôn vật muôn loài. Như đề cập ở trên, Đức Giê-su
luôn diễn tả tâm tình tạ ơn Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời Người
và dạy mọi người sống trong tâm tình tạ ơn. Cao điểm của tâm tình tạ ơn mà Đức
Giê-su biểu lộ là Biến Cố Vượt Qua. Người đã chịu nhiều đau khổ, chịu chết và phục
sinh vinh hiển hầu giải thoát mọi người khỏi cảnh nô lệ tội lỗi và sự chết. Đường
Tạ Ơn là Đường để cho ân sủng (χάρις/ grace) đến với con người và cũng là Đường
dẫn con người tới sự thật và sự sống vĩnh cửu bởi vì Đường này giúp con người
hòa giải với Thiên Chúa và với nhau. Hơn nữa, nhờ Đức Giê-su là Đường Tạ Ơn,
không chỉ con người được biến đổi mà muôn vật muôn loài cũng được biến đổi cho
đến khi Thiên Chúa quy tụ tất cả trong Đức Giê-su (Ep 1,9-10). Với Đức Giê-su
là Đường Tạ Ơn, mọi người mới có thể nhận thức rằng mình cần biết chấp nhận, biết
khiêm tốn, biết trút bỏ, biết hướng về Thiên Chúa cách chân thành và nhìn nhận
rằng bất cứ hình thức vô ơn nào cũng đều làm cho phẩm giá của mình thương tổn.
Lịch sử Giáo Hội cho
chúng ta nhận thức rằng ai đi Đường Tạ Ơn của Đức Giê-su thì cũng biết quan tâm
xây dựng các đức tính nhân bản quan trọng (khôn ngoan, công bình, can đảm, tiết
độ) cũng như các nhân đức đối thần (đức tin, đức cậy, đức mến). Ai đi Đường Tạ
Ơn của Đức Giê-su thì cũng biết ngạc nhiên trước bao kỳ công của Thiên Chúa
trong hoàn vũ; ai đi Đường Tạ Ơn của Đức Giê-su thì cũng ý thức rằng mình là
người yếu đuối, khiếm khuyết, tội lỗi; ai đi Đường Tạ Ơn của Đức Giê-su thì
cũng luôn cảm nhận được tình thương và lòng nhân hậu của Thiên Chúa đối với bản
thân mình; ai đi Đường Tạ Ơn của Đức Giê-su thì cũng dễ dàng nhận ra những dấu
chỉ của Thiên Chúa trong cuộc sống, đọc được những dấu chỉ đó và hành động theo
những dấu chỉ đó cách trung tín nhất; ai đi Đường Tạ Ơn của Đức Giê-su thì cũng
không bao giờ cô đơn dù sống một mình; ai đi Đường Tạ Ơn của Đức Giê-su thì
luôn cảm nhận được niềm vui, hạnh phúc và bình an giữa những gian nan khốn khó
của cuộc đời; ai đi Đường Tạ Ơn của Đức Giê-su thì cũng luôn ý thức về sự cần
thiết phải cộng tác với Thiên Chúa trong việc biến đổi bản thân sao cho ngày
càng được công chính, thánh thiện hơn; ai đi Đường Tạ Ơn của Đức Giê-su thì
cũng biết đối xử với mọi người, nhất là những người tội lỗi, nghèo khó, bị loại
trừ, bị bỏ rơi theo cách thức của Người. Tắt một lời, ai đi Đường Tạ Ơn của Đức
Giê-su thì cũng thiết lập được mối tương quan liên vị với Người, với tha nhân
và ý thức hơn về việc chăm sóc, bảo vệ môi trường thiên nhiên mà Thiên Chúa ban
tặng.
Vì sự vô ơn của Nguyên
Tổ, ‘nền văn hóa vô ơn’ đã xâm nhập trần gian. Mọi người trong gia đình nhân loại
đều bị chi phối bởi nền văn hóa này. Do vậy, ai cũng có kinh nghiệm về sự vô ơn
và hậu quả tai hại của sự vô ơn trong đời sống trên bình diện cá nhân cũng như
tập thể. Bao lâu nền văn hóa tạ ơn chưa bao trùm gia đình nhân loại thì bấy lâu
hận thù, chia rẽ, chiến tranh cũng như nhiều hình thức đau khổ mà con người gây
nên vẫn còn tiếp diễn. Nhờ Đức Giê-su là Đường Tạ Ơn, nền văn hóa tạ ơn được thiết
lập hầu đem lại bình an và hạnh phúc đích thực cho mọi người trong hành trình
trần thế. Nền văn hóa tạ ơn được xây dựng dựa trên những giá trị của Nước Thiên
Chúa mà Đức Giê-su đã loan báo và làm chứng bằng đời sống, cái chết và sự phục
sinh của Người. Sống trong nền văn hóa tạ ơn mà Đức Giê-su thiết lập, mọi người
biết tôn trọng sự thật, ý thức hơn về tình yêu, tình liên đới và sẻ chia giữa
người với người. Khi tâm tình tạ ơn trở thành văn hóa cũng là khi mọi người
luôn được vui mừng, hoan hỷ cho dù phải đối diện với nhiều thử thách trong thế
giới thụ tạo vốn bị méo mó, biến dạng bởi Tội Nguyên Tổ và hậu quả của Tội này.
Đức Giê-su là Đường Tạ
Ơn và Tin Mừng của Người là Tin Mừng Tạ Ơn. Do đó, các môn đệ của Người luôn được
mời gọi loan báo Đường Tạ Ơn của Đức Giê-su cho anh chị em đồng loại. Các trình
thuật Tin Mừng cho chúng ta biết rằng những ai đón nhận Đức Giê-su, những ai ngạc
nhiên trước giáo huấn của Đức Giê-su, những ai đọc được những dấu chỉ mà Đức
Giê-su thực hiện và áp dụng vào đời sống mình đều trở thành những người loan
báo Tin Mừng của Người cách hiệu quả. Trong thư gửi cho Ti-mô-thê, thánh
Phao-lô viết: “Tôi tạ ơn Đức Ki-tô
Giê-su, Chúa chúng ta, Đấng đã ban sức mạnh cho tôi, vì Người đã tín nhiệm mà gọi
tôi đến phục vụ Người” (1 Tm 1,12). Hành trình trần thế của thánh Phao-lô sau
khi gặp gỡ Đức Giê-su phục sinh cũng là hành trình phục vụ Đức Giê-su, phục vụ Tin
Mừng của Người. Trong thư gửi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, thánh nhân viết: “Chúng tôi không ngừng tạ ơn Thiên Chúa, vì
khi chúng tôi nói cho anh em nghe lời Thiên Chúa, anh em đã đón nhận, không phải
như lời người phàm, nhưng như lời Thiên Chúa, đúng theo bản tính của lời ấy. Lời
đó tác động nơi anh em là những tín hữu” (1 Tx 2,13). Giáo huấn của thánh
nhân cho chúng ta biết rằng ai không sống tâm tình tạ ơn theo khuôn mẫu Đức
Giê-su thì cũng không thể loan báo Đức Giê-su và Tin Mừng của Người cách xứng hợp.
Lời của thánh Phao-lô đối với các tín hữu Cô-rin-tô đáng được các Ki-tô hữu
quan tâm để ý: “Tạ ơn Thiên Chúa, Đấng hằng
cho chúng tôi tham dự cuộc khải hoàn trong Đức Ki-tô, tạ ơn Người là Đấng đã
dùng chúng tôi mà làm cho sự nhận biết Đức Ki-tô, như hương thơm, lan tỏa khắp
nơi” (2 Cr 2,14).
Những trình bày trên
đây cho phép chúng ta kết luận rằng vì Nguyên Tổ vô ơn bội nghĩa, bất tuân phục
Thiên Chúa mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian và không ai có thể giải thoát mình
hay người khác khỏi cảnh vô ơn, tội lỗi cũng như sự chết. Tuy nhiên, chương
trình tình yêu của Thiên Chúa vẫn tiếp diễn và cao điểm là sự hiện diện và hoạt
động của Đức Giê-su trong gia đình nhân loại. Với hành trình trần thế, Đức
Giê-su là Lời vĩnh cửu đã trở thành Lời tạ ơn hầu đem lại sự sống viên mãn cho
mọi người. Nói cách khác, con người được về với vĩnh cửu nhờ Đức Giê-su hiện diện
trong thời gian, con người được vinh quang nhờ Đức Giê-su cưu mang đau khổ, con
người được danh dự nhờ Đức Giê-su luôn khiêm tốn, con người được mạnh mẽ nhờ Đức
Giê-su phải yếu đuối, con người được sự sống viên mãn nhờ Đức Giê-su đã chịu chết.
Đường của Đức Giê-su trong hành trình trần thế là Đường Tạ Ơn. Do đó, mọi người
được mời gọi đến với Đường Tạ Ơn, đi theo Đường Tạ Ơn và hành động theo Đường Tạ
Ơn trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống mình. Ước gì điệp khúc ‘hãy tạ ơn Chúa, vì Chúa nhân từ: Muôn ngàn đời
Chúa vẫn trọn tình thương’ (1 Sb 16,34; Tv 106,1; Tv 118,1; Tv 136,1; Gr
33,11) luôn vang vọng trong cõi lòng chúng ta như khúc tâm ca trên Đường Tạ Ơn
mà chúng ta đang tiến bước.