ĐỨC GIÊ-SU
KI-TÔ – ĐƯỜNG KHÔN NGOAN
Gm. Phêrô Nguyễn Văn Viên
WHĐ (02.8.2022) – Trong tiếng Do-thái, חָכְמָה
(hokmah/ wisdom) có nghĩa là khôn ngoan. Từ tương đương với חָכְמָה của tiếng
Do-thái trong tiếng Hy-lạp là σοφία (sophía/ sapientia/ wisdom). Đối với dân Do-thái, ba nhóm người sau đây được
xem là khôn ngoan đặc biệt: (1) các tư tế, (2) các hiền nhân và (3) các ngôn sứ.
Theo nghĩa khái quát, khôn ngoan được hiểu như là phẩm chất kiến thức,
kinh nghiệm hay khả năng phán đoán, phân định, quyết định liên quan đến mọi
công việc của con người trong đời sống hằng ngày. Khôn ngoan của một người được
diễn tả qua sự hiểu biết chính mình, người khác hay sự vật, hiện tượng, biến cố
hầu có thể thiết lập các tương quan cách phù hợp nhất. Hơn nữa, khôn ngoan
không chỉ thuộc về cá nhân mà còn thuộc về các hình thức tập thể, chẳng hạn như
sự khôn ngoan của dân Do-thái hay của người Ai-cập, Hy-lạp, Rô-ma. Đặc biệt, những
tư tưởng, lời nói, hành động khôn ngoan của cá nhân được lưu truyền từ thế hệ
này sang thế hệ khác và trở nên gia sản chung của mọi người.
Đối với Ki-tô Giáo, theo thánh Tô-ma A-qui-nô, khôn ngoan được diễn
tả nơi khả năng của lý trí cũng như nơi sự kết hợp giữa lý trí và đức tin. Chẳng
hạn, theo ngài, lý trí lành mạnh giúp con người nhận biết Thiên Chúa là nguyên
lý và cùng đích của vạn vật. Với lý trí và đức tin, con người có thể cảm nhận
tình yêu của Thiên Chúa đối với bản thân cũng như muôn vật muôn loài trong thế
giới thụ tạo. Tình yêu đó được diễn tả trong công trình sáng tạo, cứu chuộc và
thánh hóa của Thiên Chúa. Thánh Tô-ma cho rằng sự hoàn thiện cao cả nhất của lý
trí con người là chiêm ngưỡng chân lý Thiên Chúa; các hình thức chân lý khác
giúp kiện toàn lý trí hướng về chân lý Thiên Chúa (ST 2a2ae, 180. 4. 4). Hơn nữa,
theo thánh nhân, khôn ngoan chính là món quà của Chúa Thánh Thần cho con người.
Với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, con người có được sự khôn ngoan cần thiết
để phân định các thực tại, biết chiêm ngưỡng Thiên Chúa và thực thi thánh ý Người
trong hành trình trần thế này.
Kinh Thánh Ki-tô Giáo có nhiều hình thức văn chương, trong đó, văn
chương khôn ngoan (the sapiential literature) phát triển mạnh khoảng từ năm 400
trước Công Nguyên đến năm 100 sau Công Nguyên. Hình thức văn chương này đề cập
nhiều lĩnh vực trong đời sống con người cũng như tương quan giữa con người với
Thiên Chúa và vạn vật. Người khôn ngoan biết duy trì trật tự và hòa hợp với thế
giới khả giác cũng như thế giới linh thiêng, với những thực thể chóng qua cũng
như những thực thể bền vững, với những gì thuộc về thế gian cũng như những gì
thuộc về Thiên Chúa. Giáo Hội Công Giáo nhìn nhận 46 cuốn sách thánh Cựu Ước,
trong đó 7 cuốn được gọi là ‘các sách khôn ngoan’ hay ‘các sách giáo huấn’, bao
gồm: Gióp, Thánh Vịnh, Châm Ngôn, Giảng Viên, Diễm Ca, Khôn Ngoan, Huấn Ca. Tuy
nhiên, một số học giả Kinh Thánh cho rằng sách Thánh Vịnh và Diễm Ca thuộc loại
thi phú hơn là khôn ngoan, đồng thời, sách Ba-rúc có thể được xếp vào loại các
sách khôn ngoan. Về mặt tư tưởng, các sách khôn ngoan có 4 điểm nổi bật: (1) phổ
quát, (2) lạc quan, (3) quy nhân, (4) trừu tượng. Những chủ đề thần học căn bản
của các sách này là: Quy hướng về Thiên Chúa, sáng tạo, luân lý, lề luật. Trong
khi đó các chủ đề như lời hứa, tuyển chọn, giao ước, xuất hành, lịch sử, các
vua hay vai trò của Mô-sê lại ít được quan tâm hơn.
Chúng ta biết rằng văn chương khôn ngoan không chỉ thuộc về truyền thống
Do-thái Giáo hay Ki-tô Giáo. Quả thật, văn chương khôn ngoan hiện diện nơi các
truyền thống khác trước khi Do-thái Giáo và Ki-tô Giáo ra đời. Cụ thể là văn
chương khôn ngoan Cựu Ước và Tân Ước chịu ảnh hưởng bởi các nền văn hóa và truyền
thống quanh vùng Địa Trung Hải và Lưỡng Hà (Mesopotamia). Các tác giả Kinh
Thánh đã dùng những hình ảnh, biểu tượng hay ngôn ngữ khôn ngoan của các dân tộc
lân bang để tiếp cận, đúc kết và diễn tả khôn ngoan được Thiên Chúa mặc khải
trong các tác phẩm của mình. Do đó, một mặt, chúng ta nhận thức rằng văn chương
khôn ngoan trong Kinh Thánh hấp thụ gia sản khôn ngoan từ văn hóa và truyền thống
của các dân tộc lân bang. Mặt khác, chúng ta cũng nhận thức được tính đặc thù của
văn chương khôn ngoan trong Kinh Thánh. Nói cách khác, văn chương khôn ngoan
trong Kinh Thánh có một lịch sử phát triển lâu dài và mang đậm tính ‘hội nhập
văn hóa’ hầu diễn tả nội dung đức tin, nhất là diễn tả tương quan giữa Thiên
Chúa với con người và muôn vật muôn loài.
Theo các tác giả thuộc trường phái văn chương khôn ngoan Cựu Ước, sự
khôn ngoan của con người được hiểu như là khả năng trí tuệ được diễn tả trong đời
sống cá nhân, gia đình, xã hội qua những lời nói, câu hỏi, châm ngôn tinh tế và
mang tính xây dựng. Khôn ngoan cũng được diễn tả qua tài khéo của những người
chuyên môn thuộc nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, trong mọi hoàn cảnh, khôn ngoan thuộc
về Thiên Chúa và sự khôn ngoan của con người là ân huệ Thiên Chúa tặng ban. Những
suy tư, tìm kiếm, học hỏi của con người để gia tăng khả năng trí tuệ hay kinh
nghiệm sống cần phải đặt nền tảng trên sự khôn ngoan của Thiên Chúa (1 Sb
22,12; Gv 2,26; Kn 9,4). Tuy nhiên, quan trọng nhất của khôn ngoan là ‘kính sợ
Đức Chúa’: “Kính sợ Đức Chúa là bước đầu
của tri thức. Kẻ ngu si khinh thường khôn ngoan và lời nghiêm huấn” (Cn
1,7); "Kính sợ Đức Chúa là bước đầu
của khôn ngoan; biết Đấng Chí Thánh mới là hiểu biết thật" (Cn 9,10).
Kính sợ ở đây không có nghĩa là sợ hãi, khủng khiếp, tìm cách chạy trốn sự hiện
diện nhiệm mầu của Người trong đời sống mình. Kính sợ Thiên Chúa đồng nghĩa với
việc tri ân, cảm tạ và tôn vinh Người. Về căn bản, người kính sợ Thiên Chúa là
người biết quy hướng mọi tư tưởng, lời nói hay hành động của mình về Người bởi
vì Người là Đấng toàn năng, toàn thiện, toàn mỹ: “Sự viên mãn của khôn ngoan là
kính sợ Đức Chúa” (Hc 1,16);
“Đường nẻo của khôn ngoan một mình
Thiên Chúa tỏ, chính Người biết nơi ở của khôn ngoan… kính sợ Chúa Thượng, đó là khôn ngoan, tránh xa điều ác, đó là trí hiểu"
(G 28,23-28). Theo sách Khôn Ngoan: “Bước
đầu để đạt tới Đức Khôn Ngoan là thật lòng ham muốn học hỏi. Chăm lo học hỏi là
yêu mến Đức Khôn Ngoan. Mà yêu mến là tuân giữ lề luật” (Kn 6,17-18).
Trong bối cảnh Cựu Ước, khôn ngoan và lề luật liên hệ chặt chẽ với nhau,
chẳng hạn, theo sách Huấn Ca: “Khôn ngoan
nào cũng là kính sợ Đức Chúa, trong mọi khôn ngoan đều có việc thi hành Lề Luật”
(Hc 19,20); “Lề Luật làm cho khôn
ngoan dâng trào như sông Pi-sôn, như sông Tích-ra vào mùa hái quả, cho hiểu biết
đầy tràn như sông Êu-phơ-rát, như sông Gio-đan vào mùa gặt; cho lời dạy bảo
chan hòa như sông Nin, như suối Ghê-khôn vào mùa nho chín” (Hc 24,25-27)
hay: “Hãy đưa chân cho khôn ngoan xích lại,
và cúi đầu cho khôn ngoan đặt dây cương. Hãy ghé vai mang lấy, và đừng bất mãn
vì bị khôn ngoan ràng buộc” (Hc 6,24-25). Khi con người tuân giữ hay trung
tín với lề luật của Thiên Chúa, con người trở nên khôn ngoan trên bình diện cá
nhân cũng như tập thể, chẳng hạn như trên bình diện cá nhân: “Này con, nếu thôi không nghe lời nghiêm huấn,
con sẽ lạc xa những lời lẽ khôn ngoan” (Cn 19,27) hay: “Ai tuân giữ Lề Luật sẽ điều khiển được tâm tư, khôn ngoan là hết lòng
kính sợ Đức Chúa” (Hc 21,11). Trên bình diện tập thể, Mô-sê nói với dân
Do-thái: “Anh em phải giữ và đem ra thực
hành [thánh chỉ và quyết định của Đức Chúa], vì nhờ đó anh em sẽ được các dân
coi là khôn ngoan và thông minh. Khi được nghe tất cả những thánh chỉ đó, họ sẽ
nói: Chỉ có dân tộc vĩ đại này mới là một dân khôn ngoan và thông minh!”
(Đnl 4,6). Sách Ba-rúc cũng cho chúng ta biết rằng Đức Khôn Ngoan được diễn tả
nơi huấn giới của Thiên Chúa trong Sách Luật, Luật vĩnh cửu và đem lại sự sống
(Br 4,1). Đặc biệt, ai làm bạn với Đức Khôn Ngoan thì được hưởng sự sống muôn đời
(Kn 8,17).
Khi nói về các nhân vật khôn ngoan trong Cựu Ước, người ta thường nhắc
Sa-lô-môn. Sách Các Vua trình thuật rằng, một hôm, trong giấc mộng, Đức Chúa hứa
với vua sẽ ban điều vua mong ước. Sa-lô-môn đã không xin cho được sống lâu, được
vinh quang, giàu sang, phú quý hay kẻ thù phải chết mà xin cho được ơn khôn
ngoan để có thể hướng dẫn, phân định và xét xử dân Do-thái (1 V 3,4-9). Ý muốn
của vua đẹp lòng Đức Chúa, Người nói: “Ta
làm theo như lời ngươi: Ta ban cho ngươi một tâm hồn khôn ngoan minh mẫn, đến nỗi
trước ngươi, chẳng một ai sánh bằng, và sau ngươi, cũng chẳng có ai bì kịp” (1
V 3,12). Hơn nữa, Đức Chúa còn nói với vua: “Cả điều ngươi không xin, Ta cũng sẽ ban cho ngươi: Giàu có, vinh quang,
đến nỗi suốt đời ngươi không có ai trong các vua được như ngươi. Và nếu ngươi
bước theo các đường lối của Ta, là tuân giữ các giới răn và mệnh lệnh của Ta,
như Đa-vít thân phụ ngươi, thì Ta sẽ kéo dài ngày đời của ngươi” (1 V
3,13-14). Sách Các Vua còn cho chúng ta biết rằng Sa-lô-môn khôn ngoan hơn tất
cả những người khôn ngoan ở Phương Đông và Ai-cập (1 V 5,9-10). Tuy nhiên, vua
đã không sử dụng khôn ngoan được Đức Chúa phú ban cách xứng hợp. Càng ngày, vua
càng xa rời Đức Chúa, theo các thần ngoại và qua đời trong cảnh đất nước trên
đường bạo loạn, chia rẽ (1 V 11,26-43).
Sách Huấn Ca giúp chúng ta nhận thức về nguồn gốc và sự huyền diệu của
khôn ngoan: “Khôn ngoan đã được tác thành
trước vạn vật, sự hiểu biết anh minh đã có tự muôn đời” (Hc 1,4); “Đức Khôn Ngoan tự biểu dương và hãnh diện ở
giữa dân mình… Ta phát xuất từ miệng Đấng Tối Cao và như mây mù, Ta bao phủ cõi
đất” (Hc 24,1-3). Tương tự như vậy, tác giả sách Khôn Ngoan viết: “Chúa dùng lời Chúa mà tác thành vạn vật,
dùng sự khôn ngoan Chúa mà cấu tạo con người, để con người làm chủ mọi loài
Chúa dựng nên” (Kn 9,1-2) hay: “Đức
Khôn Ngoan ở kề bên Chúa, biết những việc Chúa làm, hiện diện khi Ngài tạo
thành vũ trụ, biết rõ những gì đẹp mắt Chúa và phù hợp với huấn lệnh của Ngài”
(Kn 9,9). Nhìn chung, theo các trình thuật của Cựu Ước, nhất là sách Châm Ngôn
và sách Khôn Ngoan, sự khôn ngoan của Thiên Chúa có trước con người cũng như
muôn vật muôn loài. Chính Thiên Chúa dùng sự khôn ngoan của Người mà dựng nên
muôn vật muôn loài, khôn ngoan như ‘tay thợ cả’ hay ‘tay thợ đã làm nên tất cả’
(Cn 8,30; Kn 8,6). Do đó, muôn vật muôn loài được in dấu sự khôn ngoan của
Thiên Chúa và phản ánh sự khôn ngoan của Người (Rm 1,19-20).
Nhiều đặc tính và hành động của khôn ngoan (khôn ngoan ‘là/ being’ và
khôn ngoan ‘làm/ doing’) trong Cựu Ước đáng được chúng ta quan tâm, chẳng hạn
như khôn ngoan là vĩnh cửu, tiền hữu, siêu việt, nhiệm mầu, toàn năng, vô tận,
bất biến, đa dạng, rực rỡ, sáng láng, hợp nhất, cư ngụ, sống động, trổi vượt,
sáng tạo, nhanh nhạy, đổi mới, hiểu biết, cộng tác, gìn giữ, thúc đẩy, chỉ dẫn,
dạy dỗ, lành thánh (G 28,1-28; Cn 3,3-15; Cn 3,17-18; Cn 8,4-6; Cn 8,22; Cn
8,27-29; Hc 1,9-10.26; Hc 24,7.12.19-22, Kn 6,18; Kn 1,7; Kn 7,14; Kn 8,4, Kn
9,9; Br 3,9–4,4). Đặc biệt, khôn ngoan được nhân
cách hóa hay ngôi vị hóa
(personification), nghĩa là khôn ngoan không chỉ là một đặc tính của Thiên
Chúa, không chỉ là khôn ngoan (viết thường) mà còn
là Khôn Ngoan hay Đức Khôn
Ngoan (viết hoa). Chẳng hạn: “Trên đỉnh cao bên đường phố, tại các giao lộ, Đức Khôn Ngoan đứng đó;
bên cổng dẫn vào thành, nơi lối đi tới cửa thành, Đức Khôn Ngoan kêu to: Phàm
nhân hỡi, ta mời gọi các ngươi đó, ta ngỏ lời với các ngươi, hỡi con cái loài
người” (Cn 8,2-4); “Đức Khôn Ngoan tỏa
ra từ quyền năng Thiên Chúa và rực lên trong ngần từ vinh hiển Đấng Toàn Năng,
nên không thể vương một tì ố” (Kn 7,25); “Đức Khôn Ngoan phản chiếu ánh sáng vĩnh cửu, là tấm gương trong phản
ánh hoạt động của Thiên Chúa, là hình ảnh lòng nhân hậu của Người” (Kn 7,26).
Theo mặc khải Thiên Chúa từ Cựu Ước tới Tân Ước, chúng ta có thể nhận thức rằng
khôn ngoan là thuộc tính của Ba Ngôi Thiên Chúa. Đặc biệt, khôn ngoan gắn liền
với căn tính, đời sống và sứ mệnh của Đức Giê-su. Nhờ Người hướng dẫn, con người
mới có thể hiểu biết Thiên Chúa, hiểu biết chính mình, hiểu biết thế giới thụ tạo
và các tương quan trong đó cách rõ ràng hơn.
Đối với văn hóa Do-thái, ‘lời’ (דָּבָר/ dabar/ word) có nghĩa sâu rộng
hơn ‘lời’ (λoγος/ logos/ word) trong văn hóa Hy-lạp hay các nền văn hóa khác
trên thế giới bởi vì ‘lời’ trong văn hóa Do-thái gắn liền với sự vật, hiện tượng,
hành động hay biến cố. Quả thật, một lời Chúa phán thì có sự vật, tạo nên các
hiện tượng, biến cố tiếp diễn trong trật tự và hòa hợp (St 1,1-2,4a). Theo tác
giả Thánh Vịnh 33: “Một lời Chúa phán làm ra chín tầng trời, một hơi Chúa thở
tạo thành muôn tinh tú” (Tv 33,6). Lời quyền năng của Thiên Chúa trong Cựu
Ước hướng tới và được tỏ bày cách trọn hảo nơi Ngôi Lời của Tân Ước. Tin Mừng Đức
Giê-su theo thánh Gio-an cho chúng ta biết rằng Đức Giê-su là Lời Nhập Thể của
Thiên Chúa: “Ngôi Lời đã trở nên người
phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14). Sách Huấn Ca và sách Ba-rúc của Cựu
Ước cũng cho chúng ta nhận thức tương tự về khôn ngoan: “Hãy cắm lều ở Gia-cóp, hãy hưởng phần sản nghiệp ở Ít-ra-en” (Hc
24,8); “Đức Khôn Ngoan xuất hiện trên mặt
đất và đã sống giữa loài người” (Br 3,38). Như vậy, theo mặc khải Ki-tô
Giáo, Đức Giê-su vừa là Lời của Thiên Chúa vừa là Khôn Ngoan của Người. Thánh
A-tha-na-xi-ô khẳng định rằng Đức Giê-su là Khôn Ngoan của Thiên Chúa, được
sinh ra từ trước muôn đời. Đồng thời, Người cũng là Lời duy nhất của Thiên
Chúa. Theo thánh nhân, Chúa Cha là Đấng vĩnh cửu, do đó, Lời và Khôn Ngoan của
Người cũng là vĩnh cửu (Discourse 1, Against the Arians, Chapter 3,9). Những gì
thánh Gio-an trình bày về Đức Giê-su là Lời của Thiên Chúa cũng cho phép chúng
ta trình bày tương tự đối với Khôn Ngoan của Người. Chẳng hạn, trong thư thứ nhất,
thánh Gio-an trình bày về sự gần gũi của Ngôi Lời Thiên Chúa đối với con người
(1 Ga 1,1). Chúng ta cũng có thể diễn tả Khôn Ngoan của Thiên Chúa như vậy,
nghĩa là: Khôn Ngoan của Thiên Chúa ‘được sinh ra từ trước muôn đời’ hay ‘được
sinh ra mà không phải được tạo thành’ và với biến cố Nhập Thể, con người đã
nghe, đã thấy, đã chiêm ngưỡng, đã chạm đến Khôn Ngoan của Thiên Chúa. Nói cách
khác, với biến cố Nhập Thể, sự khôn ngoan của Thiên Chúa không còn là thực thể
hay điều gì đó trừu tượng nhưng đã hiện diện ‘bằng xương bằng thịt’ giữa gia
đình nhân loại.
Để chuẩn bị cho Đức Giê-su, Khôn Ngoan của Thiên Chúa, xuất hiện giữa
lòng nhân loại, Thiên Chúa đã tuyển chọn thánh Gio-an Tẩy Giả, vị ngôn sứ được
Đức Giê-su giới thiệu rằng: “Trong số
phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gio-an Tẩy Giả”
(Mt 11,11). Lời sứ thần truyền tin cho Da-ca-ri-a có đoạn về Gio-an Tẩy Giả như
sau: “Ngay khi còn trong lòng mẹ, em đã đầy
Thánh Thần. Em sẽ đưa nhiều con cái Ít-ra-en về với Đức Chúa là Thiên Chúa của
họ. Được đầy thần khí và quyền năng của ngôn sứ Ê-li-a, em sẽ đi trước mặt
Chúa, để làm cho lòng cha ông quay về với con cháu, để làm cho tâm tư kẻ ngỗ
nghịch lại hướng về nẻo chính đường ngay, và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón
Chúa” (Lc 1,15-17). Sau này, khi thi hành sứ mệnh, Đức Giê-su và Gio-an Tẩy
Giả diễn tả sự khôn ngoan của Thiên Chúa, tuy nhiên, nhiều người đã không nhận
ra điều đó. Đối với họ, khôn ngoan phải theo tiêu chuẩn truyền thống, tiêu chuẩn
mà họ nghĩ là đúng với ý định của Thiên Chúa. Tuy nhiên, Đức Giê-su minh chứng
rằng họ đã lầm lẫn khi không nhận ra Người cũng như Gio-an Tẩy Giả. Đức Giê-su
nói: “Ông Gio-an đến, không ăn không uống,
thì thiên hạ bảo: Ông ta bị quỷ ám. Con Người đến, cũng ăn cũng uống như ai,
thì thiên hạ lại bảo: Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội
lỗi. Nhưng Đức Khôn Ngoan được chứng minh bằng hành động” (Mt 11,18-19). Những
lời này của Đức Giê-su thúc giục chúng ta tìm hiểu Kinh Thánh để có được nhận
thức rõ hơn về Đức Khôn Ngoan mà Người đề cập.
Tin Mừng Đức Giê-su theo thánh Lu-ca cho chúng ta biết rằng, thời thơ ấu,
khi Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se đem Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem để tiến dâng
cho Thiên Chúa. Được Thần Khí thúc đẩy, ông Si-mê-ôn đã gặp Đức Giê-su và nói
tiên tri về Người (Lc 2,22-35). Nữ ngôn sứ đạo hạnh tên là An-na đêm ngày ăn
chay cầu nguyện trong Đền Thờ cũng nói tiên tri về đứa trẻ (Lc 2,36-38). Sau
đó, mọi người trong gia đình Đức Giê-su trở về Na-da-rét: “Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được
ân nghĩa cùng Thiên Chúa” (Lc 2,40). Thánh Lu-ca cũng trình thuật rằng hằng
năm, Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se trẩy hội lên Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Khi Đức
Giê-su được mười hai tuổi, mọi người trong gia đình cùng tới đó. Xong việc, Đức
Ma-ri-a và thánh Giu-se lên đường trở về mà không biết rằng Đức Giê-su đang ở lại
Giê-ru-sa-lem. Các ngài quay lại và sau ba ngày tìm kiếm, các ngài thấy Đức
Giê-su trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, đang ngồi giữa các thầy dạy, vừa lắng nghe
vừa đặt câu hỏi cho họ. Mọi người thán phục về sự khôn ngoan và thông minh của
Người (Lc 2,43-47). Thánh Lu-ca trình thuật rằng: “Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng
phục các ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng.
Còn Đức Giê-su ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với
Thiên Chúa và người ta” (Lc 2,51-52). Điều này có nghĩa rằng Đức Giê-su là
con người thật vì đã thông dự trọn vẹn bản tính nhân loại.
Trong hành trình trần thế sự hiện diện của Đức Giê-su là Khôn Ngoan của
Thiên Chúa luôn gắn liền với sự hiện diện của Thần Khí Thiên Chúa. Sách ngôn sứ
I-sai-a cho chúng ta biết rằng: “Từ gốc tổ
Gie-sê, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non. Thần khí
Đức Chúa sẽ ngự trên vị này: Thần khí khôn ngoan và minh mẫn, thần khí mưu lược
và dũng mãnh, thần khí hiểu biết và kính sợ Đức Chúa” (Is 11,1-2). Chúng ta
cũng đọc được những điều tương tự nói về Đức Giê-su trong sách Khôn Ngoan, chẳng
hạn: “Nơi Đức Khôn Ngoan, có một thần khí
tinh tường và thánh thiện, duy nhất và đa năng, tinh tế và mau lẹ, minh mẫn và
tinh tuyền, trong sáng và thản nhiên, lanh lợi và chuộng điều lành, bất khuất,
từ bi và nhân ái, cương quyết, vững vàng và điềm tĩnh, làm được mọi sự và quan
tâm đến mọi điều, thấu suốt mọi tâm can, kể cả tâm can của những người trong sạch,
thông minh, tinh tế nhất” (Kn 7,22-23) hay: “Ý định của Chúa, nào ai biết được, nếu tự chốn cao vời, chính Ngài chẳng
ban Đức Khôn Ngoan, chẳng gửi thần khí thánh?” (Kn 9,17). Như vậy, chúng ta
có thể xác tín rằng Đức Giê-su là Khôn Ngoan của Thiên Chúa và Chúa Thánh Thần
là Thần Khí Khôn Ngoan của Thiên Chúa. Nhờ Đức Giê-su và trong Chúa Thánh Thần,
mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi càng ngày càng được sáng tỏ. Đặc biệt, những giáo huấn của
Đức Giê-su kiện toàn lề luật và lời các ngôn sứ trong Cựu Ước (Mt 5,17).
Chính Đức Giê-su đã tóm lược, khai triển và trình bày cách thức áp dụng
hầu giúp mọi người hiểu biết hơn về sự khôn ngoan của Thiên Chúa trong bài giảng
Tám Mối Phúc (Mt 5,1 - 7,29). Tuy nhiên, thật trớ trêu, đây là sự khôn ngoan mà
nhiều người thuộc dân tộc Do-thái cũng như các dân khác trong gia đình nhân loại
xem ra ‘không quen tai lắm’, chẳng hạn như những người nghèo khó, sầu khổ, bị
bách hại là những người được chúc phúc. Đức Giê-su cũng dạy rằng ai vả má bên
phải của mình thì giơ cả má bên trái cho họ vả nữa; hay yêu kẻ thù, cầu nguyện
cho kẻ thù (Mt 5,39; Mt 5,44). Với Đức Giê-su, người khôn ngoan là người đem lại
bình an, hòa thuận cho anh chị em mình chứ không phải là người gây hiểu nhầm, lập
bè phái hay ẩn danh hoặc nặc danh làm hại người khác (Mt 12,33-37). Sự khôn ngoan
mà Đức Giê-su diễn tả trong Tám Mối Phúc có thể làm cho một số người thất vọng.
Tuy nhiên, đây là sự khôn ngoan đích thực mà Đức Giê-su muốn mọi người thực thi
để mưu cầu hạnh phúc đích thực cho mình và anh chị em đồng loại hôm nay và mãi
tới muôn đời.
Khi những người Pha-ri-sêu xin Đức Giê-su thực hiện một dấu lạ, Người đã
nhắc lại dấu lạ ngôn sứ Giô-na: Ông đã ở trong bụng cá ba đêm ngày. Qua đó, Đức
Giê-su cho họ biết chính Người cũng ở trong lòng đất như vậy hầu thông dự vào sự
chết của con người và đem lại sự sống vĩnh cửu cho những ai gắn kết và trung
tín thực thi giáo huấn của Người trong cuộc sống mình. Sau đó, Đức Giê-su nói với
những người Pha-ri-sêu: “Trong cuộc phán
xét, nữ hoàng Phương Nam sẽ đứng lên cùng với thế hệ này, và bà sẽ kết án họ, vì
xưa bà đã từ tận cùng trái đất đến nghe lời khôn ngoan của vua Sa-lô-môn; mà
đây thì còn hơn vua Sa-lô-môn nữa” (Mt 12,42). Dân Do-thái (nhất là các
kinh sư và những người Pha-ri-sêu quen với truyền thống trong đó Sa-lô-môn được
xem là người khôn ngoan nhất gia đình nhân loại) rất ngạc nhiên về những lời của
Đức Giê-su. Khi gợi lại hình ảnh Sa-lô-môn, Đức Giê-su cho những người
Pha-ri-sêu biết rằng họ đang theo lối mòn của Sa-lô-môn. Đức Giê-su ‘nhắc nhở’
họ rằng Sa-lô-môn đã không sử dụng sự khôn ngoan Thiên Chúa ban tặng cách xứng
hợp. Còn Người đã diễn tả khôn ngoan Thiên Chúa cách tuyệt hảo bằng cả lời nói
và hành động.
Đức Giê-su đã dùng nhiều dụ ngôn để giúp mọi người hiểu hơn về khôn
ngoan của Thiên Chúa. Chẳng hạn, dụ ngôn người mục tử có một trăm con chiên
nhưng mất một con, người ấy đã bỏ chín mươi chín con còn lại trên đồng hoang để
tìm cho bằng được con chiên bị mất. Khi tìm được, người ấy vác chiên lên vai. Về
tới nhà, người ấy mời bạn bè đến chia vui với mình (Lc 15,4-7). Tương tự như vậy,
người phụ nữ có mười đồng quan nhưng mất một đồng, bà đốt đèn, quét nhà tìm cho
bằng được. Khi tìm được đồng quan, bà mời bạn bè đến chia vui (Lc 15,8-10). Người
chăn chiên thật mạo hiểm khi bỏ lại chín mươi chín con để đi tìm một con. Khi
tìm được lại còn mời bạn bè chung vui. Người phụ nữ mất đồng quan cũng làm
tương tự. Xét về mặt kinh tế, người mục tử cũng như người phụ nữ ‘bị lỗ nặng’ bởi
vì mở tiệc đãi khách tốn kém hơn giá trị của con chiên hay đồng quan. Tuy
nhiên, Đức Giê-su cho mọi người thấy rằng đối với Thiên Chúa, không phải mọi thứ
đều ‘quy ra thóc’ hay nhìn nhận dưới lăng kính kinh tế hoặc tiêu chuẩn trần thế
nào đó. Với Đức Giê-su, khôn ngoan của Thiên Chúa được diễn tả nơi tình yêu và
lòng thương xót vô điều kiện của Người đối với mọi người, nhất là những người tội
lỗi hay ‘thấp cổ bé họng’ dưới nhãn quan của khôn ngoan trần thế.
Trong lịch sử nhân loại, không ai có nhiều danh hiệu hay hình ảnh như Đức
Giê-su. Kinh Thánh gợi cho chúng ta hơn 200 danh hiệu hay hình ảnh của Người. Một
trong những danh hiệu đáng để chúng ta quan tâm: Đức Giê-su là Thầy Dạy khôn
ngoan (Wisdom Teacher). Không chỉ dân thường mà thôi, các bậc vị vọng đạo đời
đương thời đều nhận ra Đức Giê-su là Thầy Dạy khôn ngoan. Thánh Mác-cô trình
thuật rằng ngay trong buổi đầu loan báo Tin Mừng tại Ca-phác-na-um: “Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người,
vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư”
(Mc 1,22). Thánh Gio-an Tông Đồ cũng trình thuật: “Các vệ binh trở về với các thượng tế và người Pha-ri-sêu. Họ liền hỏi
chúng: Tại sao các anh không điệu ông ấy về đây? Các vệ binh trả lời: Xưa nay
chưa hề đã có ai nói năng như người ấy!” (Ga 7,45-46). Quả thật, lời giảng
dạy của Đức Giê-su đã đi vào tâm can và biến đổi mọi người, ngoại trừ những người
bám víu truyền thống cố hữu hay nệ luật, không muốn biến đổi. Lời giảng dạy của
Người không chỉ đụng chạm đến các vấn đề tôn giáo mà còn các vấn đề khác trong
xã hội loài người. Đức Giê-su nói chuyện với những người lãnh đạo Do-thái, với
những người đại diện hoàng đế Rô-ma, với các tầng lớp dân chúng khác nhau trong
hành trình loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa.
Trong Tin Mừng Đức Giê-su theo thánh Mát-thêu, thánh nhân trình thuật việc
Đức Giê-su nói về sự cứng lòng của dân chúng ở các thành ven Biển Hồ Ga-li-lê
như Kho-ra-din, Bết-xai-đa, Ca-phác-na-um (Mt 11,20-24). Đức Giê-su cho họ biết
rằng nếu dân các thành lân bang như Tia, Xy-đôn, Xơ-đôm được chứng kiến những
phép lạ Người thực hiện như ở Kho-ra-din, Bết-xai-đa và Ca-phác-na-um thì dân ở
các thành đó đã mặc áo vải thô, rắc tro lên đầu tỏ lòng ăn năn sám hối. Những
người Do-thái cho rằng họ là ‘dân khôn’, còn những người ở các thành lân bang
là ‘dân ngoại’, là ‘dân dại’. Đức Giê-su đã đảo lộn trật tự để cho những người
Do-thái biết rằng khôn hay dại không lệ thuộc vào bất cứ tiêu chuẩn nào mà con
người thiết đặt nhưng dựa vào tâm hồn luôn rộng mở đón nhận các dấu chỉ của
Thiên Chúa, đọc được ý nghĩa của các dấu chỉ đó và thực thi thánh ý của Thiên
Chúa qua các dấu chỉ đó cách trung tín nhất. Thánh Mát-thêu tiếp tục trình thuật
lời của Đức Giê-su thân thưa cùng Chúa Cha: "Lạy
Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc
khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người
bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Mt 11,25-26). Quả thật,
khôn ngoan thông thái của ‘dân được chọn’ hay của ‘các đấng bậc’ trong xã hội
Do-thái lạc nhịp với khôn ngoan của Thiên Chúa mà Đức Giê-su giảng dạy và minh
chứng bằng hành động.
Khi dẫn một người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình đến trước Đức Giê-su, các kinh sư và những người Pha-ri-sêu hỏi Người: “Trong
sách Luật, ông Mô-sê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy,
Thầy nghĩ sao?” (Ga 8,5). Họ hỏi Đức Giê-su
như vậy nhằm tìm cách
tố cáo Người. Tuy nhiên, Đức Giê-su đã không hành xử theo bất
cứ cách thức nào mà các kinh sư và người Pha-ri-sêu dự tính. Người đã dùng ‘lời
khôn ngoan’ của Thiên Chúa hầu giúp những người có ý xấu phải tự vấn lương tâm
mình khi kết tội người khác. Đức Giê-su nói: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi” (Ga
8,7). Thánh Gio-an cho chúng ta biết rằng những người lên án người phụ nữ và
gài bẫy Đức Giê-su bỏ đi hết, bắt đầu từ những người lớn tuổi nhất. Họ là những
người ‘khôn ngoan nhất’, ‘nhiều kinh nghiệm nhất’ và có lẽ cũng là những người
‘tội lỗi nhiều nhất’. Quả thật, sự khôn ngoan của họ là sự khôn ngoan dưới đất,
sự khôn ngoan trần thế, sự khôn ngoan dẫn xuất từ ác thần. Qua câu chuyện này,
chúng ta thấy rằng ưu tiên của luật Đức Giê-su là yêu thương, tha thứ, biến đổi,
đem lại sự sống chứ không phải là thù hằn, trừng phạt, cố chấp, dẫn đến sự chết.
Đức Giê-su còn diễn tả sự khôn ngoan của Người qua những câu hỏi khiến
những ai cứng lòng hay chất vấn Người cảm nhận được những giới hạn hay yếu thế
của mình. Chẳng hạn, khi các thượng tế chất vấn về quyền bính của Đức Giê-su,
Người hỏi họ: “Phép rửa của ông Gio-an do
đâu mà có? Do Trời hay do người ta?” (Mt 21,25); trong tương quan giữa Đấng
Ki-tô và vua Đa-vít, Đức Giê-su hỏi những người Pha-ri-sêu: “Nếu vua Đa-vít gọi Đấng Ki-tô là Chúa Thượng,
thì làm sao Đấng Ki-tô lại là con vua ấy được? Không ai đáp lại Người được một
tiếng. Và từ ngày ấy, chẳng ai còn dám chất vấn Người nữa” (Mt 22,45-46);
khi các kinh sư và người Pha-ri-sêu lẫn lộn tôn ti trật tự các giá trị liên
quan đến việc phụng thờ, Đức Giê-su nói với họ: “Vàng hay Đền Thờ là nơi làm cho vàng nên của thánh, cái nào trọng hơn?
Các người còn nói: Ai chỉ bàn thờ mà thề, thì có thề cũng như không; nhưng ai
chỉ lễ vật trên bàn thờ mà thề, thì bị ràng buộc. Đồ mù quáng! Thế thì lễ vật
hay bàn thờ là nơi làm cho lễ vật nên của thánh, cái nào trọng hơn? Vậy ai chỉ
bàn thờ mà thề, là chỉ bàn thờ và mọi sự trên bàn thờ mà thề. Và ai chỉ Đền Thờ
mà thề, là chỉ Đền Thờ và Đấng ngự ở đó mà thề” (Mt 23,17-21). Một số câu hỏi
gợi ý khác của Đức Giê-su làm cho mọi người trong gia đình nhân loại luôn suy gẫm,
chẳng hạn như khi những người Pha-ri-sêu rình xem Đức Giê-su có chữa bệnh trong
ngày sa-bát không, Người hỏi họ: “Ngày
sa-bát, được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay giết đi?”
(Mc 3,4) hay: “Nếu người ta được cả thế
giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?” (Mt 16,26).
Với thánh Phao-lô, khôn ngoan của mặc khải Kinh Thánh là khôn ngoan quy
Ki-tô (Christocentric wisdom). Khi so sánh nhãn quan cố hữu của những người
Do-thái cũng như Hy-lạp về biến cố Đức Giê-su chịu đóng đinh trên thập giá,
trong thư gửi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô khẳng định rằng Đức Giê-su là sức
mạnh và khôn ngoan của Thiên Chúa (Θεού δύναμις και Θεού σοφία, 1 Cr 1,24). Tiếp
tục diễn tả khôn ngoan của Thiên Chúa qua biến cố này, thánh nhân bộc lộ tâm
tình sâu đậm của ngài với họ: “Khi tôi đến
với anh em, tôi đã không dùng lời lẽ hùng hồn hoặc triết lý cao siêu mà loan
báo mầu nhiệm của Thiên Chúa. Vì hồi còn ở giữa anh em, tôi đã không muốn biết
đến chuyện gì khác ngoài Đức Giê-su Ki-tô, mà là Đức Giê-su Ki-tô chịu đóng
đinh vào thập giá” (1 Cr 2,1-2). Đối với thánh nhân: “Sự khôn ngoan đời này là sự điên rồ trước mặt Thiên Chúa, như có lời
chép rằng: Chúa bắt được kẻ khôn ngoan bằng chính mưu gian của chúng” (1 Cr
3,19). Các giáo phụ như Giút-ti-nô (100-165), Ô-ri-gen (185-253),
A-tha-na-xi-ô (298-373) tiếp tục khẳng định và khai triển tư tưởng này của
thánh Phao-lô. Đặc biệt, theo thánh Au-gút-ti-nô (354-430): “Chính
Thiên Chúa là sự khôn ngoan cao cả nhất; phụng thờ Thiên Chúa là sự khôn ngoan
của con người” (On the
Trinity, Book XIV, 1, 1). Cùng với thánh Phao-lô và A-tha-na-xi-ô, thánh Au-gút-ti-nô nhấn mạnh rằng Đức
Giê-su là Con Một Thiên Chúa và là Khôn Ngoan của Người (On the Trinity, Book
XIV, 1, 1). Cũng theo thánh nhân, sự khôn ngoan đích thực của con người đặt nền
tảng trên sự khôn ngoan của Thiên Chúa (On the Trinity, Book XIV, 12, 15).
Những người Hy-lạp ở Cô-rin-tô cho rằng họ thuộc dòng dõi các triết gia
lỗi lạc, hậu duệ của các bậc tiền nhân khôn ngoan và thông minh xuất chúng. Do
đó, mọi sự cần được nhìn nhận, lượng định, đánh giá qua lăng kính của họ. Đối với
họ, Đức Giê-su chịu đóng đinh thập giá không thể so sánh với các vị thần hay thực
thể thuộc thế giới linh tượng mà họ luôn hướng tới. Còn đối với những người
Do-thái, Đức Giê-su cần phải thực hiện nhiều điềm thiêng dấu lạ cả thể nữa mới
có thể minh chứng rằng Người từ Thiên Chúa mà đến. Dĩ nhiên, theo họ, những dấu
lạ này phải diễn tả quyền năng bách chiến bách thắng trước mọi quân thù mà cha
ông họ đã từng chứng kiến, chẳng hạn như biến cố Thiên Chúa giải phóng tổ tiên
họ khỏi ách nô lệ Ai-cập. Nói cách khác, Đức Giê-su chịu đóng đinh trên thập
giá là ô nhục đối với dân Do-thái và điên rồ đối với dân Hy-lạp bởi vì biến cố
này nằm ngoài truyền thống minh triết của người Hy-lạp hay não trạng thiên dấu
lạ của người Do-thái. Đó là lý do tại sao thánh Phao-lô nhắc nhở các tín hữu
Cô-rin-tô rằng: “Đừng ai tự lừa dối mình.
Nếu trong anh em có ai tự cho mình là khôn ngoan theo thói đời, thì hãy trở nên
như điên rồ, để được khôn ngoan thật” (1 Cr 3,18).
Tương tự như các tác giả văn chương khôn ngoan Cựu Ước, thánh Phao-lô nhấn
mạnh sự khôn ngoan kỳ diệu của Thiên Chúa so với tâm thức hạn hẹp của con người:
“Chúng tôi giảng dạy lẽ khôn ngoan nhiệm
mầu của Thiên Chúa đã được giữ bí mật, lẽ khôn ngoan mà Thiên Chúa đã tiền định
từ trước muôn đời, cho chúng ta được vinh hiển” (1 Cr 2,7) hay: “Sự giàu có, khôn ngoan và thông suốt của
Thiên Chúa sâu thẳm dường nào! Quyết định của Người, ai dò cho thấu! Đường lối
của Người, ai theo dõi được! Thật vậy, ai đã biết tư tưởng của Chúa? Ai đã làm
cố vấn cho Người? Ai đã cho Người trước, để Người phải trả lại sau?” (Rm
11,33-35). Trong thư gửi tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô diễn tả sự khôn ngoan
của Thiên Chúa được Giáo Hội, Thân Thể Mầu Nhiệm Đức Ki-tô, đón nhận, sống và
loan báo: “Mầu nhiệm này đã được giữ kín
từ muôn thuở nơi Thiên Chúa là Đấng tạo thành vạn vật, để giờ đây, nhờ Hội
Thánh, mọi quyền năng thượng giới được biết sự khôn ngoan thiên hình vạn trạng
của Thiên Chúa” (Ep 3,9-10). Là người thấm nhuần truyền thống Cựu Ước,
thánh Phao-lô cho chúng ta nhận thức rằng nơi Đức Giê-su, sự khôn ngoan của
Thiên Chúa trong lịch sử mặc khải được kiện toàn. Chúng ta biết rằng trong 13
thư của thánh nhân, thư gửi tín hữu Rô-ma được xem là sâu sắc nhất. Câu cuối
cùng của thư này là: “Chỉ mình Thiên Chúa
là Đấng khôn ngoan thượng trí. Kính dâng Người mọi vinh quang đến muôn thuở
muôn đời, nhờ Đức Giê-su Ki-tô. A-men” (Rm 16,27).
Trong bộ Tân Ước, thư thánh Gia-cô-bê gần với văn chương khôn ngoan Cựu
Ước. Ngay trong những câu đầu tiên, thánh nhân đã đề cập chủ đề khôn ngoan.
Ngài viết: “Nếu ai trong anh em thiếu đức
khôn ngoan, thì hãy cầu xin Thiên Chúa, Người sẽ ban cho. Vì Thiên Chúa ban cho
mọi người cách rộng rãi, không quở trách” (Gc 1,5). Lời khuyên dạy của
thánh nhân mang âm hưởng của sách Khôn Ngoan trong Cựu Ước: “Đức Khôn Ngoan, tôi không thể có được, nếu
Thiên Chúa chẳng ban cho tôi, - biết được ơn này do ai ban tặng, thì cũng đã
khôn ngoan phần nào rồi” (Kn 8,21). Với thánh Gia-cô-bê, trong gia đình
nhân loại, không ai có thể tự mình tạo nên sự khôn ngoan đích thực, sự khôn
ngoan có thể dẫn đưa con người đến nguồn hạnh phúc viên mãn. Đặc biệt, thánh
nhân đề cập hai hình thức khôn ngoan, khôn ngoan giả và khôn ngoan thật. Dấu chỉ
của khôn ngoan giả là ghen tương, tranh chấp, gây xáo trộn, tự cao, dối trá, giả
hình, thiên vị (Gc 3,16). Còn dấu chỉ của khôn ngoan thật là thanh khiết, hiếu
hòa, khoan dung, từ bi, chân thật, công chính, bình an (Gc 3,17). Khôn ngoan giả
là khôn ngoan trần thế, khôn ngoan xác thịt, khôn ngoan khởi xướng bởi ác thần,
khôn ngoan dẫn con người đến sự chết muôn đời, khôn ngoan đã được đề cập đến
trong sách ngôn sứ I-sai-a: “Khốn thay những
kẻ coi mình là khôn ngoan, và cho mình là thông minh” (Is 5,21). Trong khi
đó, khôn ngoan thật là khôn ngoan thượng giới, khôn ngoan khởi xuất từ Thần Khí
Thiên Chúa, khôn ngoan dẫn con người đến sự sống vĩnh cửu. Thánh Gia-cô-bê viết:
“Đức tin không có hành động thì quả là đức
tin chết” (Gc 2,17). Theo tư tưởng của thánh nhân, chúng ta có thể nói
tương tự như thế về khôn ngoan. Nghĩa là, khôn ngoan của con người cần được chứng
minh bằng hành động, bằng lối sống, bằng sự hy sinh, quên mình theo gương Đức
Giê-su, Khôn Ngoan của Thiên Chúa giữa lòng nhân loại.
Trong Giáo Hội sơ khai, các môn đệ Đức Giê-su đã chọn bảy người đầy tiếng
tốt, đầy Thần Khí và đầy khôn ngoan để cộng tác với các ngài trong việc loan
báo Đức Giê-su và Tin Mừng của Người (Cv 6,3). Thánh Tê-pha-nô là người điển
hình nhất của nhóm được chọn. Trong diễn từ trước vị thượng tế và dân chúng,
thánh nhân đã điểm lại lịch sử dân Do-thái kể từ Áp-ra-ham, nhất là nhân vật
Giu-se, con trai Gia-cóp: “Thiên Chúa cứu
ông khỏi mọi bước ngặt nghèo, cho ông được cảm tình của Pha-ra-ô, vua Ai-cập,
và được khôn ngoan trước mặt nhà vua, khiến nhà vua đặt ông làm tể tướng cai quản
nước Ai-cập và toàn thể hoàng cung” (Cv 7,10). Chính nhờ sự khôn ngoan được
Thiên Chúa ban tặng, Giu-se đã hòa giải với anh em mình và trở thành người cứu
giúp cả dân tộc Do-thái. Hơn nữa, sự khôn ngoan của Giu-se đã tham dự vào chương
trình Thiên Chúa cứu độ nhân loại bởi vì Đức Giê-su, Con Thiên Chúa xuống thế
làm Người, là con cháu vua Đa-vít, con cháu tổ phụ Áp-ra-ham (Mt 1,1). Như vậy, mặc khải Ki-tô Giáo về sự khôn ngoan
và những suy tư của các thánh nhân trong lịch sử về chủ đề này cho phép chúng
ta khái quát rằng sự khôn ngoan của con người là giới hạn, phiến diện,
thiếu sức sống, còn sự khôn ngoan của Thiên Chúa là vô hạn, viên mãn và luôn sống
động.
Tin Mừng Đức Giê-su theo thánh Gio-an cũng như các thư của ngài diễn tả
Đức Giê-su là Ngôi Lời của Thiên Chúa với các phẩm tính và sứ mệnh của Đức Khôn
Ngoan. Hơn nữa, theo thánh Gio-an, trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Đức Giê-su
cho các môn đệ biết rằng Người là Đường (Ga 14,6). Căn tính, đời sống và sứ mệnh
của Đức Giê-su cho chúng ta nhận ra Đường của Người là Đường Khôn Ngoan. Bởi
vì, nhờ Người, nhân loại hiểu biết hơn về sự khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên
Chúa; nhờ Người, nhân loại có thể phân biệt được đâu là khôn ngoan của Thiên
Chúa và đâu là khôn ngoan của con người hay ác thần. Đặc biệt, nhờ Người, nhân
loại cảm nhận được tình yêu nhiệm mầu của Thiên Chúa. Hành trình trần thế của Đức
Giê-su giúp chúng ta rút ra bài học rằng sự khôn ngoan của Thiên Chúa chỉ đến với
những ai biết mở rộng tâm trí, đặt niềm tin tưởng vào quyền năng của Người đối
với bản thân mình cũng như mọi người trong gia đình nhân loại. Đức Giê-su cũng
cho chúng ta biết rằng tri thức và kinh nghiệm thuần túy của con người khó có
thể tiếp cận sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Do đó, con người cần biết hạ mình, trút
bỏ chính mình theo khuôn mẫu Đức Giê-su để có thể đón nhận, sống và diễn tả sự
khôn ngoan của Thiên Chúa.
Dưới nhãn quan Kinh Thánh, con người được Thiên Chúa sáng tạo, được
Thiên Chúa phú bẩm sự khôn ngoan để có thể làm lành, lánh dữ hầu luôn sống xứng
đáng với phẩm giá của mình. Tuy nhiên, con người đã vô ơn, đã kiêu ngạo, đã phạm
tội. Hậu quả là sự khôn ngoan của con người bị méo mó, biến dạng so với hình thức
vốn có ban đầu khi được Thiên Chúa sáng tạo. Do đó, với sự khôn ngoan bị thương
tổn của mình, con người khó có thể thực thi thánh ý Thiên Chúa cách phù hợp. Đặc
biệt, với sự khôn ngoan bị thương tổn của mình, con người không thể tự giải
thoát khỏi quyền lực tội lỗi và sự chết. Đó là lý do tại sao Đức Giê-su đã đi
Đường Khôn Ngoan của Thiên Chúa để đến cùng nhân loại hầu khôi phục phẩm giá và
sự khôn ngoan của con người theo chương trình của Thiên Chúa. Như vậy, với sự
trợ giúp của Đức Giê-su, Đường Khôn Ngoan của Thiên Chúa, sự khôn ngoan của con
người dần được biến đổi và trở nên khí cụ giúp con người vượt qua muôn vàn chướng
ngại trong hành trình trần thế.
Qua dòng lịch sử, nhiều người chủ trương khôn ngoan của con người là vô
hạn. Họ hy vọng rằng, trong tương lai, con người có thể hiểu biết, phân định,
đánh giá và đưa ra những câu trả lời thỏa đáng cho mọi vấn đề liên quan đến bản
thân cũng như muôn vật muôn loài. Điều này có nghĩa là không có gì mà khôn
ngoan của con người không thể vươn tới. Tuy nhiên, mặc khải Ki-tô Giáo cũng như
kinh nghiệm lịch sử cho chúng ta biết khôn ngoan của con người đầy khiếm khuyết,
lắm bất toàn, nhiều giới hạn. Con người không bao giờ hiểu biết mình ‘như mình
là’ hay hiểu biết muôn vật muôn loài ‘như chúng là’. Thánh Phao-lô viết: “Con người sống theo tính tự nhiên thì không
đón nhận những gì của Thần Khí Thiên Chúa, vì cho đó là sự điên rồ; họ không thể
biết được, bởi vì phải nhờ Thần Khí mới có thể xét đoán” (1 Cr 2,14). Chỉ
có khôn ngoan của Thiên Chúa được diễn tả nơi Đức Giê-su, Đường Khôn Ngoan, mới
nâng cấp, giải phóng và trợ giúp khôn ngoan của con người cách xứng hợp. Như vậy,
khi con người càng biết tham chiếu Đường Khôn Ngoan của Đức Giê-su bao nhiêu
thì con người càng được gần gũi và gắn bó với Thiên Chúa bấy nhiêu.
Như đề cập ở trên, sự khôn ngoan mà con người cần đến không chỉ là sự
khôn ngoan tự nhiên mà còn là sự khôn ngoan siêu nhiên, sự khôn ngoan được ban
tặng, sự khôn ngoan hay là ơn khôn ngoan, ơn đầu tiên trong ‘Bảy Ơn Cả của Chúa
Thánh Thần’. Ơn khôn ngoan của Chúa Thánh Thần cho phép con người dõi bước theo
Đường Đức Giê-su trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống mình. Trong thư gửi tín hữu
Cô-rin-tô, thánh Phao-lô viết: “Thần Khí
tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung. Người thì được Thần Khí ban
cho ơn khôn ngoan để giảng dạy, người thì được Thần Khí ban cho ơn hiểu biết để
trình bày… chính Thần Khí duy nhất ấy làm ra tất cả những điều đó và phân chia
cho mỗi người mỗi cách, tùy theo ý của Người” (1 Cr 12,7-11). Nhờ ơn khôn
ngoan của Chúa Thánh Thần, con người mới có thể ở lại, lắng nghe, tin tưởng và
hiệp thông với Thiên Chúa trong mọi biến cố của cuộc đời. Nhờ ơn khôn ngoan của
Chúa Thánh Thần, con người mới có khả năng đón nhận, lĩnh hội và sống theo lời
của Thiên Chúa. Thánh Phao-lô minh định điều này khi viết: “Chúng tôi không dùng những lời lẽ đã học được nơi trí khôn ngoan của
loài người, nhưng dùng những lời lẽ học được nơi Thần Khí; chúng tôi dùng những
lời lẽ Thần Khí linh hứng để diễn tả thực tại thuộc về Thần Khí” (1 Cr
2,13).
Như đề cập ở trên, theo mặc khải Ki-tô Giáo, khôn ngoan đích thực là
khôn ngoan phát xuất từ Thiên Chúa. Người đón nhận khôn ngoan của Thiên Chúa cần
biết chiêm ngắm Đức Giê-su, nhất là cách thức Người diễn tả khôn ngoan bằng
hành động, bằng lối sống, bằng lời rao giảng. Người khôn ngoan đích thực biết
cho đi hơn là lãnh nhận; biết hy sinh hơn là thụ hưởng; biết lắng nghe hơn là
giảng dạy; biết thinh lặng hơn là ồn ào; biết xây dựng bình an hơn là gây chia
rẽ; biết hướng về người khác hơn là hướng về chính mình; biết cam chịu hơn là
phàn nàn; biết dùng thời gian để cảm tạ hơn là than trách số phận; biết nhìn bức
tranh lớn của gia đình nhân loại hơn là bức tranh nhỏ của bản thân mình; biết
chấp nhận bầm dập hơn là tìm kiếm sự an toàn giả tạo; biết hướng về trời cao
hơn là chăm chú nhìn đất thấp; biết để tâm đến kho tàng tình yêu vĩnh cửu hơn
là bám víu hoa lợi trần thế chóng qua mau tàn. Tắt một lời, người khôn ngoan
đích thực biết tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa và thực thi thánh ý
Người cách đầy đủ nhất theo mẫu gương Đức Giê-su.
Người khôn ngoan là người biết quy hướng đời sống luân lý của mình về
giáo huấn của Thiên Chúa. Thánh Phao-lô ca ngợi các tín hữu Rô-ma: “Ai ai cũng biết rằng anh em vâng phục Thiên
Chúa; bởi thế tôi lấy làm vui vì anh em. Nhưng tôi muốn cho anh em khôn ngoan
làm điều tốt, trong sạch không làm điều xấu” (Rm 16,19). Những lời trong
sách Châm Ngôn sau đây đáng để mọi người suy gẫm: “Ai bảo kẻ gian ác rằng ‘anh vô tội!’ thì sẽ bị các dân nguyền rủa, các
nước cười chê. Còn ai răn đe nó, ắt sẽ được mừng vui và phúc lành sẽ đến trên
người đó” (Cn 24,24-25). Nhờ sự khôn ngoan của Thiên Chúa, con người mới có
thể sống công chính, thánh thiện, có tâm hồn ngay thẳng để phân biệt phải trái,
biết cộng tác với Thiên Chúa và với nhau trong việc duy trì muôn vật muôn loài
trong an bình, trật tự (Kn 9,1-3). Những lời của Đức Khôn Ngoan xa xưa vẫn luôn
mang tính thời sự: “Bổng lộc và quà cáp
làm mờ mắt bậc khôn ngoan, khiến miệng họ mắc quai, không còn dám khiển trách” (Hc
20,29); “Ai nghe lời Ta sẽ không phải thẹn
thùng, ai hoạt động trong Ta sẽ không hề phạm tội” (Hc 24,22). Còn thánh
Phao-lô thì khuyên dạy các tín hữu Ê-phê-xô: “Anh em hãy cẩn thận xem xét cách ăn nết ở của mình, đừng sống như kẻ
khờ dại, nhưng hãy sống như người khôn ngoan, biết tận dụng thời buổi hiện tại,
vì chúng ta đang sống những ngày đen tối” (Ep 5,15-16). Do đó, chỉ trong Đức
Giê-su là Đường Khôn Ngoan của Thiên Chúa, con người mới có thể tin tưởng, đón
nhận và thực thi đời sống luân lý của mình cách tốt đẹp, lành thánh.
Trong cuộc sống hằng ngày, nhiều người lầm tưởng rằng người khôn ngoan
là người thông minh, tài giỏi với nhiều kỹ năng, kỹ xảo trổi vượt. Tuy nhiên, mỗi
người cần tập cho mình thái độ dè dặt đối với khả năng trí tuệ, sự thông minh
hay ‘khôn ngoan trần thế’ bởi vì nhiều khi chúng đưa đến cho bản thân cũng như
anh chị em biết bao gian lao khốn khó (Gv 1,18). Thực tế cho thấy có những người
thông giỏi về nhiều lĩnh vực nhưng họ không phải là người khôn ngoan. Theo mặc
khải Ki-tô Giáo, người khôn ngoan đích thực là người biết khiêm tốn nhìn nhận sự
yếu đuối mọn hèn của mình và biết hướng lòng về Thiên Chúa. Người khôn ngoan
đích thực là người ‘nhận ra ý trời’, ‘đọc được ý trời’ và ‘sống theo ý trời’.
Điều này có nghĩa rằng người khôn ngoan đích thực luôn hướng tâm trí về trời
cao, về sự sống đời đời, về Ánh Sáng rạng ngời, bất biến. Người khôn ngoan đích
thực không cho rằng mình hiểu biết mọi sự mà là người chấp nhận những giới hạn
của bản thân và cậy dựa vào ‘ơn trên’ trong mọi hoàn cảnh. Theo sách Huấn Ca: “Khôn ngoan xa cách kiêu ngạo, và vắng bóng
trong tâm tưởng những người gian dối” (Hc 15,8). Đặc biệt, theo giáo huấn của
Đức Giê-su, người khôn ngoan là người biết luôn tìm kiếm sự thật, tôn trọng sự
thật và hành động theo sự thật cho dù phải chịu đau khổ, thiệt thòi, thậm chí
phải hy sinh tính mạng (Lc 9,23-27).
Đức Giê-su là Sự Thật, là Thiên Chúa thật và con người thật. Do đó, Người
vừa là sự khôn ngoan đích thực của Thiên Chúa vừa là sự khôn ngoan trọn hảo của
con người. Thánh Phao-lô diễn tả rõ hơn về điều này: “Chính nhờ Thiên Chúa mà anh em được hiện hữu trong Đức Ki-tô Giê-su, Đấng
đã trở nên sự khôn ngoan của chúng ta, sự khôn ngoan phát xuất từ Thiên Chúa, Đấng
đã làm cho anh em trở nên công chính, đã thánh hoá và cứu chuộc anh em, hợp như
lời đã chép rằng: Ai tự hào thì hãy tự hào trong Chúa” (1 Cr 1,30-31). Theo
thánh Phao-lô, Đức Giê-su vừa là Đấng Khôn Ngoan, vừa là Nguồn khôn ngoan và là
Đấng làm cho mọi người được khôn ngoan hầu có thể sống xứng hợp với ơn gọi
Ki-tô hữu của mình. Mọi người được mời gọi đến với Đức Giê-su là Đường Khôn
Ngoan và cũng là Đức Khôn Ngoan vĩnh cửu của Thiên Chúa, bởi vì: “Đức Khôn Ngoan sáng chói, và không hề tàn
tạ. Ai mến chuộng Đức Khôn Ngoan, thì Đức Khôn Ngoan dễ dàng cho chiêm ngưỡng.
Ai tìm kiếm Đức Khôn Ngoan, thì Đức Khôn Ngoan cho gặp. Ai khao khát Đức Khôn
Ngoan, thì Đức Khôn Ngoan đi bước trước mà tỏ mình cho biết” (Kn 6,12-13).
Như vậy, để khỏi sa vào các hình thức khôn ngoan giả tạo đang hoành hành nơi trần
thế, mọi người cần dõi theo Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa trong Cựu Ước được diễn
tả nơi Đức Giê-su, Đường Khôn Ngoan của Thiên Chúa trong Tân Ước.
Ai dõi theo Đức Giê-su, là Đường Khôn Ngoan của
Thiên Chúa, thì được mời gọi sống theo những tiêu chuẩn và giá trị mà Đức
Giê-su truyền dạy, đồng thời, nhiệt tâm loan báo Đức Giê-su cho anh chị em đồng
loại bởi vì “trong Người
có cất giấu mọi kho tàng của sự khôn ngoan và hiểu biết” (Cl 2,3). Trước khi bước vào cuộc thương khó, Đức
Giê-su căn dặn các môn đệ rằng Người sẽ ban ơn khôn ngoan để giúp họ làm chứng
cho Người cũng như Tin Mừng của Người giữa những bấp bênh, đau khổ và khó khăn
của sứ vụ: “Người ta sẽ tra tay bắt và
ngược đãi anh em, nộp anh em cho các hội đường và bỏ tù, điệu anh em đến trước
mặt vua chúa quan quyền vì danh Thầy. Đó sẽ là cơ hội để anh em làm chứng cho
Thầy. Vậy anh em hãy ghi lòng tạc dạ điều này, là anh em đừng lo nghĩ phải bào chữa
cách nào. Vì chính Thầy sẽ cho anh em ăn nói thật khôn ngoan, khiến tất cả địch
thủ của anh em không tài nào chống chọi hay cãi lại được” (Lc 21,12-15).
Trong Bữa Ăn Cuối Cùng, Đức Giê-su cho các môn đệ biết rằng Người là Bạn của họ
(Ga 15,14-15). Điều này gợi lên trong chúng ta về vai trò của Đức Khôn Ngoan
trong Cựu Ước: “Đức Khôn Ngoan ngự vào những
tâm hồn thánh thiện, biến họ nên bạn hữu của Thiên Chúa, nên ngôn sứ của Người”
(Kn 7,27). Như vậy, nhờ Đức Khôn
Ngoan, nhờ Đức Giê-su là Đường Khôn Ngoan và là Bạn, các tín hữu trở thành bạn
hữu của Thiên Chúa cũng như ngôn sứ của Người trong gia đình nhân loại.
Những trình bày trên đây cho phép chúng ta kết luận rằng giữa muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo, con người được Thiên Chúa phú ban sự khôn ngoan để nhận ra và thực thi thánh ý Người. Tuy nhiên, con người đã không sử dụng sự khôn ngoan của mình cách xứng hợp. Chính vì thế, Thiên Chúa đã gửi Đức Giê-su là Khôn Ngoan của Thiên Chúa đến với gia đình nhân loại để ‘nhờ Đức Giê-su, với Đức Giê-su và trong Đức Giê-su’, sự khôn ngoan của con người được khôi phục, biến đổi và trở nên khí cụ giúp con người tin tưởng và thực thi thánh ý Thiên Chúa hầu được hưởng ơn cứu độ. Giáo huấn Đức Giê-su cho phép chúng ta nhận thức rằng Thiên Chúa là Đấng khôn ngoan, Nguồn Gốc khôn ngoan và chia sẻ khôn ngoan của Người cho nhân loại. Chương trình sáng tạo, cứu chuộc và thánh hóa diễn tả sự khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên Chúa, sự khôn ngoan vượt trên các hình thức cảm nhận, phân định và hiểu biết của con người. Hành trình trần thế của Đức Giê-su cũng là hành trình diễn tả sự khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên Chúa. Ai theo Đức Giê-su, Đường Khôn Ngoan của Thiên Chúa cách trung tín và xứng hợp thì phân biệt được khôn ngoan thật và khôn ngoan giả, khôn ngoan Thiên Chúa và khôn ngoan thế gian, khôn ngoan thượng xuất từ tình yêu Thiên Chúa và khôn ngoan hạ khởi từ bóng tối của ác thần, khôn ngoan đem lại sự sống vĩnh cửu và khôn ngoan dẫn tới sự chết muôn đời. Ước gì mọi người trong gia đình nhân loại biết luôn gắn bó và đồng hành với Đức Giê-su là Đường Khôn Ngoan của Thiên Chúa trong hành trình trần thế này, hầu đạt tới bến bờ hạnh phúc muôn đời.