ĐỨC GIÊ-SU KI-TÔ – ĐƯỜNG HIỆP NHẤT
NÊN MỘT
Gm. Phê-rô Nguyễn Văn Viên
WHĐ (08.10.2023) – Trong Kinh Thánh Cựu Ước, từ hiệp nhất được diễn tả
dưới hai hình thức phân biệt nhau, đó là: (1) Hiệp nhất của các thành phần
(compound unity) và (2) hiệp nhất tuyệt đối (absolute unity, only, only one). Hạn
từ hiệp nhất của các thành phần là אֶחָֽד/
echad. Theo nguyên nghĩa, אֶחָֽד/ echad là ‘số một’: Một Đức
Chúa (Đnl 6,4), mỗi chi tộc một người (Đnl 1,23), một trong anh em (St 42,19)
hoặc một nơi chốn (St 1,9). Gốc từ này được mở ra với nghĩa ‘kết thành một khối’
cho sự vật, chẳng hạn như: “Nhà Tạm kết lại thành một khối duy
nhất” (Xh 36,13) hay: “Ngươi
ráp hai miếng (gỗ)
lại với nhau cho thành một miếng duy nhất [אֶחָֽד/ echad]; chúng chỉ còn là một trong tay ngươi”
(Ed 37,17); hoặc cho một dân, chẳng hạn
như: “Đến tháng thứ bảy, lúc con
cái Ít-ra-en đang ở trong thành của họ, thì dân họp nhau tại Giê-ru-sa-lem,
muôn người như một [אֶחָֽד/ echad]” (Er 3,1). Hạn từ hiệp nhất
tuyệt đối có gốc là יָחִיד/ yachid
với nghĩa: Duy nhất (St 22,2; Gr 6,26; Tl 11,34), hoặc cô đơn, một mình (Tv
25,16). Từ đó, hạn từ này được dùng để chỉ về ‘con một’, ‘con duy nhất’, ‘độc
nhất’, chẳng hạn như Thiên Chúa nói với Áp-ra-ham: “Hãy đem con của ngươi, đứa con một [יָחִיד/ yachid] yêu dấu của ngươi
là I-xa-ác, hãy đi đến xứ Mô-ri-gia mà dâng nó làm lễ toàn thiêu ở đấy, trên một
ngọn núi Ta sẽ chỉ cho” (St 22,2) hay: “Ta
sẽ làm cho đất này chịu tang như người ta chịu tang đứa con một [יָחִיד/ yachid]
và kết cục của nó như một ngày cay đắng” (Am 8,10).
Kinh Thánh Tân Ước được
viết bằng tiếng Hy-lạp có từ ἑνότης/ henotēs, nghĩa là hiệp nhất (unité,
unity). Từ này chỉ xuất hiện hai lần trong Tân Ước: “Anh em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất [ἑνότητα] mà Thần Khí đem lại,
bằng cách ăn ở thuận hòa gắn bó với nhau” (Ep 4,3) và “Dân thánh được chuẩn bị để làm công việc phục vụ, là xây dựng thân thể
Đức Ki-tô, cho đến khi tất cả chúng ta đạt tới sự hiệp nhất [ἑνότητα] trong đức
tin và trong sự nhận biết Con Thiên Chúa, tới tình trạng con người trưởng
thành, tới tầm vóc viên mãn của Đức Ki-tô” (Ep 4,12-13). Bên cạnh đó, Tân Ước
còn dùng hạn từ ‘ὁμόφρων/ đồng tâm nhất trí’ để nói về sự hiệp nhất với nhau: “Tất
cả anh chị em hãy đồng tâm nhất trí” (1 Pr 3,8). Ngoài ra, Tân
Ước cũng dùng hạn từ ‘εἷς/ μία/ ἕν: số một’ để diễn tả ‘nên một’ tương tự như אֶחָֽד/ echad của tiếng Do-thái, chẳng
hạn như ‘Tôi với Cha là một’ (Ga 10,30) hoặc ‘để tất cả nên một’
(Ga 17,21-22) hoặc ‘các tín hữu thời bấy giờ đông đảo, mà
chỉ có một lòng một ý’ (Cv 4,32). Khi so sánh hạn từ אֶחָֽד/
echad của tiếng Do-thái và hạn từ εἷς/ μία/ ἕν của tiếng Hy-lạp, chúng ta thấy
có nhiều nghĩa tương đồng, thiên về nghĩa thiêng liêng, chẳng hạn như sự hiệp
nhất, duy nhất hay độc nhất, trọn vẹn của Thiên Chúa, sự nên một giữa Đức
Giê-su với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, sự nên một của con người với Thiên Chúa
nhờ nên một với Đức Giê-su, và cũng nhờ đó mà nên một với nhau. Trong khi đó, hạn
từ ἑνότης/ henotēs của tiếng Hy-lạp thiên về nghĩa thể lý hơn, chẳng hạn như sự
hiệp nhất của các cá nhân về mục đích chung nào đó. Do vậy, chúng ta có thể nói
rằng những người hiệp nhất (unity) với nhau không nhất thiết nên một (oneness)
với nhau, còn những người nên một với nhau thì dĩ nhiên hiệp nhất với nhau. Nói
cách khác, ‘nên một’ bao hàm ‘hiệp nhất’, còn ‘hiệp nhất’ không nhất thiết bao
hàm ‘nên một’. Chẳng hạn, dưới nhãn quan mặc khải Ki-tô Giáo, tương quan giữa
người vợ với người chồng khi họ ‘nên một xương một thịt với nhau’ phân biệt với
tương quan hiệp nhất giữa người nam với người nữ là bạn bè của nhau.
Ý niệm hiệp nhất được
đề cập trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống con người, chẳng hạn như sự hiệp
nhất về mục đích, sự hiệp nhất về hành động, sự hiệp nhất về nguồn gốc, sự hiệp
nhất của các thực thể mà con người có thể kinh nghiệm. Trong xã hội dân sự, người
ta thường cổ vũ sự hiệp nhất của các thành phần trong các hình thức tập thể, chẳng
hạn như sự hiệp nhất của những người trong nhà máy, xí nghiệp, hội đoàn hay sự
hiệp nhất dân sự trong các lĩnh vực văn hóa, kinh tế, môi trường. Trong gia
đình nhân loại, người ta thường đề cập sự hiệp nhất của những người trong cùng bộ
tộc, sắc tộc hay quốc gia. Trên bình diện lớn hơn, người ta thường đề cập sự hiệp
nhất của muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo về nguồn gốc hay tiến trình biến
đổi. Sự hiệp nhất mà trong đó mọi thực thể đều liên hệ chặt chẽ với nhau, không
có thực thể nào được gọi là ‘độc lập tuyệt đối’. Sự hiện diện và hoạt động của
thực thể này trở thành điều kiện cần thiết cho sự hiện diện và hoạt động của thực
thể khác. Các thực thể tồn tại cho nhau, định dạng lẫn nhau và cùng nhau phát
triển. Trong tiến trình đó, không thực thể nào được xem là trung tâm luôn mãi,
cũng không thực thể nào chỉ là tùy phụ.
Sách Sáng Thế cho
chúng ta biết rằng Thiên Chúa sáng tạo con người cũng như muôn vật muôn loài.
Thuở ban đầu, con người được sống trong tình hiệp nhất với Thiên Chúa, với nhau
và với muôn vật muôn loài. Tuy nhiên, Nguyên Tổ loài người đã vô ơn, kiêu ngạo,
vâng theo sự dụ dỗ của Xa-tan và hậu quả là tội lỗi đã xâm nhập trần gian. Vì tội
lỗi, sự hiệp nhất giữa con người với Thiên Chúa, với nhau và với muôn vật muôn
loài trong thế giới thụ tạo bị đổ vỡ, méo mó, biến dạng. Qua muôn thế hệ, Tội
Nguyên Tổ và hậu quả của Tội này tiếp tục làm cho con người hướng chiều về sự dữ,
chống đối lẫn nhau, bất hòa bất thuận. Đặc biệt, vì tội lỗi, con người thường ích
kỷ, tìm lợi ích cho mình hay cho các hình thức cộng đoàn mà mình tham dự hơn là
lợi ích cho người khác hay các hình thức cộng đoàn mà mình không gắn bó. Hậu quả
là chiến tranh, hận thù, chia rẽ giữa người với người, dân tộc với dân tộc, quốc
gia với quốc gia luôn xảy ra trong lịch sử nhân loại. Tuy nhiên, tận đáy lòng,
con người không ngừng khao khát sự hiệp nhất, hòa hợp, liên đới đích thực trong
đời sống nội tâm cũng như trong gia đình, tổ quốc hay giữa các dân tộc.
Dân Do-thái là dân được
Thiên Chúa tuyển chọn để Người mặc khải chương trình khôi phục sự hiệp nhất vốn
có thuở ban đầu sáng tạo. Qua dòng lịch sử, kể từ Áp-ra-ham, dân Do-thái luôn
tuyên xưng và kính thờ Thiên Chúa duy nhất, chân thật, ngoài Người ra không có
thần nào khác (Xh 20,3; Đnl 5,7; Tv 86,10; Is 45,5; Hs 13,4). Giữa các tôn giáo
đa thần vùng Địa Trung Hải thời Cựu Ước, nhất là ở Pa-lét-tin, dân Do-thái nhận
được mặc khải Thiên Chúa là Đấng duy nhất. Trong sách Xuất Hành, Mô-sê nói với
dân Do-thái: “Thiên Chúa phán tất cả những
lời sau đây: Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi đất
Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ. Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta”
(Xh 20,1-3). Niềm tin vào Thiên Chúa duy nhất được Mô-sê công bố long trọng
trong sa mạc trên đường từ Ai-cập về Đất Hứa: “Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy
nhất [אֶחָֽד/ echad]” (Đnl 6,4). Tiếp tục truyền thống mặc khải, sách
Nơ-khe-mi-a (được viết trong khoảng 424-400 trước Công Nguyên) củng cố niềm tin
của dân Do-thái về Thiên Chúa duy nhất, chính Người sáng tạo và ban sự sống cho
muôn vật muôn loài: “Chính Ngài là Đức
Chúa, là Đức Chúa duy nhất. Chính Ngài đã tạo dựng các tầng trời, các tầng trời
cao ngất, cùng toàn thể thiên binh; chính Ngài đã tạo dựng trái đất với muôn vật
khắp nơi, biển khơi cùng muôn loài trong đó. Chính Ngài ban sự sống cho muôn vật
muôn loài; và đạo binh thiên quốc phủ phục trước Thánh Nhan” (Nkm 9,6).
Tương quan giữa Thiên
Chúa duy nhất với dân Do-thái được thể hiện qua các giao ước, chẳng hạn như
giao ước giữa Thiên Chúa với Áp-ra-ham, với Mô-sê, với Đa-vít. Một trong những
chủ đề xuyên suốt các giao ước này là dân Do-thái phải trung tín phụng thờ
Thiên Chúa duy nhất. Người nói với Áp-ra-ham: “Ta sẽ là Thiên Chúa của ngươi và của dòng dõi ngươi sau này” (St
17,7). Trong sa mạc, Thiên Chúa nói với Mô-sê: “Ta sẽ nhận các ngươi làm dân riêng của Ta” (Xh 6,7); “Ta sẽ ngự giữa con cái Ít-ra-en và sẽ là
Thiên Chúa của chúng” (Xh 29,45). Dưới nhãn quan Cựu Ước, dòng dõi
Áp-ra-ham không chỉ là những người Do-thái mà là muôn người. Chẳng hạn, khi
Thiên Chúa đổi tên Áp-ram thành Áp-ra-ham cũng là khi Thiên Chúa cho ông biết rằng
ông là cha của vô số dân tộc (St 17,5). I-xa-ác (con của Áp-ra-ham) xin Thiên
Chúa chúc phúc cho con trai mình là Gia-cóp: “Xin Thiên Chúa toàn năng chúc phúc cho con, xin Người làm cho con sinh
sôi nảy nở thật nhiều, để con trở nên một cộng đồng nhiều dân nước” (St
28,3). Các sách Cựu Ước cho chúng ta biết rằng lời hứa của Thiên Chúa với dân
Do-thái luôn được thực hiện, còn dân này thường phản nghịch, bất trung, chạy
theo tà thần dân ngoại hoặc thần do họ dựng nên. Tuy nhiên, Thiên Chúa duy nhất
cũng là Thiên Chúa trung tín với dân Do-thái cũng như muôn dân muôn nước. Quả
thực, khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con của Người là Đức
Giê-su đến trần gian để khôi phục và kiện toàn sự hiệp nhất giữa Thiên Chúa với
con người cũng như muôn vật muôn loài.
Được sinh ra và lớn
lên trong dân tộc Do-thái, Đức Giê-su thừa hưởng những đặc tính truyền thống,
văn hóa và xã hội của tổ tiên, chẳng hạn như Người vẫn đến hội đường ngày
sa-bát hay cùng với cha mẹ lên Giê-ru-sa-lem để tham dự các ngày lễ lớn (Lc
2,41-50). Trong hành trình loan báo Tin Mừng, Người tiếp tục khẳng định ‘Thiên
Chúa duy nhất’. Chẳng hạn, sau khi chịu phép rửa bởi Gio-an Tẩy Giả, Đức Giê-su
chịu cám dỗ trong sa mạc (Mt 4,1-11). Quỷ đem Người lên ngọn núi rất cao và bảo:
“Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu
ông sấp mình bái lạy tôi” (Mt 4,9). Đức Giê-su đáp lại: “Xa-tan kia, xéo đi! Vì đã có lời chép rằng:
Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một
mình Người mà thôi” (Mt 4,10). Thánh Mác-cô trình thuật rằng: “Có một người trong các kinh sư đã nghe Đức Giê-su
và những người thuộc nhóm Xa-đốc tranh luận với nhau. Thấy Đức Giê-su đối đáp
hay, ông đến gần Người và hỏi: Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng
đầu? Đức Giê-su trả lời: Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Ít-ra-en, Đức
Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa,
Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực
ngươi” (Mc 12,28-30). Đức Giê-su lặp lại điệp khúc mặc khải Cựu Ước rằng
Thiên Chúa là Đấng duy nhất, Danh Người là Danh duy nhất, ngoài Người ra không
có thần nào khác nữa, chẳng có thần công minh cứu độ ngoại trừ Người (Is 45,21;
Dcr 14,9).
Cách tiệm tiến, Đức
Giê-su mặc khải về căn tính, đời sống và sứ mệnh của Người. Ban đầu, Đức Giê-su
cho mọi người biết Thiên Chúa là Cha của Người. Đây là điều mà đa số người
Do-thái khó đón nhận, ngay cả những người đạo đức thánh thiện nhất. Chẳng hạn,
khi Đức Giê-su được mười hai tuổi, Người lên Giê-ru-sa-lem dự lễ, sau đó, cha mẹ
Người trở về Na-da-rét và tưởng rằng Người cũng trở về cùng đoàn lữ hành. Tuy
nhiên, khi biết Người đã không trở về thì các ngài trở lại Giê-ru-sa-lem tìm kiếm.
Sau ba ngày, họ tìm thấy Người trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem giữa các thầy dạy. Đức
Ma-ri-a nói với Đức Giê-su: “Con ơi, sao
con lại xử với cha mẹ như vậy?” (Lc 2,48). Đức Giê-su trả lời: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết
là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?" (Lc 2,49). Còn thánh Gio-an
thì trình thuật rằng khi đến dịp Lễ Vượt Qua của người Do-thái, Đức Giê-su lên
Đền Thờ Giê-ru-sa-lem và thấy người ta bán chiên, bò, bồ câu, đổi tiền. Người
đã đánh đuổi họ và nói: “Đem tất cả những
thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán” (Ga 2,16).
Khi người Do-thái chống đối Đức Giê-su vì Người chữa bệnh, nghĩa là làm việc
trong ngày sa-bát thì Người nói với họ: “Cho
đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc” (Ga 5,17). Trước khi
Đức Giê-su bị bắt, tại núi Ô-liu, Người cầu nguyện cùng Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin tha cho con khỏi
uống chén này. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Lc 22,42).
Trong cuộc thương khó, Đức Giê-su thân thưa cùng Chúa Cha: “Áp-ba, Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin
đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha muốn” (Mc 14,36). Như vậy, Đức
Giê-su hằng vâng phục Chúa Cha trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống Người.
Khi giảng dạy cho các
môn đệ hay tiếp xúc với đám đông, Đức Giê-su thường trình bày về trật tự giữa
Người với Chúa Cha cũng như sự cao cả của Chúa Cha. Chẳng hạn, trong bài giảng về
cánh chung, Người nói: “Trời đất sẽ qua
đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu. Còn về ngày hay giờ đó thì không
ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay người Con cũng không, chỉ có
Chúa Cha biết mà thôi” (Mc 13,31-32). Trong Bữa Ăn Cuối Cùng trước khi bước
vào cuộc khổ nạn, Đức Giê-su nói với các môn đệ thân tín: “Anh em đã nghe Thầy bảo ‘Thầy ra đi và đến cùng anh em’. Nếu anh em
yêu mến Thầy, thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đi về cùng Chúa Cha, bởi vì
Chúa Cha cao trọng hơn Thầy” (Ga 14,28). Tại sao Đức Giê-su lại nói rằng
‘Chúa Cha cao trọng hơn Thầy’? Tác giả thư gửi tín hữu Do-thái cho chúng ta câu
trả lời: “Con người đã bị thua kém các
thiên thần trong một thời gian ngắn, thì chúng ta lại thấy được Thiên Chúa ban
vinh quang danh dự làm mũ triều thiên, bởi vì đã cam chịu tử hình. Con người
đó, chính là Đức Giê-su. Thật vậy, Đức Giê-su đã phải nếm sự chết, là để cho mọi
người được cứu độ, nhờ ơn Thiên Chúa” (Dt 2,9). Thánh Phao-lô cũng cho
chúng ta biết rằng Đức Giê-su vốn dĩ là Thiên Chúa nhưng đã vâng phục, khiêm hạ,
trút bỏ chính mình hầu thực thi và diễn tả tình yêu cứu độ của Thiên Chúa cho mọi
người (Pl 2,6-8).
Là Thiên Chúa trong
thân phận con người, Đức Giê-su luôn mời gọi mọi người hướng về Chúa Cha chứ
không phải hướng về Người. Câu mở đầu của trình thuật Tin Mừng theo thánh
Gio-an cho chúng ta biết: “Lúc khởi đầu
đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa”
(Ga 1,1). Khi giảng dạy các môn đệ, Đức Giê-su nói họ: “Phần anh em, thì đừng để ai gọi mình là ‘ráp-bi’, vì anh em chỉ có một
Thầy; còn tất cả anh em đều là anh em với nhau. Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất
này là cha của anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời” (Mt
23,8-9). Như vậy, sự hiệp nhất giữa Đức Giê-su với Chúa Cha luôn là ‘sự hiệp nhất
có hướng’, hướng về Chúa Cha. Tương tự như vậy, sự hiệp nhất giữa Đức Giê-su với
các môn đệ cũng như giữa các môn đệ với nhau cũng là sự hiệp nhất có hướng, hướng
về Chúa Cha. Đây là điểm đáng để chúng ta quan tâm bởi vì chúng ta thường có
kinh nghiệm về sự hiệp nhất theo ‘lối ngang bằng’, chẳng hạn như sự hiệp nhất của
những người trong các hình thức tập thể của xã hội dân sự. Trong thư gửi tín hữu
Phi-líp-phê, thánh Phao-lô viết: “Tôi chạy
thẳng tới đích, để chiếm được phần thưởng từ trời cao Thiên Chúa dành cho kẻ được
Người kêu gọi trong Đức Ki-tô Giê-su. Vậy tất cả chúng ta là những người hoàn
thiện, chúng ta hãy nghĩ như vậy; và giả như có điểm nào anh em nghĩ khác, thì
Thiên Chúa sẽ mặc khải cho anh em. Song, dù đạt tới đâu đi nữa, chúng ta cũng cứ
theo hướng ấy mà đi” (Pl 3,14-16). Đối với thánh nhân, chỉ trong Đức
Giê-su, con người mới có thể hiệp nhất trọn vẹn với Thiên Chúa, Cha của Người và
cũng là Cha của mọi người trong gia đình nhân loại.
Trong hành trình trần
thế, Đức Giê-su luôn thể hiện Người là ‘khuôn mặt nhân loại’ của Thiên Chúa.
Câu cuối cùng trong Lời Tựa Tin Mừng theo trình thuật của thánh Gio-an là: “Không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ; nhưng
Con Một là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã
tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1,18). Đặc biệt, trình thuật Tin Mừng theo thánh
Gio-an cho chúng ta biết Đức Giê-su khẳng định rằng Người và Chúa Cha là Một
(Ga 10,30). Trong Bữa Ăn Cuối Cùng, Phi-líp-phê nói với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa
Cha, như thế là chúng con mãn nguyện?” (Ga 14,8). Người trả lời: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại
nói ‘Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha?’ Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa
Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao?” (Ga 14,9-10). Nhiều trình thuật trong các
Tin Mừng Nhất Lãm, Đức Giê-su cũng cho mọi người biết tương quan mật thiết giữa
Người với Chúa Cha, chẳng hạn như: “Cha
tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha;
cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mặc
khải cho” (Mt 11,27) hay: “Ai xấu hổ
vì tôi và những lời của tôi, thì Con Người cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy, khi Người
ngự đến trong vinh quang của mình, của Chúa Cha và các thánh thiên thần”
(Lc 9,26); “Anh em vẫn một lòng gắn bó với
Thầy, giữa những lúc Thầy gặp thử thách gian nan. Vì thế, Thầy sẽ trao Vương Quốc
cho anh em, như Cha Thầy đã trao cho Thầy, để anh em được đồng bàn ăn uống với Thầy
trong Vương Quốc của Thầy, và ngự tòa xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en” (Lc
22,28-30). Những trích đoạn này giúp các tín hữu ngày càng được củng cố niềm
tin và hy vọng vào sự hiệp nhất trọn vẹn mà Đức Giê-su loan báo và minh chứng.
Trong Tin Mừng, Đức
Giê-su không dùng từ ‘hiệp nhất’ để nói về tương quan giữa Người với Chúa Cha cũng
như giữa Người với các môn đệ mà lại nói ‘nên một’ hay ‘là một’ với Chúa Cha, với
các môn đệ. Chẳng hạn, trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Đức Giê-su cầu nguyện
cùng Chúa Cha cho các môn đệ: “Con không
còn ở trong thế gian nữa, nhưng họ, họ ở trong thế gian; phần con, con đến cùng
Cha. Lạy Cha chí thánh, xin gìn giữ các môn đệ trong danh Cha mà Cha đã ban cho
con, để họ nên một như chúng ta” (Ga 17,11). Người không chỉ cầu nguyện cho
các môn đệ mà còn cho những người nhờ các môn đệ mà tin vào Người như sau: “Con không chỉ cầu nguyện cho những người
này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con, để tất cả nên một, như
Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta. Như vậy, thế
gian sẽ tin rằng Cha đã sai con” (Ga 17,20-21). Với Đức Giê-su, chương
trình tình yêu của Thiên Chúa trở nên trọn vẹn khi mọi người được nên một với Người
và với Chúa Cha: “Phần con, con đã ban
cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho con, để họ được nên một như chúng ta là một:
Con ở trong họ và Cha ở trong con, để họ được hoàn toàn nên một; như vậy, thế
gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai con và đã yêu thương họ như đã yêu thương
con” (Ga 17,22-23). Như đề cập ở trên, nghĩa của ‘nên một’ hay ‘là một’ bao
hàm nghĩa của ‘hiệp nhất’ nhưng nghĩa của ‘hiệp nhất’ không nhất thiết bao hàm
nghĩa của ‘nên một’ hay ‘là một’. Chúng ta có thể nói rằng tương quan giữa Đức
Giê-su với Chúa Cha là tương quan ‘hiệp nhất nên một’. Sự hiệp nhất nên một giữa
Đức Giê-su với Chúa Cha huyền nhiệm hơn tất cả các hình thức hiệp nhất nên một
mà con người có thể kinh nghiệm trong cuộc sống mình. Chẳng hạn, sách Sáng Thế
cho chúng ta biết: “Người đàn ông lìa cha
mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt” (St 2,24). Xét
về mặt từ ngữ ‘hiệp nhất nên một’ thì giống nhau (אֶחָֽד/ echad) nhưng thực tế,
‘sự nên một vợ chồng’ không thể so sánh với ‘sự nên một giữa Đức Giê-su với Chúa
Cha’.
Sứ mệnh căn bản của Đức
Giê-su trong hành trình trần thế là giải thoát con người khỏi ách nô lệ tội lỗi
và sự chết, đồng thời, dẫn đưa con người về với Thiên Chúa. Chẳng hạn, bên bờ
Biển Hồ Ga-li-lê, khi dân chúng lâm cảnh đói khát thì Người đã hóa bánh ra nhiều
cho họ ăn. Từ năm chiếc bánh và hai con cá, Đức Giê-su đã cho hơn năm ngàn người
ăn, lại còn dư mười hai thúng (Ga 6,1-13). Thấy vậy, dân Do-thái định tôn Người
làm vua nhưng Người đã lánh mặt đi lên núi một mình (Ga 6,14-15). Trong diễn từ
tại Ca-phác-na-um, Đức Giê-su nói với những người Do-thái: “Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát,
nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực
Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã
ghi dấu xác nhận” (Ga 6,27). Khi Đức Giê-su bị bắt và dẫn tới tổng trấn
Phi-la-tô. Ông này hỏi Đức Giê-su ‘có phải là vua dân Do-thái không?’ thì Người
trả lời: “…Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian
này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do-thái. Nhưng
thật ra Nước tôi không thuộc chốn này” (Ga 18,33-36). Như vậy, Nước của Đức
Giê-su không phải là thực tại mà con người có được kinh nghiệm trọn vẹn nhưng
là thực tại bén rễ trong lịch sử nhờ sự hiện diện cũng như hoạt động của Người
hướng về ‘môi trường vĩnh cửu’ của Thiên Chúa.
Để có thể hiệp nhất với
nhau trong đời sống đức tin, Đức Giê-su mời gọi mọi người duy trì sự hiệp nhất trong
thực hành, trong bình an và hòa giải. Chẳng hạn, khi triển khai bài giảng Tám Mối
Phúc, Đức Giê-su nói với mọi người rằng: “Nếu
khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện
bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người
anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5,23-24). Đặc biệt, Đức
Giê-su mời gọi mọi người hãy chân thành sửa lỗi cho nhau để có thể hiệp nhất với
nhau theo thánh ý Người. Chẳng hạn, khi trong cộng đoàn Giáo Hội có người anh
em phạm tội thì tiến trình hòa giải gồm bốn bước như sau: (1) nói chuyện riêng
với người đó; (2) nếu người đó không nghe thì mời một hay hai người nữa để trợ
giúp; (3) nếu người đó cũng không nghe thì thưa với Giáo Hội; (4) cuối cùng, nếu
người đó không nghe Giáo Hội thì xem như là người ngoại hoặc người thu thuế (Mt
18,16-17). Quả thực, cách thức sửa lỗi theo sự hướng dẫn của Đức Giê-su vừa thể
hiện tình yêu Thiên Chúa theo giáo huấn của Người, vừa đem lại sự hiệp nhất cho
những ai nhìn nhận Đức Giê-su là Thầy và là Bạn của mình. Đức Giê-su còn dạy
các môn đệ: "Thầy còn bảo thật anh
em: Nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì
Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho. Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân
danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ” (Mt 18,19-20). Như vậy, nơi nào có
hiệp nhất đích thực thì nơi đó có sự hiện diện và hoạt động của Đức Giê-su. Đồng
thời, nơi nào có sự hiện diện và hoạt động của Đức Giê-su thì nơi đó lời cầu khẩn
của mọi người được Chúa Cha chấp nhận.
Vì yêu thương con người,
Đức Giê-su đã đến trần gian để mời gọi mọi người hiệp nhất với nhau và cùng
nhau sống trong tình yêu của Thiên Chúa, tình yêu mà con người đánh mất vì bất
phục tùng. Tình yêu đó trở thành ‘giới răn mới’ cho mọi người như Đức Giê-su nói
với các môn đệ trong Bữa Ăn Cuối Cùng: “Thầy
ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu
thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn
đệ của Thầy ở điểm này: Là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,33-34). Ai
yêu thương đích thực thì hiệp nhất đích thực và ngược lại. Khi dùng hình ảnh
cây nho và cành nho để diễn tả sự hiệp nhất giữa Người với các môn đệ, Đức
Giê-su nói: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế
nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của
Thầy. Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của
Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của
Người” (Ga 15,9-10). Những lời cuối cùng của Đức Giê-su với Chúa Cha trước
khi bước vào cuộc khổ nạn giúp chúng ta hiểu thêm điều này: “Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những
người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của
con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yêu thương con trước khi thế
gian được tạo thành. Lạy Cha là Đấng công chính, thế gian đã không biết Cha,
nhưng con, con đã biết Cha, và những người này đã biết là chính Cha đã sai con.
Con đã cho họ biết danh Cha, và sẽ còn cho họ biết nữa, để tình Cha đã yêu thương
con, ở trong họ, và con cũng ở trong họ nữa” (Ga 17,24-26). Như vậy, yêu
thương và hiệp nhất giữa người với người trong gia đình nhân loại trở thành hiện
thực khi mọi người biết quy chiếu về ‘giới răn mới’ của Đức Giê-su.
Một trong những hình ảnh
nổi bật diễn tả tình yêu thương và hiệp nhất giữa Đức Giê-su với mọi người là
hình ảnh ‘mục tử và đoàn chiên’. Đây là hình ảnh gắn liền với các dân tộc miền
Pa-lét-tin, đặc biệt với dân Do-thái. Khi dùng hình ảnh đó để diễn tả tương
quan giữa Người với mọi người, Đức Giê-su nói: “Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp
được đồng cỏ” (Ga 10,9). Người là Mục Tử Nhân Lành, Mục Tử duy nhất của
đoàn chiên duy nhất (Ga 10,11-15). Sứ mệnh của Người là sứ mệnh quy tụ mọi người
trong gia đình nhân loại: “Tôi còn có những
chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng
tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử” (Ga 10,16). Đối với Đức
Giê-su, ai hiệp nhất với Người trong hành trình trần thế thì hiệp nhất với Người
trong sự sống vĩnh cửu: “Chiên của tôi
thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống
đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi
tay tôi” (Ga 10,27-28). Với hình ảnh mục tử và đoàn chiên, Đức Giê-su cho mọi
người biết rằng Người là Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa với gia đình
nhân loại để dẫn đưa mọi người tới sự sống dồi dào, sự sống viên mãn, sự sống đời
đời (Ga 10,10).
Quả thực, với sự hiện
diện và hoạt động của Đức Giê-su, sự sống đời đời đã hiện diện và hoạt động giữa
trần gian. Nhờ Đức Giê-su, con người mới có được ‘định nghĩa sự sống đời đời’.
Trong lời nguyện cuối cùng của Người với Chúa Cha trước khi bước vào cuộc khổ nạn,
Đức Giê-su nói: “Sự sống đời đời đó là họ
nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến,
là Giê-su Ki-tô” (Ga 17,3). Đức Giê-su cho mọi người biết rằng ‘nhận biết Người’
và ‘nhận biết Chúa Cha’ cũng có nghĩa là nên một với Người và nên một với Chúa
Cha. Ai nên một với Đức Giê-su và với Chúa Cha trong hành trình trần thế thì có
được kinh nghiệm về sự sống đời đời. Nói cách khác, sự sống đời đời dành cho những
ai tin tưởng và thiết lập mối tương quan hiệp nhất nên một với Đức Giê-su và
Chúa Cha. Quả thực, khi Đức Giê-su là vĩnh cửu hiện diện trong thời gian cũng
là khi sự sống đời đời hiện diện trong thời gian, giữa gia đình nhân loại. Lời chứng
cuối cùng của thánh Gio-an Tẩy Giả cho chúng ta biết: “Ai tin vào người Con thì được sự sống đời đời” (Ga 3,36). Nói cách
khác, ai tin vào Đức Giê-su cách chân thành thì sự sống đời đời đã hiện diện nơi
Người ấy. Thánh Gio-an Tông Đồ viết: “Thiên
Chúa đã ban cho chúng ta sự sống đời đời, và sự sống ấy ở trong Con của Người.
Ai có Chúa Con thì có sự sống; ai không có Con Thiên Chúa thì không có sự sống”
(1 Ga 5,11-12). Như vậy, sự sống đời đời hệ tại ở việc hiệp nhất nên một với Đức
Giê-su, nghĩa là ở lại với Người, lắng nghe lời Người, tin tưởng vào Người và sống
theo giáo huấn của Người trong mọi hoàn cảnh của đời mình.
Lời cầu nguyện của Đức
Giê-su cùng Chúa Cha cho các môn đệ hiệp nhất nên một với Người và với Chúa Cha
được thực hiện trong Bữa Ăn Cuối Cùng trước khi Đức Giê-su bước vào cuộc khổ nạn.
Các Tin Mừng Nhất Lãm cho chúng ta biết rằng chính trong Bữa Ăn Cuối Cùng này,
Đức Giê-su đã thiết lập Bí Tích Thánh Thể để ở lại với các môn đệ của Người cho
đến tận thế. Trong Bữa Ăn này, Đức Giê-su đã cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ
ra, trao cho các môn đệ và nói: “Đây là
mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy”
(Lc 22,19); Người cũng cầm lấy chén rượu nho và nói: “Chén này là giao ước mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em”
(Lc 22,20). Nhờ lời của Đức Giê-su cùng với tác động của Chúa Thánh Thần, bánh
và rượu, hoa màu của ruộng đất và công lao của con người, đã trở nên của ăn, của
uống cho các tín hữu. Theo Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo: “Trong bí tích cực thánh, có sự hiện diện đích thực, thực sự và bản thể
của Mình và Máu Đức Ki-tô, cùng với linh hồn và thiên tính của Người, nghĩa là
Đức Ki-tô trọn vẹn" (GLGHCG 1374). Như vậy, đây là hình thức hiệp nhất
giữa các tín hữu với Đức Giê-su và với nhau cách mật thiết nhất bởi vì Đức
Giê-su đã trao ban chính mình cho các tín hữu.
Trong Diễn Từ Bánh Hằng
Sống, Đức Giê-su khẳng định: “Tôi là bánh
hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ
ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6,51). Người
nói tiếp: “Ai ăn thịt và uống máu tôi,
thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt
tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi,
thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6,54-56). Trong Cựu Ước,
Mô-sê nói với dân Do-thái về việc Thiên Chúa cho họ ăn man-na bốn mươi năm, thức
ăn mà họ chưa hề biết tới (Đnl 8,3). Trong Tân Ước, người Do-thái ngạc nhiên hỏi
nhau: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?” (Ga
6,52). Đức Giê-su trở nên của ăn, của uống cho con người để hiệp nhất nên một với
con người. Đây quả thực là sự hiệp nhất nên một nhiệm mầu mà trí khôn con người
không bao giờ hiểu thấu. Nhờ hiệp nhất nên một với Đức Giê-su, các tín hữu được
hiệp nhất nên một với nhau như các thành phần trong thân thể. Thánh Phao-lô viết
như sau: “Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm
tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là dự phần vào Máu Đức Ki-tô ư? Và khi ta cùng bẻ
Bánh Thánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao? Bởi vì chỉ có một
tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người,
chúng ta cũng chỉ là một thân thể” (1 Cr 10,16-17).
Lời cầu nguyện dài nhất
trong Tin Mừng của Đức Giê-su với Chúa Cha theo trình thuật của thánh Gio-an là
lời cầu nguyện cho sự hiệp nhất nên một. Dưới nhãn quan của thánh Gio-an Tông Đồ,
đây cũng là chủ đề cuối cùng của Đức Giê-su trong hành trình trần thế trước khi
bước vào cuộc khổ nạn. Phải chăng đây là chủ đề quan trọng nhất của Tin Mừng? Thưa
‘phải’, bởi vì muôn vật muôn loài do Thiên Chúa duy nhất sáng tạo, cứu độ và
thánh hóa và kiện toàn trong hiệp nhất. Thánh Phao-lô viết: “Muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn
tại và quy hướng về Người” (Rm 11,36). Nói cách khác, muôn vật muôn loài có
cùng khởi nguyên, chung vận mệnh và trùng mục đích. Đức Giê-su đã loan báo và làm chứng cho sự hiệp nhất nên một bằng đời sống
với muôn vàn hình thức đau khổ mà đỉnh cao là sự chết của Người. Người đã sống
lại và hiệp nhất nên một với Thiên Chúa để mở đường cho mọi người trong gia
đình nhân loại tiến bước. Chương trình hiệp nhất nên một tiếp tục được
thực thi trong lịch sử nhân loại cho đến tận thế. Đó là lý do tại sao trước khi về trời, Đức Giê-su đã cầu
xin Chúa Cha cho các môn đệ và những ai tin vào Người tiếp tục chương trình này.
Như vậy, hiệp nhất nên một vừa là lời cầu nguyện của Đức Giê-su với Chúa Cha, vừa
là mệnh lệnh của Đức Giê-su đối với các môn đệ. Hiệp nhất nên một phải là tác vụ
căn bản của các môn đệ Đức Giê-su giữa dòng đời. Nói cách khác, hiệp nhất nên một
không phải là một chọn lựa giữa các chọn lựa khác trong đời sống Ki-tô hữu. Do
đó, là Ki-tô hữu nghĩa là hiệp nhất nên một với Đức Giê-su và làm chứng cho Tin
Mừng hiệp nhất nên một của Người bằng đời sống mình.
Đức Giê-su đến với gia
đình nhân loại hầu cho mọi người được hiệp nhất nên một với Người, với nhau và
với Chúa Cha. Điều này có nghĩa rằng không ai nằm ngoài biên giới của ‘lòng
Chúa thương xót’ được Đức Giê-su thể hiện. Nhiều trích đoạn Kinh Thánh giúp
chúng ta hiểu rõ hơn căn tính, đời sống và sứ mệnh của Người, chẳng hạn như: “Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc
trong Nước Thiên Chúa” (Lc 13,29) hay: “Thiên
Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi
phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Khi các thủ lãnh Do-thái
tranh luận về quyết định giết Đức Giê-su, thượng tế Cai-pha nói: “Các ông
không hiểu gì cả, các ông cũng chẳng nghĩ đến điều lợi cho các ông là: Thà một người chết thay cho dân
còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt" (Ga 11,49-50). Thánh Gio-an Tông Đồ diễn giải: “Điều đó, ông không tự mình nói ra, nhưng vì
ông là thượng tế năm ấy, nên đã nói tiên tri là Đức Giê-su sắp phải chết thay
cho dân, và không chỉ thay cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên
Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối” (Ga 11,51-52). Sách Tông Đồ Công Vụ
cho chúng ta biết rằng trong Thượng Hội Đồng Do-thái, với sự hiện diện của các
thủ lãnh, kỳ mục, kinh sư, thượng tế Kha-nan cũng như những người thuộc dòng họ
thượng tế họp tại Giê-ru-sa-lem, thánh Phê-rô giảng dạy về Đức Giê-su: “Đấng ấy là tảng đá mà quý vị là thợ xây loại
bỏ, chính tảng đá ấy lại trở nên đá tảng góc tường. Ngoài Người ra, không ai
đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban
cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ” (Cv 4,11-12).
Với thánh nhân, được cứu độ cũng có nghĩa là được hiệp nhất nên một với Đức
Giê-su, với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần.
Các sách Tin Mừng cho
chúng ta biết rằng Đức Giê-su không chỉ đề cập sự hiệp nhất nên một giữa Người
với Chúa Cha mà còn sự hiệp nhất nên một với Chúa Thánh Thần, hiệp nhất nên một
của Ba Ngôi Thiên Chúa trong đời sống nội tại cũng như trong chương trình của
Thiên Chúa đối với con người cũng như toàn thể thế giới thụ tạo. Trình thuật
Tin Mừng theo thánh Gio-an giúp chúng ta nhận ra mặc khải tiệm tiến về mầu nhiệm
Chúa Ba Ngôi. Giai đoạn đầu của hành trình loan báo Tin Mừng, Đức Giê-su nói về
sự nên một giữa Người với Chúa Cha. Dần dần, Người nói về sự nên một của Ba
Ngôi Thiên Chúa. Chẳng hạn, trong cuộc đối thoại với Ni-cô-đê-mô, Đức Giê-su
nói: “Thật, tôi bảo thật ông: Không ai có
thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí” (Ga 3,5).
Trong cuộc đối thoại với người thiếu phụ Sa-ma-ri bên bờ giếng Gia-cóp, Đức
Giê-su nói: “Những người thờ phượng đích
thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những
ai thờ phượng Người như thế” (Ga 4,23). Trong Bữa Ăn Cuối Cùng trước khi bước
vào cuộc khổ nạn, Đức Giê-su nói về Chúa Thánh Thần cách rõ ràng hơn: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho
anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật,
Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết
Người” (Ga 14,16-17). Vai trò của Chúa Thánh Thần được Chúa Cha gửi đến
nhân danh Đức Giê-su là dạy các môn đệ mọi điều và làm cho họ nhớ lại mọi điều
Đức Giê-su đã nói với họ (Ga 14,26). Đặc biệt, Chúa Thánh Thần và các môn đệ tiếp
tục sứ mệnh của Đức Giê-su: “Khi Đấng Bảo
Trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha, Người là Thần Khí
sự thật phát xuất từ Chúa Cha, Người sẽ làm chứng về Thầy. Cả anh em nữa, anh
em cũng làm chứng, vì anh em ở với Thầy ngay từ đầu” (Ga 15,26-27). Chúa Thánh Thần sẽ minh chứng thế gian
sai lầm về tội lỗi, về sự công chính và về việc xét xử (Ga 16,8-11). Đồng thời,
Chúa Thánh Thần sẽ dẫn các môn đệ tới sự thật vẹn toàn (Ga 16,13). Sau khi phục
sinh, Đức Giê-su trao ban Chúa Thánh Thần để các môn đệ tiếp tục sứ mệnh được Người
ủy thác (Ga 20,22-23). Nhờ mặc khải của Đức Giê-su, chúng ta nhận ra rằng Chúa
Thánh Thần chính là Nguyên Lý Hiệp Nhất giữa Đức Giê-su với Chúa Cha cũng như Nguyên
Lý Hiệp Nhất của Giáo Hội, cộng đoàn được Đức Giê-su thiết lập để tiếp tục sự
hiện diện lịch sử của Người giữa lòng trần thế.
Câu chuyện tháp Ba-ben
trong Cựu Ước và câu chuyện ngày lễ Ngũ Tuần trong Tân Ước giúp chúng ta nhận
diện hai bức tranh tương phản về hiệp nhất: Hiệp nhất bởi thần khí hay tinh thần
thế gian và hiệp nhất bởi Thần Khí Thiên Chúa hay Chúa Thánh Thần (St 1,1-9; Cv
2,1-11). Theo trình thuật câu chuyện tháp Ba-ben, ban đầu mọi người cùng chung
ngôn ngữ. Họ nghĩ rằng với sức mạnh tổng hợp của những người cùng chung ngôn ngữ,
họ có thể xây tháp cao lên tận các tầng trời để danh họ được lẫy lừng và mọi
người được hiệp nhất. Tuy nhiên, Thiên Chúa đã làm cho ngôn ngữ của họ xáo trộn.
Hậu quả là họ phải phân tán khắp mặt đất và công trình xây tháp Ba-ben không thể
thực hiện được. Trong khi đó, với biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống trong ngày
lễ Ngũ Tuần (Pentecost), các môn đệ Đức Giê-su đã làm cho muôn người thuộc mọi
dân tộc và ngôn ngữ đang quy tụ tại Giê-ru-sa-lem hiểu được Tin Mừng Nước Thiên
Chúa theo ngôn ngữ của mình. Như vậy, khi con người hiệp nhất theo thần khí thế
gian, thần khí phản nghịch thánh ý Thiên Chúa cũng là khi các chương trình của
con người sụp đổ. Trái lại, khi sự hiệp nhất của con người theo Thần Khí Thiên
Chúa cũng là khi các chương trình của con người được tiến triển tốt đẹp và đem
lại hiệu quả là làm cho con người sống phù hợp với thánh ý Thiên Chúa. Nói cách
khác, hiệp nhất theo thần khí thế gian chỉ dẫn tới diệt vong, còn hiệp nhất theo
Thần Khí Thiên Chúa thì dẫn tới sự sống muôn đời. Kinh nghiệm này tiếp tục được
các môn đệ trung tín của Đức Giê-su loan truyền và minh chứng qua muôn thế hệ.
Sau khi Đức Giê-su phục
sinh và lên trời, các môn đệ ngày càng ý thức hơn về tầm quan trọng của sự hiệp
nhất nên một trong Chúa Thánh Thần. Tác giả sách Tông Đồ Công Vụ cho chúng ta
biết cộng đoàn Ki-tô hữu đầu tiên là cộng đoàn hiệp nhất nên một: “Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên
cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Ma-ri-a thân mẫu Đức Giê-su,
và với anh em của Đức Giê-su”
(Cv 1,14). Đặc biệt, sự hiệp nhất nên một của cộng đoàn Ki-tô hữu sơ khai thật
đáng trân trọng: “Các tín hữu
chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng
năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng. Mọi người đều kinh sợ, vì
các Tông Đồ làm nhiều điềm thiêng dấu lạ. Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau,
và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi
người tùy theo nhu cầu” (Cv
2,42-45) hay: “Các tín hữu thời bấy
giờ đông đảo, mà chỉ có một lòng một ý. Không một ai coi bất cứ cái gì mình có
là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung” (Cv 4,32). Nhờ vậy,
ai cũng có được những điều cần thiết cho cuộc sống mình: “Trong cộng đoàn, không ai phải thiếu thốn, vì tất cả những người có ruộng
đất nhà cửa, đều bán đi, lấy tiền, đem đặt dưới chân các Tông Đồ. Tiền ấy được
phân phát cho mỗi người, tùy theo nhu cầu” (Cv 4,34-35). Viết thư cho các
tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô căn dặn họ: “Hãy
đồng tâm nhất trí với nhau, đừng tự cao tự đại, nhưng ham thích những gì hèn mọn.
Anh em đừng cho mình là khôn ngoan” (Rm 12,16). Thánh nhân mời gọi các tín
hữu Phi-líp-phê: ”Xin anh em hãy làm cho niềm vui của tôi được trọn vẹn là
hãy có cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng mến, cùng một tâm hồn, cùng một ý hướng
như nhau” (Pl 2,2). Đối với thánh nhân, hiệp nhất nên một với Đức Giê-su, với
Thiên Chúa và với nhau là điều không thể thiếu được trong đời sống và ơn gọi của
người Ki-tô hữu giữa dòng đời (Rm 15,5-6; 2 Cr 13,11; Ep 4,2-3).
Để có thể hiệp nhất
nên một, thánh Phao-lô mời gọi các Ki-tô hữu hãy có tâm tình như Đức Giê-su: “Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những
tâm tình như chính Đức Ki-tô Giê-su” (Pl 2,5). Theo thánh nhân, Đức Giê-su
đã trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như
người trần thế. Người lại còn hạ mình cho đến nỗi bằng lòng chịu chết trên cây thập
tự, chính vì thế Thiên Chúa đã siêu tôn Người (Pl 2,6-11). Nhờ Đức Giê-su, con
người trở nên con cái Thiên Chúa, nghĩa là nên một với Người. Nhờ Đức Giê-su,
con người trở nên ‘thụ tạo mới’ (new creation) và được thông phần vinh hiển với
Người (2 Cr 5,17). Trong thư gửi tín hữu Rô-ma, thánh nhân viết: “Vì chúng ta đã nên một với Đức Ki-tô nhờ được
chết như Người đã chết, thì chúng ta cũng sẽ nên một với Người, nhờ được sống lại
như Người đã sống lại” (Rm 6,5). Cũng trong thư này, ngài xác tín: "Tôi tin chắc rằng cho dầu là sự chết
hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất
cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác,
không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức
Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta" (Rm 8,38-39). Với thánh nhân, vấn đề
chính yếu của con người là được biết Đức Giê-su, đồng hình đồng dạng với Người
trong đau khổ cũng như cái chết của Người hầu được sống lại với Người (Pl
3,10-11).
Hơn ai hết, thánh Phao-lô
là người thấm nhuần giáo lý hiệp nhất nên một của Đức Giê-su và ngài đã triển
khai giáo lý này cách thấu đáo trong những thư gửi các giáo đoàn. Đặc biệt,
trong thư gửi các tín hữu Ê-phê-xô, ngài tóm lược giáo lý hiệp nhất nên một như
sau: “Chỉ có một thân thể, một Thần Khí,
cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng. Chỉ có một
Chúa, một niềm tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng
ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người” (Ep 4,4-6). Ở đây,
thánh nhân liệt kê ‘bảy yếu tố’ hay ‘bảy hình thức’ hiệp nhất nên một mà người
Ki-tô hữu cần ý thức là: Một thân thể, một Thần Khí, một niềm hy vọng, một
Chúa, một niềm tin, một phép rửa, một Thiên Chúa là Cha của mọi người. Chúng
ta hãy cùng nhau xem xét cách khái quát các hình thức hiệp nhất này trong bối cảnh
thư gửi tín hữu Ê-phê-xô cũng như các thư khác của ngài.
Thứ nhất, mọi người hiệp nhất trong một thân thể (ἓν
σῶμα). Thân thể mà thánh nhân đề cập ở
đây là Giáo Hội bởi vì Giáo Hội là Thân Thể Mầu Nhiệm Đức Ki-tô như thánh nhân viết:
“Hội Thánh là thân thể Đức Ki-tô, là sự
viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn” (Ep 1,23) hay: “Trong Đức Ki-tô Giê-su và nhờ Tin Mừng, các
dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-thái, cùng làm thành một
thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa” (Ep 3,6). Cũng trong thư này,
thánh nhân tiếp tục trình bày về Giáo Hội, thực thể được Đức Giê-su thiết lập
trong dòng lịch sử và phân biệt với các thực thể hay đoàn thể xã hội khác bởi
vì Giáo Hội là ‘thân thể sống động’. Ngài viết: “Một khi đã cởi bỏ sự gian dối, mỗi người trong anh em hãy nói sự thật
với người thân cận, vì chúng ta là phần thân thể của nhau” (Ep 4,25) hay: “Chúng ta là bộ phận trong thân thể của Người”
(Ep 5,30). Đặc biệt, ngài dùng hình ảnh vợ chồng nên ‘một xương một thịt’
đã được đề cập trong sách Sáng Thế hầu giúp mọi người hiểu biết hơn về tương
quan huyền diệu giữa Đức Giê-su với Giáo Hội: “Sách Thánh có lời chép rằng: Chính vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ
mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Mầu nhiệm này thật
là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Ki-tô và Hội Thánh” (Ep 5,31-32). Chủ đề ‘Giáo
Hội là Thân Thể Mầu Nhiệm Đức Ki-tô’ được ngài nhấn mạnh và khai triển trong
các thư khác, chẳng hạn như Rm 12,4-5; 1 Cr 12,12; 1 Cr 12,25-26; Cl 3,15. Hơn
nữa, dưới nhãn quan của thánh Phao-lô, Đức Giê-su cũng là Đầu của Giáo Hội và mọi
người được mời gọi “sống theo sự thật và
trong tình bác ái, chúng ta sẽ lớn lên về mọi phương diện, vươn tới Đức Ki-tô
vì Người là Đầu” (Ep 4,15).
Thứ hai, mọi người hiệp nhất trong một Thần Khí (ἓν
Πνεῦμα). Ở đây, thánh nhân nói về Thần
Khí là Chúa Thánh Thần. Ngay trước Ep 4,4-6, ngài viết: “Anh em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng
cách ăn ở thuận hòa gắn bó với nhau” (Ep 4,3) hay: “Trong Người, cả anh em nữa, cũng được xây dựng cùng với những người
khác thành ngôi nhà Thiên Chúa ngự, nhờ Thần Khí” (Ep 2,22). Thánh nhân tiếp
tục mời gọi các tín hữu Ê-phê-xô ý thức về sự đổi mới nhờ Thần Khí và theo sự
hướng dẫn của Thần Khí, chẳng hạn như: “Anh
em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những
ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em” (Ep
4,22-23) hay: “Theo Thần Khí hướng dẫn,
anh em hãy dùng mọi lời kinh và mọi tiếng van nài mà cầu nguyện luôn mãi”
(Ep 6,18). Đối với thánh nhân, sự hiệp nhất trong Thần Khí là điều kiện tiên
quyết cho sự tăng trưởng trên bình diện cá nhân cũng như cộng đoàn những người
thuộc về Đức Ki-tô giữa lòng trần thế (Ep
4,14-16; Rm 8,9).
Thứ ba, mọi người hiệp nhất trong một niềm hy vọng (μιᾷ
ἐλπίδι). Dưới nhãn quan của thánh Phao-lô, các Ki-tô hữu là những người chia sẻ
cùng niềm hy vọng. Đặc biệt, đối với thánh nhân, niềm hy vọng của các Ki-tô hữu
không phải là cái gì đó (what) hay hiện tượng nào đó (phenomenon) hay biến cố
nào đó (event) mà là Đức Giê-su. Ngài viết: “Chúng
tôi là những người đầu tiên đặt hy vọng vào Đức Ki-tô, chúng tôi ngợi khen vinh
quang Người” (Ep 1,12). Thánh nhân khuyên dạy các tín hữu Ê-phê-xô: “Vậy thưa anh em, trước kia anh em là dân
ngoại trong thân xác, bị kẻ mệnh danh là ‘giới cắt bì’ - nhưng cắt bì trong
thân xác, do tay người phàm - gọi là ‘giới không cắt bì’, anh em hãy nhớ lại rằng
thuở ấy anh em không có Đấng Ki-tô, không được hưởng quyền công dân Ít-ra-en,
xa lạ với các giao ước dựa trên lời hứa của Thiên Chúa, không có niềm hy vọng,
không có Thiên Chúa ở trần gian này” (Ep 2,11-12). Trong các thư gửi các
giáo đoàn cũng như cá nhân, thánh Phao-lô cho mọi người biết rằng Đức Giê-su là
hy vọng của con người. Chẳng hạn, trong thư gửi Ti-mô-thê, thánh nhân viết: “Tôi là Phao-lô, Tông Đồ của Đức Ki-tô
Giê-su theo lệnh Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, và theo lệnh Đức Ki-tô
Giê-su, niềm hy vọng của chúng ta, gửi anh Ti-mô-thê, người con tôi đã sinh ra
trong đức tin” (1 Tm 1,1-2). Đối với thánh Phao-lô, niềm trông cậy vào Đức
Giê-su, vào Thiên Chúa trở thành hiện thực khi con người được ở hiệp nhất nên một
với Thiên Chúa luôn mãi (1 Tx 4,17).
Thứ tư, mọi người hiệp nhất trong một Chúa (εἷς Κύριος).
Thánh Phao-lô cho biết rằng Đức Giê-su là Chúa duy nhất của mọi người. Theo
thánh nhân: “Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới
chân Đức Ki-tô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh” (Ep 1,22). Cũng
theo thánh nhân: “Chúng ta là tác phẩm của
Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Đức Ki-tô Giê-su, để sống mà thực hiện
công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta” (Ep 2,10). Đối với
thánh nhân, nhờ Đức Giê-su là Chúa mà mọi người trong gia đình nhân loại được
tiến gần đến Thiên Chúa: “Trước kia anh
em là những người ở xa, nhưng nay, trong Đức Ki-tô Giê-su, nhờ máu Đức Ki-tô đổ
ra, anh em đã trở nên những người ở gần” (Ep 2,13). Ngài khẳng định: “Trong Đức Ki-tô Giê-su và nhờ Tin Mừng, các
dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-thái, cùng làm thành một
thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa” (Ep 3,6). Ngài mời gọi các
tín hữu Ê-phê-xô: “Hãy sống trong tình
bác ái, như Đức Ki-tô đã yêu thương chúng ta, và vì chúng ta, đã tự nộp mình
làm hiến lễ, làm hy lễ dâng lên Thiên Chúa tựa hương thơm ngào ngạt” (Ep
5,2). Đồng thời, ngài khuyên dạy họ: “Đừng
chỉ vâng lời trước mặt, như muốn làm đẹp lòng người ta, nhưng như nô lệ của Đức
Ki-tô, đem cả tâm hồn thi hành ý Thiên Chúa” (Ep 6,6). Đặc biệt, theo thánh
nhân: “Để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi
loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: "Đức Giê-su Ki-tô là Chúa” (Pl
2,11). Đối với thánh nhân, Đức Giê-su là Chúa quy tụ mọi người từ mọi sắc tộc,
truyền thống, văn hóa. Do đó, sự phân biệt giữa người với người theo các tiêu
chuẩn trần thế không thể cản trở việc liên kết mật thiết với Đức Giê-su, nghĩa
là mọi người được mời gọi hiệp nhất nên một với Người trong khi vẫn duy trì những
đặc tính chân thực, lành thánh, tốt đẹp nơi sắc tộc, truyền thống hay văn hóa
mình.
Thứ năm, mọi người hiệp nhất trong một niềm tin (μία
πίστις). Khi mời gọi các Ki-tô hữu hiệp nhất, thánh Phao-lô cho mọi người biết
rằng ưu tiên của sự hiệp nhất giữa các Ki-tô hữu không phải là sự tôn trọng lẫn
nhau hay duy trì trật tự trong cộng đoàn mà là ‘một niềm tin’. Mục đích chính của
việc hiệp nhất trong một niềm tin là giúp mọi người gắn bó với Đức Giê-su, nhờ
đó được gắn bó với Thiên Chúa. Thánh nhân viết: “Chính do ân sủng và nhờ
lòng tin mà anh em được cứu độ: Đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ
của Thiên Chúa; cũng không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện”
(Ep 2,8-9); “Trong Đức Ki-tô và nhờ tin
vào Người, chúng ta được mạnh dạn và tin tưởng đến gần Thiên Chúa” (Ep
3,12). Tâm tình của thánh nhân đối với các tín hữu Ê-phê-xô được đúc kết nơi lời
cầu chúc cuối thư: “Nguyện xin Thiên Chúa là Cha, và nguyện xin Chúa Giê-su
Ki-tô ban cho anh em ơn bình an và lòng mến cùng với lòng tin” (Ep 6,23). Đặc
biệt, trong thư gửi tín hữu Rô-ma, ngài viết: “Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa, và lòng bạn tin rằng
Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ” (Rm
10,9). Đối với ngài, ‘chung một niềm tin’ và diễn tả niềm tin bằng hành động
thuộc về căn tính, đời sống và sứ mệnh của người Ki-tô hữu.
Thứ sáu, mọi người hiệp nhất trong một phép rửa (ἓν
βάπτισμα). Đối với thánh Phao-lô đây
là phép rửa trong giao ước mới, giao ước vĩnh cửu được Đức Giê-su thiết lập cho
muôn thế hệ. Trong cuộc đối thoại với Ni-cô-đê-mô, Đức Giê-su nói: “Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu
không sinh ra bởi nước và Thần Khí” (Ga 3,5). Với các tín hữu Rô-ma, thánh
Phao-lô viết: “Anh em không biết rằng: Khi
chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Ki-tô Giê-su, là chúng ta
được dìm vào trong cái chết của Người sao?” (Rm 6,3). Với các tín hữu Cô-lô-xê,
ngài viết: “Anh em đã cùng được
mai táng với Đức Ki-tô khi chịu phép rửa, lại cùng được trỗi dậy với Người, vì
tin vào quyền năng của Thiên Chúa, Đấng làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết” (Cl
2,12). Theo thánh nhân, những ai lãnh nhận phép rửa thì thuộc về Đức Ki-tô, nên
một với Người và với nhau. Với các tín hữu Ga-lát, ngài viết: “Bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để
thuộc về Đức Ki-tô, đều mặc lấy Đức Ki-tô. Không còn chuyện phân biệt Do-thái
hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một
trong Đức Ki-tô” (Gl 3,27-28). Đối với thánh nhân, những ai chịu phép rửa thì
được liên kết chặt chẽ với Đức Giê-su và với Chúa Thánh Thần của Thiên Chúa: “Anh
em đã được tẩy rửa, được thánh hóa, được nên công chính nhờ danh Đức Giêsu Ki-tô
và nhờ Thần Khí của Thiên Chúa chúng ta!” (1 Cr 6,11). Nhờ phép rửa trong
Thần Khí, mọi người hiệp nhất nên một thân thể: “Tất cả chúng ta, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta
đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể. Tất cả
chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất” (1 Cr 12,13).
Thứ bảy, mọi người hiệp nhất trong một Thiên Chúa,
là Cha của tất cả (εἷς Θεὸς/ Πατὴρ). Dưới
nhãn quan của thánh Phao-lô, ‘sáu yếu tố’ hay ‘sáu hình thức’ hiệp nhất đã được
đề cập ở trên (một thân thể, một Thần Khí, một niềm hy vọng, một Chúa, một niềm
tin, một phép rửa) quy hướng về Thiên Chúa, Cha của mọi người. Như đề cập ở
trên, hơn ai hết, thánh Phao-lô là người thấm nhuần giáo huấn về sự hiệp nhất
nên một giữa Đức Giê-su với Chúa Cha. Thánh nhân mời gọi các tín hữu luôn kết hợp
với Đức Giê-su để nhờ Người mà hướng về Chúa Cha. Thánh nhân viết cho các tín hữu
Ê-phê-xô: “Tôi cầu xin Chúa Cha vinh hiển là Thiên Chúa của Đức Giê-su Ki-tô,
Chúa chúng ta, ban cho anh em thần khí khôn ngoan để mặc khải cho anh em nhận
biết Người” (Ep 1,17). Thánh nhân cho họ biết rằng, nhờ Đức Giê-su, dân
Do-thái và dân ngoại “được liên kết trong
một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha” (Ep 2,18). Bởi vì, Chúa Cha là “nguồn gốc mọi gia tộc trên trời dưới đất”
(Ep 3,15). Thánh nhân khuyên dạy họ: “Trong mọi hoàn cảnh và mọi sự, hãy
nhân danh Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, mà cảm tạ Thiên Chúa là Cha” (Ep
5,20). Nhiều lần trong các thư của mình, thánh nhân minh định rằng nhờ sự vâng
phục và trút bỏ của Đức Giê-su là Con yêu dấu của Chúa Cha mà con người được trở
thành con cái Thiên Chúa (Ep 1,5; Rm 8,14-17; Gl 3,26). Nói cách khác, nhờ Đức
Giê-su là Con Một của Chúa Cha từ trước muôn đời, đã xuống thế làm người mà con
người được trở thành con cái Thiên Chúa. Tương tự như thế, nhờ Đức Giê-su luôn
nên một với Chúa Cha mà con người được nên một với Thiên Chúa.
Chúng ta có thể tóm lược
giáo huấn của thánh Phao-lô về bảy yếu tố hay bảy hình thức hiệp nhất như sau:
Nhờ phép rửa nhân danh Chúa Ba Ngôi, các Ki-tô hữu được hiệp nhất trong một đức
tin, đức cậy, đức mến và liên kết với nhau như các chi thể trong Giáo Hội là
thân thể sống động. Sự hiệp nhất của Giáo Hội như là thân thể đặt nền tảng trên
sự hiệp nhất của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Điều này được Công Đồng
Vatican II khẳng định: "Hội Thánh phổ
quát xuất hiện như một Dân được hiệp nhất nhờ sự hiệp nhất giữa Chúa Cha, Chúa
Con và Chúa Thánh Thần" (LG 4) hay: Chúa Ba Ngôi là ‘mẫu mực tối cao và nguyên lý’ hiệp nhất của Giáo Hội (UR 2). Chính vì
thế, sự hiệp nhất trong Giáo Hội phân biệt với các hình thức hiệp nhất
trong các hội đoàn hay các thực thể thuộc truyền thống, văn hóa, xã hội. Bởi
vì, các hình thức hiệp nhất này nhằm đem lại lợi ích tinh thần hay vật chất cho
mỗi cá nhân cũng như các hình thức cộng đoàn trong không gian, thời gian. Còn sự
hiệp nhất trong Giáo Hội là sự hiệp nhất của những người được Thiên Chúa kêu gọi
để chia sẻ sự sống của Người nhờ Đức Giê-su và Chúa Thánh Thần trong đời sống
trần thế hướng về đời sống vĩnh cửu.
Giáo Hội mời gọi con
cái mình hiệp nhất với nhau trong đức tin, đức cậy, đức mến, cũng như trong đời
sống phụng tự và tiếp tục thực thi ‘sứ mệnh hiệp nhất nên một’ được Đức Giê-su ủy
thác giữa gia đình nhân loại. Bởi vì, “Giáo
Hội ở trong Chúa Ki-tô như bí tích hoặc dấu chỉ và khí cụ của sự kết hợp mật
thiết với Thiên Chúa và của sự hiệp nhất toàn thể nhân loại” (LG 1). Là Bí
Tích và là Thân Thể Mầu Nhiệm Đức Ki-tô, Giáo Hội tiếp tục sứ mệnh lịch sử của
Đức Giê-su giữa trần gian cho đến tận thế. Ba hình thức Giáo Hội (Giáo Hội lữ
hành, Giáo Hội thanh luyện và Giáo Hội hiển thắng) luôn hiệp nhất nên một với
nhau và luôn quy hướng về Thiên Chúa. Như vậy, không bao giờ có sự chia cắt hay
gián đoạn nơi các Ki-tô hữu giữa trần gian, các Ki-tô hữu trong tiến trình
thanh luyện và các Ki-tô hữu đã được tận hưởng ân sủng, bình an và hạnh phúc
vĩnh cửu trong Nước Thiên Chúa. Điều mà
mọi người cần quan tâm là sự hiệp nhất trong Giáo Hội lữ hành như thực tại đang
lớn lên (growing reality) hay dự án chưa hoàn thành (unfinished project). Giáo
Hội là thực tại không ngừng lớn lên giữa lòng thế giới. Những cạm bẫy chia rẽ của
ba thù (ma quỷ, thế gian, xác thịt) vẫn còn hoành hành trong Giáo Hội cũng như
gia đình nhân loại cho đến tận thế. Chỉ trong sự hiệp nhất nên một với Thiên
Chúa và với nhau, các thành phần trong Giáo Hội mới có thể vượt thắng những cám
dỗ, thách đố cũng như mưu mô chước độc của ba thù. Do vậy, các thành phần của
Giáo Hội luôn được mời gọi cộng tác với ơn Chúa Thánh Thần để xây dựng sự hiệp
nhất nên một hầu làm cho Giáo Hội và gia đình nhân loại ngày càng thăng tiến
hơn về mọi mặt.
Giáo Hội mời gọi con
cái phản ánh sự hiệp nhất và đa dạng của Giáo Hội trong mọi hoàn cảnh của cuộc
sống mình. Dưới nhãn quan của thánh
Phao-lô, vì được liên kết với Giáo Hội, Thân Thể Mầu Nhiệm Đức Ki-tô, mọi người
trong Giáo Hội cần đóng góp phần mình cho sự thăng tiến của Giáo Hội tùy theo đặc
sủng của mình. Theo ngài: “Chính Người đã
ban ơn cho kẻ này làm Tông Đồ, người nọ làm ngôn sứ, kẻ khác làm người loan báo
Tin Mừng, kẻ khác nữa làm người coi sóc và dạy dỗ” (Ep 4,11). Như các bộ phận
trong thân thể hoạt động theo những chức năng phân biệt nhau vì lợi ích chung,
các tín hữu sống và hoạt động theo đặc sủng mà Chúa Thánh Thần trao ban hầu
đóng góp phần mình trong việc xây dựng thân thể. Chẳng hạn, trong Giáo Hội, người
phục vụ thì phải tận tâm, người dạy bảo thì phải trung tín, người làm việc bác
ái thì phải vui vẻ (Rm 12,6-8). Mọi người được mời gọi xây dựng sự hiệp nhất
(unity), nghĩa là tôn trọng sự khác biệt về đặc sủng, tính cách, công việc, chứ
không phải là xây dựng sự đồng nhất hay đồng điệu (uniformity) giữa các thành
phần. Đặc biệt, mọi người cần phân biệt giữa đa dạng (diversity) và chia rẽ
(division). Quả thực, đa dạng là ‘món quà’ của Thiên Chúa, còn các hình thức
chia rẽ trong Giáo Hội hay giữa gia đình nhân loại đều là ‘sản phẩm của thế giới
bóng đêm’. Nói đến chia rẽ là nói đến việc phá hủy sự hiệp nhất chân thực nơi các
hình thức cộng đoàn hay tập thể của gia đình nhân loại. Trong khi đó, đa dạng lại
là điều đáng trân trọng và tốt lành bởi vì phù hợp với nội dung mặc khải của
Thiên Chúa cũng như sự đón nhận, sống và lưu truyền nội dung mặc khải nơi các
dân tộc, ngôn ngữ và văn hóa. Ai không ý thức hay cảm nhận được sự quý giá của
‘món quà đa dạng’ thì khó có thể nhận thức được ‘món quà hiệp nhất’ mà Đức
Giê-su thể hiện trong đời sống và sứ mệnh của Người. Kinh nghiệm lịch sử cho
chúng ta biết rằng hiệp nhất trong đa dạng luôn mang tính xây dựng, sáng tạo và
hữu ích. Hiệp nhất trong đa dạng (unity in diversity) và đa dạng trong hiệp nhất
(diversity in unity) trở thành mẫu số chung cho gia đình nhân loại cũng như
muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo.
Kinh nghiệm lịch sử
cho chúng ta biết rằng, một mặt, thế giới vẫn còn đó chiến tranh, hận thù cũng
như nhiều hình thức chia rẽ. Mặt khác, chúng ta biết rằng gia đình nhân loại
ngày càng hiệp nhất với nhau hơn. Trong Hiến Chế Gaudium et Spes (1965), Công Đồng Vatican II khẳng định: “Gia đình nhân loại dần dần hiệp nhất với
nhau và đã ý thức hơn về sự hiệp nhất của mình ở mọi nơi, do đó công việc mà
gia đình nhân loại phải bắt tay vào là xây dựng một thế giới thực sự nhân bản
hơn cho tất cả mọi người ở mọi nơi” (GS 77). Quả thực, theo dòng thời gian,
các yếu tố giúp con người hiệp nhất với nhau luôn dồi dào hơn các yếu tố làm
cho con người xa nhau hay chia rẽ. Hôm nay, với thế giới toàn cầu hóa (the
globalized world), thế giới phẳng (the flat world) hay thế giới kỹ thuật số
(the digital world), con người ngày càng có nhiều cơ hội học hỏi, trao đổi và
chia sẻ với nhau hơn. Con người không chỉ hiệp nhất về mặt kinh tế, chính trị,
văn hóa, khoa học kỹ thuật, công nghệ, mà còn nhiều lĩnh vực khác nữa. Nhờ đó,
con người ngày càng ý thức hơn về phẩm giá cao trọng của mình cũng như sự cần
thiết của việc xây dựng ngôi nhà chung của gia đình nhân loại và chăm sóc thế
giới thụ tạo.
Dưới nhãn quan mặc khải
Ki-tô Giáo, sự hiệp nhất nên một không chỉ giới hạn trong thế giới loài người
mà còn vươn tới muôn vật muôn loài. Điều này được thánh Phao-lô diễn giải cách
cụ thể trong các thư của ngài về viễn cảnh cánh chung. Chẳng hạn, trong thư gửi
tín hữu Ê-phê-xô, thánh nhân nói về ý định của Thiên Chúa cho muôn vật muôn
loài: “Người cho ta được biết thiên ý nhiệm
mầu: Thiên ý này là kế hoạch yêu thương Người đã định từ trước trong Đức Ki-tô.
Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới
quyền một thủ lãnh là Đức Ki-tô” (Ep 1,9-10) hay: “Đấng đã xuống cũng chính là Đấng đã lên cao hơn mọi tầng trời để làm
cho vũ trụ được viên mãn” (Ep 4,10). Đặc biệt, chương trình Thiên Chúa được
Đức Giê-su thực hiện đem lại hiệu quả là các hình thức sự dữ cũng như hậu quả của
chúng bị loại bỏ, nhất là sự chết hoàn toàn bị tiêu diệt: “Đức Ki-tô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch
dưới chân Người. Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết” (1 Cr
15,25-26). Đối với thánh nhân, hành trình trần thế của Đức Giê-su đem lại cho
muôn vật muôn loài sự bình an và hòa giải: “Nhờ
máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới
đất và muôn vật trên trời” (Cl 1,20). Bối cảnh cánh chung được thánh nhân
tóm lược như sau: “Lúc muôn loài đã quy
phục Đức Ki-tô, thì chính Người, vì là Con, cũng sẽ quy phục Đấng bắt muôn loài
phải quy phục Người; và như vậy, Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài”
(1 Cr 15,28). Như vậy, nhờ Đức Giê-su, con người được hòa giải với chính mình,
với Thiên Chúa, với anh chị em và với muôn vật muôn loài.
Chúng ta biết rằng trong
bối cảnh Bữa Ăn Cuối Cùng, Đức Giê-su nói với các môn đệ thân tín rằng Người là
Đường (Ga 14,6). Chúng ta có thể khẳng định: Đường của Người là Đường Hiệp Nhất
Nên Một. Bởi vì, trong hành trình trần thế, Đức Giê-su vừa cho mọi người biết rằng
Người luôn hiệp nhất nên một với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, vừa mời gọi mọi
người nên một với Người hầu có thể nên một với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Để
thực thi điều đó, Đức Giê-su vừa loan báo Tin Mừng hiệp nhất nên một, vừa thực
thi sứ mệnh loại trừ các mầm mống chia rẽ trong tâm hồn con người cũng như
trong các hình thức cộng đoàn mà Người gặp gỡ. Người đã chữa bệnh, trừ quỷ, hồi
sinh kẻ chết để đem lại sự hiệp nhất chân thực nơi tâm hồn con người. Đường Hiệp
Nhất Nên Một của Đức Giê-su giúp con người biết đồng tâm hiệp lực trong việc kiến
tạo gia đình nhân loại hiệp nhất nên một trong tình yêu, niềm tin và hy vọng hướng
về sự hiệp nhất nên một trong Thiên Chúa.
Trước khi bước vào cuộc
khổ nạn, Đức Giê-su thân thưa cùng Chúa Cha: “Phần con, con đã tôn vinh Cha ở dưới đất, khi hoàn tất công trình Cha
đã giao cho con làm” (Ga 17,4). Đồng thời, Người cũng thân thưa Chúa Cha về
các môn đệ là những người tiếp tục chương trình của Người: “Như Cha đã sai con đến thế gian, thì con cũng sai họ đến thế gian”
(Ga 17,18). Sau khi phục sinh, Đức Giê-su đã hiện ra và ủy thác cho bà Ma-ri-a
Mác-đa-la: “Hãy đi gặp anh em Thầy và bảo
họ: Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của
Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em” (Ga 20,17). Với biến cố Chúa Thánh Thần
hiện xuống, các ngài được ơn khôn ngoan và được củng cố đức tin, đức cậy và đức
mến để cất bước lên đường thực thi sứ mệnh được Đức Giê-su giao phó. Các ngài
đã loan báo Đức Giê-su là Đường Hiệp Nhất Nên Một cũng như Tin Mừng của Người bằng
đời sống đầy gian lao, thử thách, kể cả cái chết, để minh chứng cho những điều
các ngài loan báo. Noi gương các ngài, theo dòng lịch sử, biết bao người đã
trung tín với Đường Hiệp Nhất Nên Một của Đức Giê-su và diễn tả lòng trung tín
của mình bằng cuộc sống hiệp nhất nên một với Đức Giê-su và với anh chị em
mình. Là Ki-tô hữu, nghĩa là môn đệ và tông đồ của Đức Giê-su, mọi người được mời
gọi trở nên ‘khí cụ và dấu chỉ’ của Đức Giê-su, Đường Hiệp Nhất Nên Một cho anh
chị em mình.
Những trình bày trên đây cho phép chúng ta kết luận rằng trong đời sống nội tại của Chúa Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần luôn hiệp nhất nên một với nhau. Nhờ Chúa Con và trong Chúa Thánh Thần, Thiên Chúa đã sáng tạo con người cũng như muôn vật muôn loài. Thuở ban đầu, tất cả được hiệp nhất nên một với nhau và với Thiên Chúa. Khi con người phạm tội cũng là khi các tương quan giữa Thiên Chúa với con người và muôn vật muôn loài bị đổ vỡ, hư hỏng, biến dạng. Tuy nhiên, vì tình yêu, Đức Giê-su là Ngôi Hai Thiên Chúa đã đến với gia đình nhân loại. Sứ mệnh của Người là tái lập sự hiệp nhất nên một giữa Thiên Chúa với con người cũng như muôn vật muôn loài. Là Thiên Chúa nhưng trong hành trình trần thế, Đức Giê-su luôn hướng về Chúa Cha, hiệp nhất nên một với Chúa Cha. Đồng thời, Người mời gọi mọi người hiệp nhất nên một với Người để nhờ Người mà được hiệp nhất nên một với Chúa Cha ngay trong hành trình trần thế này. Hơn nữa, Người đã thực thi ‘sứ mệnh hiệp nhất nên một’ bằng cuộc đời hy sinh, khiêm hạ, trút bỏ. Người đã chịu muôn vàn hình thức đau khổ của kiếp Người và đã chịu chết để tiêu diệt sự chết một lần cho tất cả. Với cái chết, Đức Giê-su đã tới vực thẳm sâu nhất của sự chia rẽ để thông phần với con người. Nhờ sự phục sinh, Người đã bắc cho nhân loại ‘chiếc cầu hiệp nhất nên một’ với Thiên Chúa. Trong mọi hoàn cảnh, Đức Giê-su luôn thể hiện Người là Đường Hiệp Nhất Nên Một. Đặc biệt, Người đã thiết lập Giáo Hội để Giáo Hội luôn là dấu chỉ và bí tích của Người giữa lòng trần thế. Chính Giáo Hội là Thân Thể mầu nhiệm của Người, trong đó các tín hữu hiệp nhất nên một với nhau để diễn tả căn tính, đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội giữa dòng đời. Đức Giê-su cũng là Đầu của Thân Thể nghĩa là Đầu của Giáo Hội. Mọi người trong gia đình nhân loại được mời gọi đi Đường của Người, trở nên chi thể của Giáo Hội là Thân Thể mầu nhiệm của Người hầu góp phần kiến tạo gia đình nhân loại trong sự thật, hiệp nhất và yêu thương để mọi người ngày càng sống xứng đáng hơn với phẩm giá của mình là được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa, được trở thành con cái Thiên Chúa trong hành trình trần thế cũng như trong Quê Hương vĩnh cửu.