ĐÔI NÉT VỀ VIỆC CỬ HÀNH LỄ MÌNH MÁU THÁNH CHÚA KITÔ
Nt. Anna Ngọc Diệp, OP
Dòng Đa Minh Thánh Tâm
Theo: simplycatholic.com, pillarcatholic.com
và osvnews.com (13. 6. 2022)
WHĐ (17.6.2022) - Bí tích Thánh Thể là trọng tâm của đời sống
Giáo hội, như Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo mô tả, “là bản toát yếu và tổng luận của đức tin” (Số 1327), và như Hiến chế
Tín lý về Giáo hội khẳng định, “là nguồn
mạch và chóp đỉnh của đời sống Kitô hữu” (Lumen Gentium, số 11). Do đó, việc Giáo Hội cử hành lễ Corpus Christi, mà chúng ta gọi là lễ
Mình Máu Chúa Kitô rất quan trọng và ý nghĩa. Nhưng để dẫn tới việc Phụng vụ mừng
ngày lễ trọng này hằng năm như hiện nay, là một tiến trình trải qua nhiều thế kỷ.
Bối cảnh lịch sử
Thánh Juliana of Liege, một nữ tu sống tại tu viện gần
Liege, Bỉ, đã dành phần lớn cuộc đời của mình để cổ vũ cho việc thiết lập một
ngày lễ dành tôn vinh sự hiện diện thực sự của Chúa Kitô trong Bí tích Thánh Thể.
Từ khi 16 tuổi, Juliana đã trải qua một loạt thị kiến, trong đó có cảnh tượng về
mặt trăng tròn bị che khuất bởi một đốm đen. Chúa Giêsu đã cho Juliana hiểu ý
nghĩa của thị kiến: Mặt trăng biểu thị cho Giáo hội, và khoảng đốm đen tượng
trưng sự thiếu vắng một ngày lễ mà Người mong muốn, đó là Bí tích Thánh Thể,
ngoài việc được cử hành hằng ngày, cần được chú trọng đặc biệt với ngày lễ
riêng.
Trong thời gian đầu, Juliana giữ kín về những thị kiến tuy
chị vẫn trung thành dành thời gian cầu nguyện với Chúa Giêsu Thánh Thể, và lôi
kéo người khác đến với tình yêu của Thánh Thể.
Hai mươi năm sau, Juliana trình bày với Đức cha Robert de
Thorete, là giám mục địa phương, về những thị kiến của mình. Mặc dù ý tưởng ban
đầu gặp một số do dự, nhưng vào năm 1246, Giám mục Thorete ra lệnh cử hành lễ
Mình Máu Chúa Kitô trên toàn giáo phận của mình.
Sau khi Juliana qua đời, năm 1264, Đức Giáo hoàng Urban IV
ban hành sắc lệnh Transiturus de hoc
mundo thiết lập Lễ Mình Máu Thánh cho toàn thể Giáo hội Latinh. Tuy nhiên
ngài qua đời trước khi chỉ thị về ngày lễ được thực hiện. Do đó, phải tới năm
1317 dưới triều đại của Giáo hoàng John XXII ngày lễ này mới được chính thức
thêm vào lịch Phụng vụ Giáo hội hoàn vũ.
Ngay từ khi thành lập, Lễ Mình Máu Thánh được ấn định vào Thứ
Năm sau Chúa Nhật lễ Chúa Ba Ngôi, và hiện vẫn tiếp tục được cử hành tại nhiều
quốc gia. Tuy nhiên, vào năm 1969 ngay sau Công đồng Vatican II, Đức Thánh Cha
Phaolô VI đã cho phép các Hội đồng Giám mục lựa chọn dời ngày lễ này từ Thứ Năm
sang Chúa Nhật sau lễ Chúa Ba Ngôi.
Rước kiệu Thánh Thể
Khi thực sự trở nên phổ biến, một trong những khía cạnh phụng
vụ chính của lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô là cuộc rước kiệu Mình Thánh.
Rước kiệu vốn là một hình thức cầu nguyện phụng vụ có tầm
quan trọng trong Kinh thánh. Trong Cựu ước, đã diễn ra các cuộc rước Hòm Giao ước,
và các cuộc hành hương nghi lễ đến các địa điểm thánh thiêng, đặc biệt là Đền
thờ ở Giêrusalem. Khi đi rước, người Do Thái ca ngợi Thiên Chúa bằng các bài
Thánh vịnh kết hợp với âm nhạc và vũ điệu. Ví dụ, Talmud mô tả các cuộc rước
vào 7 ngày của lễ các Đền Tạm, trong đó mọi người sẽ rước các cành dương liễu
quanh bàn thờ, hát một câu kinh của Thánh vịnh 118, 25 làm điệp khúc. Trong Tân
Ước, đám đông qui tụ ca ngợi trong cuộc rước Chúa Giêsu vào Thành Giêrusalem,
mà chúng ta quen gọi là cuộc rước vào Chúa Nhật Lễ Lá.
Về mặt thần học, những cuộc rước cho phép các Kitô hữu tôn
vinh Thiên Chúa, làm chứng trước công chúng về đức tin, và nhắc nhở tín hữu là
những người hành hương trên hành trình dương thế bước theo Chúa Giêsu trên “Con đường” (một tên gọi ban đầu của Giáo
hội).
Thánh Basil (+ 379) ở phương Đông và Thánh Ambrôsiô (+ 397) ở
phương Tây cung cấp một số tài liệu tham khảo sớm nhất về các cuộc rước phụng vụ
trong Giáo hội Công giáo. Cả 2 vị đều tuyên bố rằng những cuộc rước này đã được
thực hiện trong nhiều năm, kèm theo những bài hát mừng.
Dù thế, việc rước kiệu Mình Thánh Chúa công khai chỉ trở nên
phổ biến khi người ta nghi ngờ sự hiện diện thực sự của Chúa Giêsu trong Bí
tích Thánh Thể. Vào thời Trung cổ, những cuộc rước Mình Thánh Chúa được coi là
có tầm quan trọng cả trong Giáo hội và xã hội. Các cuộc rước Thánh Thể long trọng
liền ngay lễ Mình Máu Thánh Chúa được Công đồng Trentô khuyến khích để nhắc lại
niềm tin của Giáo hội về sự hiện diện của Chúa Giêsu trong Thánh Thể.
Trong cuộc rước, giáo dân và giáo sĩ đi theo sau vị giám mục,
người mang Mình Thánh trong mặt nhật, thường được che bởi một chiếc lọng, diễu
hành qua các đường phố. Các tín hữu quỳ tại vị trí bên ngoài nhà của họ khi
đoàn rước đi qua, như một cách tín hữu Công giáo công khai tuyên xưng đức tin
và thể hiện việc tin nhận lời Chúa: “Bánh
Ta sẽ ban, chính là thịt Ta vì sự sống thế gian” (Ga 6, 51).
Vào đầu những năm 1300, các cuộc rước Mình Thánh Chúa được kết
thúc bằng Phép lành cho dân chúng.
Trong những thập kỷ gần đây, Thánh giáo hoàng Gioan Phaolô
II đã khôi phục tập tục cuộc rước Mình Thánh của Đức giáo hoàng được tiến hành
sau thánh lễ tại Vương cung thánh đường Thánh Gioan Lateran, để đi tới Vương
cung thánh đường Đức Bà Cả.
Theo Thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II, các cuộc rước Thánh
Thể cho thấy: “Đức tin của chúng ta vào
Thiên Chúa, Đấng đã mặc lấy thân xác để trở thành bạn đồng hành của chúng ta, cần
phải được rao truyền khắp nơi, đặc biệt là trên đường phố và khu xóm của chúng
ta, như một biểu hiện của tình yêu biết ơn và như một nguồn hạnh phúc vô tận”
(Mane Nobiscum Domine, số 18). Cũng
trong lăng kính này, Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI nhìn nhận, các cuộc rước Mình
Thánh Chúa cho phép chúng ta “hòa mình
vào Chúa Kitô trong thói quen hàng ngày của cuộc sống, để Người có thể bước đến
nơi chúng ta bước đi, và sống ở nơi chúng ta đang sống”. Còn với Đức giáo
hoàng Phanxicô, cuộc rước Thánh Thể trên các đường phố mang lại cho chúng ta, “không chỉ niềm vui khi cử hành mầu nhiệm
vinh quang của Bí tích Thánh Thể, mà còn ca tụng, bày tỏ lòng biết ơn vì Chúa
Kitô đã nuôi dưỡng chúng ta bằng chính Mình và Máu Thánh của Người”.
Ngày nay, hầu hết các cuộc rước kiệu Thánh Thể thường kết
thúc bằng việc Chầu Mình Thánh.
Chầu Mình Thánh
Trong suốt 300 năm đầu của Kitô giáo, không có các hoạt động
Chầu Thánh Thể được tổ chức riêng biệt ngoài các buổi thờ phượng vào Chúa Nhật.
Cho đến khoảng năm 313, sau khi chấm dứt giai đoạn bị cấm đạo, việc xây dựng
các nhà thờ được tiến hành rộng rãi và Mình Thánh dành riêng cho bệnh nhân thường
được lưu giữ trong phòng thánh. Nhiều thế kỷ tiếp theo, Mình Thánh được di dời
ra khỏi phòng thánh và được cất giữ ở các vị trí xung quanh và phía trên bàn thờ
trong nhà thờ.
Các chuyên gia lịch sử Giáo hội đồng ý rằng việc tôn thờ
Thánh Thể dành riêng trong nhà tạm được bắt đầu vào cuối thế kỷ XI hoặc XII.
Khi tín hữu cầu nguyện kéo dài 40 giờ trong Tam Nhật Phục sinh. Con số 40 tượng
trưng cho thời gian Chúa Giêsu nằm trong mộ.
Sau này, việc trưng bày Mình Thánh Chúa ngoài Thánh Lễ, tức
là đem Mình Thánh Chúa từ Nhà tạm và đặt trên bàn thờ trong một thời gian, mà
ngày nay chúng ta gọi là Chầu Thánh Thể, phải đến khoảng năm 1600, Giáo hội mới
ban hành những hướng dẫn chi tiết để tiến hành.
Khi việc sùng kính kết thúc ở một nhà thờ này, Mình Thánh
Chúa được rước đến một nhà thờ khác, và được đặt trên bàn thờ trong 40 giờ cầu
nguyện khác. Sau đó Mình Thánh Chúa lại được mang đến nhà thờ tiếp theo, v.v.
Từ những nỗ lực ban đầu này, việc Chầu Thánh Thể đã mở rộng
đến các giáo xứ, nhà nguyện và nhà thờ Công giáo trên khắp thế giới.
Thánh ca Thánh Thể
Không lâu trước khi ban hành sắc lệnh năm 1264, Đức Giáo
Hoàng Urban IV đã giao cho Thánh Tôma Aquino, đang là nhà thần học của Giáo
hoàng, soạn các bản văn phụng vụ mới cho ngày lễ Mình Thánh Chúa.
Cho đến nay, nhiều bản văn dành cho lễ Mình Máu Thánh do
Thánh Tôma Aquino sáng tác, vẫn là những bài thánh ca đóng vai trò thiết yếu và
đặc trưng của ngày lễ. Ví dụ, bài Lauda
Sion là Bài ca tiếp liên được đọc hoặc hát sau bài đọc thứ hai và trước
Alleluia trong Thánh lễ; bài Pange Lingua,
thường được hát trong cuộc rước Thánh Thể sau Thánh Lễ Tiệc Ly vào Thứ Năm Tuần
Thánh, mà hai khổ thơ cuối cùng, có tên là Tantum
ergo được hát trong khi Chầu Thánh Thể.
Những vị thánh của Bí tích Thánh Thể
Trong suốt 2.000 năm lịch sử Giáo hội, các tín hữu Công giáo luôn thể hiện lòng yêu mến, tin thờ Chúa Kitô ngự trong Bí tích Thánh Thể. Trong đó, các Thánh luôn là những người có lòng yêu mến Thánh Thể cao độ, và không ít vị hằng tha thiết và nhiệt tâm rao truyền về Bí tích Cực trọng này. Chúng ta có thể kể tên một vài vị Thánh gần gũi với chúng ta ngày nay.
1. Thánh Phêrô Julian Eymard
Mặc dù phải ra-vào chủng viện nhiều lần vì sức khỏe kém,
nhưng chức linh mục của Thánh Phêrô Julian Eymard đã biểu dương tình yêu và ước
muốn mãnh liệt truyền bá lòng sùng kính đối với Bí tích Thánh Thể. Vượt qua biết
bao trở ngại bước đầu, thánh Eymard đã thành lập 2 dòng tu để thực hiện đặc sủng
mà ngài được kêu gọi nuôi dưỡng trong Giáo hội: Dòng Thánh Thể cho nam giới, và
Dòng Nữ tì Thánh Thể dành cho nữ giới. Ngoài ra, nỗ lực chủ yếu của thánh nhân
là tập trung vào việc giúp trẻ em chuẩn bị cho việc Rước lễ lần đầu và khuyến
khích những người Công giáo đã sa ngã trở lại với bí tích hoà giải và Thánh thể.
Chính điều này đã khiến ngài được biết đến như một Tông đồ của Bí tích Thánh Thể.
2. Thánh Clara
Trong các bức hình, người ta thường thấy Thánh Clara đang cầm
một mặt nhật hoặc bình đựng Mình Thánh. Điều này gợi nhớ lại thời điểm thánh
nhân đặt Thánh Thể ở cửa trước của tu viện để ngăn chặn và đẩy lui sự tấn công
nhà dòng của quân đội hoàng đế. Sự khao khát Thánh Thể của Thánh Clara càng
mãnh liệt hơn, vì theo thực hành vào thời Trung cổ, tín hữu chỉ có thể được rước
Thánh Thể một số ít lần trong năm. Thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II đã ca ngợi
rằng “Cả cuộc đời Thánh Clara là một Bí
tích Thánh Thể” do thánh nữ tiếp tục ‘tạ ơn’ Thiên Chúa trong lời cầu nguyện,
ngợi khen, khẩn nài, dâng hiến và hy sinh”
3. Thánh giáo hoàng Piô X
Đức Thánh Cha Piô X đã nỗ lực để củng cố đức tin của người
Công giáo qua việc đặt ưu tiên giảng dạy giáo lý, cải cách phụng vụ, và một
trong những điểm nổi bật là tăng cường lòng nhiệt thành đối với Bí tích Thánh
Thể. Ngài nhấn mạnh đến việc rước Thánh Thể đều đặn và sốt sáng, vì “Sự kết hợp với Chúa Kitô được củng cố, đời sống
thiêng liêng được duy trì dồi dào hơn, tâm hồn được ban tặng thêm nhiều nhân đức,
và lời cam kết về hạnh phúc vĩnh cửu được ban cho người nhận một cách chắc chắn
hơn”. Chính thánh nhân bãi bỏ tập quán chỉ những thiếu niên thanh niên mới
được rước lễ lần đầu, khi cho trẻ em được phép rước lễ lần đầu sớm hơn, nghĩa
là khoảng 7 tuổi, là độ tuổi được xem là có thể dùng lý trí.
4. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II
Là người nhận thức rất rõ về những hoa trái mà Bí tích Thánh
Thể mang lại, Huấn quyền của Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II phản ánh động lực
thúc đẩy việc canh tân Bí tích Thánh Thể trong đời sống Giáo hội, để người Công
giáo có thể nhận ra Thánh Thể là nguồn mạch và chóp đỉnh của đời sống và hoạt động
của Giáo hội. Ngài mời gọi người Công giáo “Hãy
để Chúa Giêsu hiện diện trong Bí tích Thánh Thể nói với trái tim chúng ta,”
vì “Chính Chúa Giêsu là câu trả lời đích
thực của cuộc sống mà chúng ta đang kiếm tìm. Người là Thiên Chúa ở cùng chúng
ta. Hãy tìm kiếm Người không mệt mỏi, tiếp nhận Người không e ngại, và yêu mến
Người không gián đoạn: hôm nay, ngày mai, và mãi mãi!”.
5. Thánh Têrêxa Calcutta
Được biết đến với những việc bác ái anh hùng dành cho “những người nghèo nhất trong số những người
nghèo,” Mẹ Têrêxa nhìn nhận rằng Mẹ và các nữ tu thuộc Dòng Thừa Sai Bác ái
chẳng thể thi hành sứ mệnh của mình nếu không chầu Thánh Thể đều đặn hằng ngày.
Với Mẹ, để có thể cống hiến cách trọn vẹn cho những người bị bỏ ra bên lề và
túng thiếu nhất, rất cần sức mạnh từ Chúa Kitô nên phải bắt đầu và kết thúc một
ngày trong sự tôn thờ Thánh Thể: “Thánh
Thể đã đưa chúng tôi đến gần nhau. Chúng tôi yêu thương nhau hơn, nhưng chúng
tôi yêu thương người nghèo bằng niềm tin và tình yêu lớn hơn, và sâu sắc hơn”.
6. Chân Phước Carlo Acutis
Chân phước Carlo Acutis, dù qua đời khi mới 15 tuổi nhưng đã
làm say đắm biết bao người Công giáo kể từ khi được phong chân phước năm 2020.
Là người có một tình yêu rất nồng nhiệt đối với Chúa Giêsu Thánh Thể,
Carlo gọi Thánh Thể là “xa lộ lên thiên
đàng của tôi”. Quyết tâm ưu tiên cuộc sống của mình xung quanh Bí tích
Thánh Thể, cậu tham dự Thánh lễ mỗi ngày từ khi lên 7 tuổi, và luôn dành thời
gian mỗi ngày để chầu Thánh Thể. Quá say mê các phép lạ Thánh Thể qua các thế kỷ,
Carlo cố gắng đi thăm viếng và ghi lại các phép lạ Thánh Thể. Hơn nữa, thông
qua việc dùng kỹ thuật số như một công cụ tông đồ, Carlo đã thiết kế các trang
web nhằm lan tỏa tình yêu của mình đối với Thánh Thể và khuyến khích mọi
người cũng làm như thế bởi vì “càng rước
lễ chúng ta sẽ càng nên giống Chúa Giêsu hơn”.
***
Khi điểm lại đôi nét về việc cử hành ngày lễ kính Mình Máu
Thánh Chúa Kitô, ước mong chúng ta cảm nhận tình yêu sâu thẳm mà Chúa Giêsu đã
dành cho chúng ta đến độ Người không chỉ trở nên phận người, mà còn trở nên tấm
bánh bị bẻ ra, bị nghiền nát để chúng ta được tham dự vào sự sống thần linh của
Người. Cảm nghiệm được điều này có lẽ chúng ta cũng chỉ biết:
Ngước mặt để:
- tạ ơn Chúa đã ban tặng chúng ta đức tin đủ tinh tế để nhận
ra tình thương cao vời của Chúa;
- tạ ơn Chúa đã ban tặng chúng ta món quà tuyệt diệu mỗi
ngày là Chúa Giêsu Thánh Thể, Đấng đã đến để chia sẻ, ở lại, và nâng đỡ phận
người của chúng ta;
- tạ ơn Chúa đã gieo vào tâm hồn chúng ra về lòng biết ơn:
dù đó là hồng ân sự sống song hành với mất mát, chết chóc, khổ đau; dù đó là những
tháng ngày bình an, hạnh phúc, vui tươi xen lẫn sóng gió, chông chênh, bệnh tật…
Cúi đầu để:
- Xin Chúa thêm lòng trông cậy giúp chúng ra nhạy bén nhận
ra Chúa đang hiện diện trong mọi biến cố cuộc đời để dám phó thác mọi sự trong
tay Chúa;
- Xin Chúa thêm lòng mến giúp chúng ta biết yêu mến Chúa, biết
xóa mình trong Chúa, và sống bằng sức sống của Chúa;
- Xin Chúa khơi dậy khát vọng dâng hiến giúp chúng ta vượt thắng những e ngại, tính toán, cân đong đo đếm để bung tỏa niềm vui của chính Chúa cho người khác ngay trong cuộc sống đời thường của chúng ta.