CÔNG NGHỊ HỘI AN (19.01.1672)
(Con đường “mục vụ hiệp
hành”
của Đức cha Pierre Lambert De La Motte)
Linh mục Giuse Trương Đình Hiền
WHĐ (16.01.2024) - Bài viết là để:
- mừng kỷ niệm 400 năm ngày sinh của Đức cha Pierre Lambert de la Motte: 28.01.1624 - 28.01.2024;
- mừng Kỷ niệm 352 năm Công nghị Hội An: 19.01.1672 - 19.01.2024;
- và mừng ngày chính thức mở án phong chân phước và phong thánh cho Đức cha Lambert: 13.01.2024.
Dẫn nhập: Ngọn gió của Công Đồng Trento thổi đến
phương đông
Khi đọc lại
lịch sử của Hội thánh trong giai đoạn thế kỷ 16,17, quả thật, không
ai phủ nhận vai trò, tầm quan trọng và sức ảnh hưởng rộng khắp và
lâu dài của Công Đồng Trentô[1] trên toàn bộ
đời sống của Giáo Hội Công Giáo.
Một trong
những ảnh hưởng tích cực mà Công Đồng Trentô mang lại cho Giáo Hội
lúc bấy giờ đó chính là “viễn
tượng mới trong chiến lược truyền giáo” mà đối tượng đó là các
vùng đất ngoài Âu Châu, như nhận xét của nhà sử học Công Giáo thuộc
Dòng Tên Việt Nam - cố linh mục Đỗ Quang Chính: “Chúng ta đã biết Công đồng Trentô (1545-1563) có mấy điểm quan trọng trong nhiều điểm quan trọng khác, đó là: cải tổ sâu xa nội bộ Giáo hội,
bảo vệ Giáo hội, cụ thể là ở châu
Âu, khỏi bị cuốn theo Tin Lành, và mở rộng
Giáo hội sang các dân tộc ngoài châu Âu, tức là công việc truyền giáo tại các châu Á, Phi, Mỹ”[2].
Sở dĩ có
nhận xét như thế, vì cũng theo tác giả Đỗ Quang Chính, trước Công
Đồng Trentô, cụ thể là từ thế kỷ 16 trở về trước, cái nhìn chung
chung của Hội thánh về thế giới đó là “một thế giới phẳng” gần như
bị giản lược trong cái khung “địa văn hóa – tôn giáo - chính trị” Châu
Âu – Trung Đông; tức môi trường văn hóa và tôn giáo của Hy Lạp, Rôma, Do
Thái, Hồi Giáo: “Khoảng từ đầu thế kỷ XVI
trở về trước, Giáo hội Công giáo mới gặp gỡ các nền văn minh Hi Lạp, Roma, Ai Cập, Trung Đông và gặp gỡ tôn giáo lớn ngoài Kitô giáo như Hồi
giáo. Nhưng với sự khám phá ra nhiều dân tộc khác nhau trên thế giới sống trên
quả đất hình tròn, chứ không phải là hình phẳng, Giáo hội “đụng” với những nền văn minh Ấn Độ, Trung Hoa, Đông Nam Á,
Trung Nam Mỹ và ngỡ ngàng khi đối mặt với các tôn giáo lớn như Ấn giáo, Phật giáo, Khổng giáo, Lão giáo, Thần đạo
và nhiều dạng tín ngưỡng ở các châu lục ngoài châu Âu. Từ đó Giáo hội nhận thấy
công cuộc truyền giảng Tin Mừng không dễ như xưa”[3].
Cha ông của
chúng ta thật may mắn khi tiếp nhận “hạt giống Tin Mừng” đầu tiên
chính vào thời điểm mà “ngọn gió Thánh Thần của Công Đồng Trentô”
đang hướng đến vùng đất Á Châu. Thật vậy, nếu lấy cột mốc thời gian
là năm “1615”[4], khi các thừa
sai Dòng Tên từ Ma Cao cập bến Đàng Trong[5]
để mở một trang sử truyền giáo mới cho vùng Đông Á, thì chắc chắn,
trong “túi hành trang mục vụ loan báo Tin mừng” của các thừa sai đó
không thể thiếu những chỉ dẫn và tinh thần của Công đồng Trentô, kim
chỉ nam cần thiết cho Giáo hội đã xuất hiện trước đó khoảng 60 năm!
Thế nhưng,
lịch sử truyền giáo tại Việt Nam cũng đã ghi nhận rõ: chiến lược
truyền giáo tại Á Châu vào thế kỷ 17, đặc biệt, tại Đàng Trong và
Đàng Ngoài của Việt Nam, chỉ được thực hiện cách thống nhất và có
đường lối rõ rệt dứt khoát kể từ sau sự kiện ngày “9.9.1659”, tức
biến cố Tòa Thánh thiết lập hai Giáo phận Tông tòa đầu tiên tại
Việt Nam: Ngày 9.9.1659, với Sắc chỉ Super
Cathedram, Đức Giáo Hoàng Alexandro VII đã thiết lập hai Giáo phận
Tông Tòa Đàng Ngoài và Đàng Trong và giao cho hai Giám Mục: Pierre
Lambert de La Motte: Đại diện Tông Tòa Đàng Trong (Vicario apostolico in regno
Cocincinae) và François Pallu: Đại diện Tông tòa Đàng Ngoài
(Vicario apostolico in regno Tunchini)[6].
Trong chuyên luận giới hạn nầy, chúng ta thử dừng lại một “quyết sách mục vụ” theo đường hướng Công Đồng Trento của Vị Giám Mục Đại Diện Tông tòa Đàng Trong, Đức cha Pierre Lambert de La Motte, mà “Công nghị Hội An”[7] là một chứng từ rõ nét (nhân dịp kỷ niệm 352 năm Công nghị nầy: 19.01.1672 – 19.01.2024)!
I. CÔNG NGHỊ HỘI AN - BỐI CẢNH MỤC VỤ TỔNG QUAN
Như đã nói
trên, công cuộc loan báo Tin Mừng tại Việt Nam chính thức đi vào bài
bản kể từ thời điểm năm 1659, khi hai Giáo phận Tông tòa được thiết
lập cùng với việc bổ nhiệm hai vị mục tử Đại diện Tông Tòa trực
tiếp chăm sóc vụ cho đoàn chiên Đại Việt. Riêng Đức Cha Pierre Lambert
de La Motte là Giám Mục Đại Diện Tông tòa Đàng Trong kiêm nhiệm “Giám
Quản” Giáo phận Tông tòa Đàng Ngoài vì Đức cha François Pallu không
thể đặt chân đến nhiệm sở[8].
Vì tình
hình chính trị Đại Việt đang trong thời “Trịnh Nguyễn phân tranh” cùng
với những cuộc bách hại liên tiếp xảy ra ở tại cả hai miền Đàng
Ngoài lẫn Đàng Trong, nên trụ sở chính thức của hai vị Giám Mục Đại
diện Tông tòa được đặt thường xuyên tại Ayuthia[9],
thủ đô vương quốc Siam (tức Thái Lan ngày nay)[10].
Chính tại “bản doanh” này, một chương trình mục vụ mới đã được khai
mở, cho dù, cũng ngay tại nơi đây, các vị mục tử của chúng ta, đặc
biệt Đức Cha Lambert, đã phải đối diện với muôn vàn thử thách như
tường thuật của thừa sai Vachet và được linh mục Đào Quảng Toản biên
dịch lại trong tác phẩm “Giáo Hội Việt Nam năm 1659”[11].
1. Một “chương mới” trong công cuộc loan báo Tin mừng
đã bắt đầu
Để tiến
tới “Công nghị Hội An” năm 1672, Giáo Hội tại Việt Nam, đặc biệt,
Giáo Hội tại Đàng Trong, đã phải vượt qua một cuộc hành trình nhiêu
khê và gian khó. Và như chúng ta đã biết, khó khăn ban đầu mà Đức Cha
Lambert phải đối diện và từng bước khắc phục đó là những “hệ lụy
mục vụ tiêu cực” của hệ thống “Bảo Trợ truyền giáo”[12] đã chi phối
quá lâu công cuộc truyền giáo và mục vụ của Hội thánh. Có thể liệt
kê cách khái quát các tiêu cực mục vụ này như sau: tinh thần thế tục của bậc tu trì[13];
não trạng cạnh tranh băng nhóm, phá
đổ sự hiệp nhất giữa các Hội Dòng[14] và ngay cả với
thẩm quyền Hội Thánh[15]; sự lạm dụng quyền thế của đế quốc
Bồ Đào Nha[16]…
Bằng Hiến chế
(Constitutio) Inscrutabili Divinae Providentiae, Đức Grêgôriô XV chính thức
thiết lập Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin[17]
vào ngày 22.06.1622. Đây có thể nói được là một “chuyển biến lớn”,
một “cuộc cách mạng” trong chiến lược truyền giáo của Giáo Hội lúc
bấy giờ[18]. Cùng với sự
kiện quan trọng này, việc Tòa Thánh thiết lập hai Giáo phận Tông Tòa
cùng với các Giám Mục Đại diện Tông tòa ngày 9.9.1659 kèm theo “Huấn
Thị 1659” (Instructio vicariorum apostolicorum ad regna Sinarum, Tonchini et
Cocincinae proficiscentium 1659 (Huấn
dụ các đại diện tông tòa đi các nước
Trung Quốc, Đàng Ngoài và Đàng Trong
năm 1659), có thể nói được, “một chương mới” trong công cuộc loan
báo Tin mừng đã khởi sự!
2. Dưới “Tấm bảng chỉ đường” của “Huấn thị 1659”
Quả thật,
điều may mắn mà các vị “Đại diện Tông tòa” miền Á châu có được khi
chính thức dấn thân vào sứ vụ đó chính là “những chỉ thị và hướng dẫn cụ thể của Tòa Thánh”, tức
văn kiện “Huấn thị 1659”, để áp dụng vào công cuộc mục vụ tại những
vùng đất cách xa trung tâm Giáo Hội Mẹ. Ngay từ lúc ra đời, văn kiện
này đã được đánh giá là “tài liệu
chung cuộc về chương trình hoạt động của Thánh bộ Truyền Bá đức tin”[19], một định hướng mới mẻ, hợp thời và
đầy tính thích ứng cho công cuộc truyền giáo[20]…
(x. Linh mục GIUSE TRƯƠNG ĐÌNH HIỀN, Bình
vẫn chưa hề cũ, Bài 1, Phần II: Tìm
lại kho tàng bị lãng quên)[21].
Thật vậy,
chính nhờ “kim chỉ nam” đầy tính “sáng tạo và khả năng đáp ứng” này
mà hai Đức cha Lambert và Pallu cùng các cộng sự viên thân tín, những
thừa sai nhiệt tình đắc lực và dày kinh nghiệm, đã từng bước đề
xuất cả một chương trình hành động vừa táo bạo, vừa cần thiết và
cũng vừa thích dụng với hiện tình. Theo cách phân tích của linh mục Đào
Quang Toản trong tác phẩm “GIÁO HỘI VIỆT NAM NĂM 1659”, Huấn Thị đã có những định
hướng tối quan trọng và cần thiết, được phản ảnh qua 4 chủ điểm sau:
- “Giải thoát Giáo Hội địa phương khỏi quyền bảo trợ Bồ
Đào Nha.
- Thiết lập hàng giáo sĩ bản xứ.
- Không dây dưa dính dáng vào chính trị.
- Tôn trọng văn hóa địa phương”[22].
3. Áp dụng “định hướng công nghị” của Công Đồng
Trento
Thế nhưng,
như chúng ta đã khẳng định từ ban đầu: Công cuộc loan báo Tin Mừng
thời đầu tại Việt Nam, nhất là kể từ năm 1615, đã thừa hưởng những
hoa trái của Công đồng Trentô, mà một trong những “hoa trái” tốt đẹp
vừa mang tính “truyền thống” vừa thích dụng với mọi hoàn cảnh mục
vụ, đó là “Định hướng Công nghị”
(Orientation synodale)[23];
một định hướng có từ Mạc khải Cựu ước[24],
được Đức Kitô tiếp tục khai triển[25],
được Giáo Hội áp dụng ngày từ thời các Tông đồ[26],
trải qua thời các Giáo Phụ và những thế kỷ nối tiếp[27]…
Riêng Ủy ban
Thần học Quốc tế[28] đã xác nhận
rằng: chính Công đồng Trentô “đã
thiết lập quy tắc là các công nghị giáo phận phải diễn ra hàng năm,
các công nghị cấp giáo tỉnh ba năm một lần, như một cách thế để
truyền động lực cải cách của Trentô cho toàn thể Hội Thánh. Một
kiểu mẫu và mô hình của điều này được tìm thấy trong những gì mà
thánh Charles Borromeo đã làm với tư cách là Tổng Giám mục Milan.
Trong sứ vụ lâu dài của mình, ngài đã triệu tập năm công nghị cấp giáo
tỉnh và mười công nghị cấp giáo phận. Tại châu Mỹ, thánh Turibius
thành Mogrovejo đã tiến hành một việc tương tự: ngài triệu tập ba
công nghị cấp giáo tỉnh và mười ba công nghị cấp giáo phận. Cũng có
ba công công đồng cấp giáo tỉnh ở Mêxicô trong cùng thế kỷ”[29].
Phải chăng
Đức Cha Lambert đã muốn đi theo dấu chân của vị thánh Giám mục thời
danh, Carôlô Borrômêô (1538-1584), chọn “định
hướng công nghị” như con đường và ánh sáng dẫn dắt hành trình
mục vụ của ngài tại vùng đất Á châu mới mẻ mà ngài vừa đặt chân
đến. Bởi vì, mới chỉ trong vòng mười năm kể từ ngày Đức cha Lambert
đặt chân lên Ayuthia (22.8.1662) và hai năm với Đức cha Pallu (24.01.1664)
mà các ngài, đặc biệt Đức cha Lambert, đã triệu tập liên tiếp ba Công
nghị để đưa ra các đường lối hoạt động tông đồ trong giai đoạn mới:
3.1. Công
nghị Ayuthia (29.02.1664)[30]: Định hướng
tổng quát việc triển khai và áp dụng các chỉ thị mục vụ trong
“Huấn thị 1659” của Thánh Bộ truyền bá đức tin. Đặc biệt, công nghị
nầy nhấn mạnh tới “linh đạo thừa sai” và việc “đào tạo nhân sự cho
vùng truyền giáo” (Lập chủng viện đào tạo ứng sinh linh mục, dòng
Mến Thánh giá…)[31] mà văn kiện
kết thúc Công nghị mang tên “Monita ad missionarios” (Nhắn nhủ
các thừa sai) là một “viên ngọc quý” đầy tính thức thời và mang giá
trị vượt thời gian[32].
3.2. Công
nghị Phố Hiến (14.02.1670): Trong cuộc kinh lý mục vụ đầu tiên tại
giáo phận Tông tòa Đàng Ngoài (30.8.1669), Đức cha Lambert, trong vai
trò “Giám Quản Đại diện Tông tòa”, đã thi hành nhiều quyết sách mục
vụ quan trọng (Lập Dòng Mến Thánh Giá Đàng Ngoài, phong chức linh
mục…); trong đó có việc ngài mở “Công
nghị Phố Hiến” khoảng đầu năm 1670 mà mục tiêu chính là đề ra
những giải pháp mục vụ đáp ứng cho thời “hậu chế độ Bảo Trợ truyền giáo”[33].
3.3. Công nghị Hội An (19.01.1672): Trong cuộc kinh lý mục vụ tại Đàng Trong lần thứ nhất (31.8.1671), Đức cha Lambert chính thức thực thi quyền Chủ chăn trên chính Giáo phận Đại diện Tông tòa được giao cho mình. Chính trong lần “kinh lý mục vụ” đặc biệt nầy, Đức cha Lambert đã mở Công nghị đầu tiên tại Đàng Trong (hay còn gọi là “Công nghị Hội An”) như là một “thiết chế mục vụ” căn bản để “chuẩn hóa” đường lối sống đạo và hoạt động tông đồ trên toàn Giáo phận Tông tòa Đàng Trong sau thời “Bảo trợ truyền giáo”. Chúng ta sẽ dừng lại lâu hơn để tìm hiểu thêm về “Công nghị đặc biệt” này.
II. CÔNG NGHỊ HỘI AN - NHỮNG QUYẾT SÁCH MỤC VỤ
Căn cứ vào
nội dung, mục đích nhắm tới và hoàn cảnh thực hiện, thì chúng ta
có thể nhận ra vài “điểm nhấn đặc trưng” nơi ba Công nghị được Đức
cha Lambert cùng với các cộng sự viên xướng xuất triệu tập.
- Trước
hết, “Công nghị Ayuthia 1664”,
được triệu tập nơi “phần đất tạm dung”, chỉ là một “phác thảo” mang
tính “định hướng tổng quát” thiên về “chiều kích linh đạo” liên quan
đến bản thân các thừa sai đang dấn thân hoạt động tong đồ và đến công
cuộc đào tạo nhân sự.
- Thứ đến, “Công nghị Phố Hiến 1670”, được
triệu tập trên địa bàn mục vụ là “Giáo phận Tông tòa Đàng Ngoài”,
vùng đất đang được giám quản” (thay cho Đức cha Pallu), cơ bản chỉ là
một “giải pháp tình thế” cần thiết nhất thời để đáp ứng yêu cầu
mục vụ của giai đoạn chuyển tiếp từ “chế độ Bảo trợ truyền giáo”
sang “chế độ thuộc quyền Thánh Bộ”.
- Trong khi
đó, “Công nghị Hội An 1672” được
triệu tập lần đầu tiên ngay trên địa bàn mục vụ Giáo phận Tông tòa
Đàng Trong, nơi được giao phó cho Đức cha Lambert cai quản. Vì thế,
“Công nghị” này chính là định hướng mục vụ nền tảng và chính thức,
liên quan trực tiếp và mật thiết đến “chủ chăn” là chính Đức cha
Lambert và “đàn chiên Đàng Trong” do chính ngài chăm sóc. Chính vì
thế, nội dung văn kiện đặc biệt này có những “điểm nhấn quan trọng”
mà chúng ta cần lưu ý và đào sâu.
1. Công nghị Hội An - Bối cảnh mục vụ Đàng Trong
1.1. Đàng
Trong thời cơ chế “bảo trợ truyền giáo”
Kể từ cuối
thế kỷ 15, chính xác là Ngày
04.05.1493, khi Đức Giáo Hoàng
Alexandrô VI ký Sắc chỉ Inter Caetera, phân chia quyền bảo trợ truyền giáo cho hai nước Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha”, công
cuộc loan báo Tin mừng gần như được Giáo Hội “khoán trắng” cho các
Dòng tu và dưới sự điều động, giám sát và bảo trợ của hai đế quốc
hàng hải Công giáo của Âu châu[34]. Dĩ nhiên, cơ chế “lưỡng tính” vừa
“thần quyền” vừa “thế quyền” này đã tương đối thích hợp và góp
phần không nhỏ cho công cuộc truyền giáo thời đó.
Để thực
hiện chủ trương trên của Tòa Thánh, vào ngày 07.06.1494, hai “quốc gia
bảo trợ truyền giáo” đã ký hiệp ước tại Tordesillas (Tây Ban Nha) để thỏa
thuận đường ranh giới là kinh tuyến 30 từ Bắc cực xuống Nam cực. Tây kinh tuyến
thuộc Tây Ban Nha; Đông kinh tuyến thuộc Bồ Đào Nha, gồm Phi châu và Á châu.
Như vậy, Giáo phận Tông tòa Đàng Trong trước 1659 nằm trong lãnh địa
và dưới “chiếc ô bảo trợ truyền giáo” của đế quốc Bồ Đào Nha[35]. Trong khi đó,
phần đông các thừa sai Dòng Tên hoạt động tại Đàng Ngoài và Đàng
Trong thuở ấy là người Bồ[36].
1.2. Dòng
Tên và những thành quả kiệt xuất
Như mọi
người đã biết, kể từ năm 1615, các thừa sai Dòng Tên đã hiện diện
và hoạt động tại Đàng Trong vừa đông đảo vừa sinh động[37]; và các ngài
đã dày công xây dựng cộng đoàn Đàng Trong (và Đàng Ngoài không lâu sau
đó) mỗi ngày mỗi lớn mạnh về nhiều phương diện trong suốt giai đoạn
“Bảo trợ truyền giáo”[38]. Tại Đàng
Trong, qua các “trung tâm” cũng là các “cư sở” chính thức của các
ngài như Nước Mặn (1618), Hội An (1620), Dinh Chiêm (1625)[39], các thừa sai
Dòng Tên vừa hăng say giảng đạo vừa chuyên tâm soạn tác chữ Quốc ngữ,
đào sâu chữ Nôm, soạn dịch kinh sách giáo lý… để làm cơ sở vững
chắc cho công cuộc “hội nhập Tin mừng và văn hóa”. Riêng “Chữ Quốc ngữ”, có thể nói được,
là một công trình văn hóa vĩ đại, không chỉ mang lại thiện ích to
lớn cho công cuộc truyền giáo của Giáo Hội tại Việt Nam nói riêng mà
còn đóng góp quyết định cho công cuộc phát triển toàn diện của dân
tộc Việt Nam, đất nước Việt Nam nói chung[40].
Xét về mặt
ảnh hưởng lâu dài và sâu xa, có thể nói được, hoa trái lớn nhất cho
công cuộc truyền giáo của Dòng Tên đó chính là đào tạo được các
“Thầy Giảng”[41], một công cụ
tông đồ và truyền giáo đắc dụng, cơ sở cho việc đào tạo linh mục và
tu sĩ bản địa lúc bấy giờ cũng như cho mọi thời. Đặc biệt, trong số
các Thầy Giảng đó, có một chứng nhân đức tin và cũng là vị “Tử đạo tiên khởi” của Hội thánh
Việt Nam, đó là Á Thánh Anrê Phú Yên[42].
Riêng tại
Đàng Trong, vào khoảng thời gian Đức cha Lambert đặt chân đến Ayuthia,
đang có 3 linh mục thừa sai Dòng Tên đang hoạt động: cha Baudet (người
Pháp), cha Fucciti (người Ý) và cha Marques (người Nhật lai Bồ Đào Nha)[43] cùng với các
“thầy giảng đức hạnh”[44] mà hai trong
số trong họ đã được Đức cha Lambert phong chức linh mục: đó là cha
Giuse Trang, vị linh mục tiên khởi của Việt Nam, được thụ phong tại
Ayuthia ngày 31.3.1668 và cha Luca Bền cũng được thụ phong sau đó vào
đầu năm 1669[45].
Phải chăng,
vì những thành quả kiệt xuất trong công cuộc loan báo Tin Mừng mà
Dòng Tên đã được Tòa Thánh ưu ái cách đặc biệt; bằng chứng là ngày
15.10.1646, Đức Giáo Hoàng Innocens X đã ban đặc quyền cho “cha Bề trên cả Dòng Tên được tự do
gửi các tu sĩ của Dòng đi truyền giáo”[46] (mà không
chịu sự giám sát nào của Giáo quyền).
1.3. Tính
bất toàn của “cơ chế bảo trợ” và những hiện tượng tiêu cực của các
dòng tu
Tuy nhiên,
bất cứ cơ chế nào của con người hoặc do “con người nặn ra” đều bất
toàn, cho dù đó là những “công cụ của Giáo Hội và trong Giáo Hội”!
Đừng quên rằng, ngay chính bản thân Giáo Hội có nguồn gốc thần linh
là “Thánh ý Thiên Chúa”[47] vẫn mang những
giới hạn và yếu đuối của thân phận con người tội lỗi cần sám hối
và canh tân không ngừng[48]!
Cơ chế “Bảo
trợ truyền giáo” đã tồn tại từ cuối thế kỷ 15 (1493)[49] cho tới những
thập niên đầu của thế kỷ 17 (1622)[50],
cho dù có mang lại nhiều kết quả tốt đẹp trong công cuộc truyền giáo
khắp thế giới của Hội thánh, cũng tới lúc bộc lộ nhiều hạn chế
và tiêu cực như nhận xét của tác giả Josef Holzer: “Thực-dân Bồ và Tây-Ban-Nha đi tới đâu, các nhà truyền giáo theo tới
đó. Những khám-phá và xâm chiếm đất-đai không chỉ vì quyền-lợi chính-trị,
quân-sự và kinh-tế, mà còn cả tôn-giáo. Nhưng tiếc thay, công cuộc truyền giáo
dưới cây dù thực-dân thường với những phương-cách tàn-bạo và nhơ-nhuốc đó đã tạo
cho người ta cảm-tưởng rằng Giáo-hội đã cùng một bè một cánh với thực-dân cướp-bóc.
Cảm-tưởng này cho đến ngày nay vẫn còn hằn sâu trong tâm-trí của một số dân-tộc”[51].
Cùng với
những tiêu cực thuộc “thế quyền” đó, chế độ bảo trợ truyền giáo
cũng kéo theo bao nhiêu tệ nạn khác ngay trong hàng ngũ các thừa sai: “…người ta sẽ thấy rằng hàng giáo sĩ phần
đông không ăn học và không có hạnh kiểm tốt, và các tu sĩ không còn giữ hiến
pháp của họ, những thói tục không tốt đã du nhập vào cộng đoàn làm cho họ không
còn biết vâng lời các bề trên (…). Về
đức khó nghèo, hầu hết tất cả các dòng tu đều kinh doanh và cho vay lấy lời,
ngay cả có những tu sĩ có riêng 10, 20, 30, 40 tới 50.000 ê-cu. Còn về đức khiết tịnh, có bao nhiêu vụ vấp
phạm nơi số đông tu sĩ đến nỗi một người lương thiện có gia đình, không dám cho
tu sĩ năng tới nhà ông ta mà không sợ mang tiếng. Hẳn là do những sai phạm quái gở ấy mà người ta thấy bàn thờ nầy chống
lại bàn thờ kia, và trong các cuộc rước kiệu công khai và trọng thể, có giáo sĩ
và tu sĩ mang dưới tu phục họ những dao găm và súng đạn, mà đôi khi họ sử dụng
để tàn sát lẫn nhau”[52].
1.4. Dòng
Tên và những “hệ lụy bảo trợ”!
Riêng Dòng
Tên, vì ảnh hưởng rộng khắp, vì thành quả rực rỡ và được Tòa
thánh tín nhiệm ban đặc quyền, cùng với sự hỗ trợ tối đa của mẫu
quốc Bồ Đào Nha…, nên không mấy mặn mà với quyết định “chuyển đổi cơ chế điều hành mục vụ
truyền giáo” của Rôma (từ “bảo trợ truyền giáo” sang “Giáo phận
Tông tòa), nếu không muốn nói là “tẩy chay và chống đối” mà biểu
hiện cụ thể nhất chính là những “thông báo” hoặc “thư luân lưu” phủ
nhận vai trò “Đại diện Tông tòa” của Đức cha Lambert[53]
hoặc ra vạ tuyệt thông cho ngài[54]…
Để thấy rõ
bối cảnh khó khăn của của Đức cha Lambert và những phức tạp nhiêu khê
của công cuộc mục vụ tại Đàng Trong và Đàng Ngoài (nhất là với các
tu sĩ Dòng Tên và thế lực Bồ Đào Nha) trong giai đoạn “chuyển đổi cơ
chế mục vụ tại các vùng truyền giáo Á Châu” lúc bấy giờ xin đọc
thêm các tư liệu sau đây:
- Đức cha Lambert với chế độ bảo trợ truyền giáo
Bồ Đào Nha[55].
- Căng thẳng giữa hai nhóm thừa sai[56].
- Chế độ cũ và chế độ mới[57].
Phải nói,
đây là điều “rất nghiêm trọng” mà Tòa thánh qua Thánh bộ Truyền bá
đức tin đã thấy và lường trước, như được phản ảnh qua chính những
“lưu ý đặc biệt” dành cho các vị Đại diện Tông Tòa được ghi rõ trong
Huấn
thị 1659:
- Trước khi
lên đường: Sau khi nhận được những Huấn
Thị này nơi vị Khâm sứ Tòa Thánh, chư huynh phải lên đường sớm nhất có thể và
phải bí mật nhất có thể, phải dấu kín với tất cả mọi người những gì liên quan
không những tới cuộc hành trình và quyết định khởi hành của chư huynh, mà cả tới
lộ trình và con đường mà chư huynh sẽ theo, sợ rằng khi tiết lộ ra, điều ấy sẽ
gây nên những trở ngại hàng loạt và tại rất nhiều địa điểm”.
- Trong lúc
đi đường: “chư huynh phải thận trọng về
những vùng và những nơi mà, cách này hay cách nọ, lệ thuộc quyền bính người Bồ
Đào Nha; đối với họ, xin chư huynh, bằng hết sức mình, tránh ngay cả việc chào
hỏi họ… Phải lưu tâm, nhất là trong cuộc hành trình, để không một ai có thể biết
được tên gọi và mục đích sứ mệnh của chư huynh. Bởi vậy, chư huynh hãy thay đổi
tên họ của mình, quốc tịch của mình và cung cách cư xử của mình đi; và đừng nói
năng chi đến chuyến đi, đến lộ trình và nhất là đến mục tiêu cuộc hành trình;
và điều quan trọng hơn cả, đó là đừng tiết lộ ra phẩm chức giám mục của chư
huynh…”[58].
Những lo xa
như thế của “Thánh bộ” không biết có “quá đáng” không? Tuy nhiên,
chúng ta cần phải hiểu rằng: người thực hiện chương trình chính là
người đang ở “đầu sóng ngọn gió” chứ không phải “ai đó đang chễm
chệ” ở Giáo triều Rôma! Vì thế, điều đáng chúng ta quan tâm chính là
những lựa chọn và hành động mục vụ cần thiết và thức thời của
chính vị chủ chăn Giáo phận Tông tòa Đàng Trong…
2. Công Nghị Hội An: những chuẩn bị và lựa chọn
nền tảng
2.1. Cầu
nguyện, phó thác, phân định
Đứng trước
một trách nhiệm nặng nề của cương vị Chủ chăn và với một hiện tình
mục vụ đầy nhiêu khê phức tạp của giai đoạn mới “Giáo phận Tông tòa”
tại vùng đất Đàng Trong xa lạ…, Đức cha Lambert đã không nãn lòng bỏ
cuộc hoặc “thúc thủ” để mặc con thuyền Giáo hội trôi đi theo bất cứ
hướng nào, hoặc lệ thuộc dưới áp lực của bất cứ thế lực nào.
Điều căn bản và cũng là chọn lựa trước tiên của Đức cha Lambert khi
dấn thân vào sứ vụ cao trọng nhưng khó khăn này chính là đặt niềm
tin tưởng và phó thác nơi Chúa được thể hiện qua đời sống cầu
nguyện, hy sinh và yêu thương đoàn chiên hết mình[59].
Trên nền
tảng vững chắc đó, Đức cha Lambert đã vận dụng phương thế “quan sát kỹ lưỡng hiện tình, giải
thích theo tiêu chuẩn đức tin và lựa chọn phương thế hành động dưới
ánh sáng Tin mừng”[60],
như được phản ảnh qua bức “Thư đệ trình Đức Thánh Cha Clément IX” (để
giới thiệu tổng quát về tài liệu Monita của Công nghị Ayuthia 1664): “Từ lúc mà Thiên Chúa nhân từ đã đoái
thương gọi chúng con đi truyền giáo, mặc dù chúng con bất xứng; và
từ lúc mà vị Tiền nhiệm của Đức Thánh Cha, Đức Alexandre VII đáng
nhớ, đã cất nhắc chúng con lên hàng Giám Mục và sai chúng con đến
với lương dân giúp họ trở lại, thì không điều gì khiến chúng con quan
tâm hơn là đem hết sức lực để hoàn thành sứ mạng cao quí và quan
trọng này. Chúng con đã nghe nhiều, chúng con đã đọc nhiều, chúng con
cũng đã quan sát tường tận tại các cuộc họp với những anh em đồng
nhiệm từ các xứ truyền giáo, và nhờ kinh nghiệm chúng con đã xem
xét kỹ lưỡng tất cả các tường trình. Một biến cố “thuận lợi” chưa
chắc đã giúp ích cho chúng con bằng việc chúng con phải bị bắt buộc
dừng lại lúc vừa đến ranh giới lãnh thổ được giao phó. Ý Chúa quan
phòng đã làm chậm lại những nỗ lực của chúng con để chúng con cùng
nhận ra điều phải làm hoặc phải tránh, đồng thời sự quan phòng cũng
bảo đảm “một vụ mùa bội thu” sắp tới”[61].
2.2. Theo
“phong cách hiệp hành”
“Hiệp hành”
(Synodality) đó là từ mà dân Công Giáo chúng ta được nghe, được đọc
nhiều nhất suốt hơn hai năm nay, kể từ ngày khai mạc tiến trình
Thượng Hội Đồng Giám mục thứ XVI giai đoạn “cấp giáo phận” - ngày
10.10.2021. Thông thường, “nghe, đọc…” về tính hiệp hành là một
chuyện; còn thực hiện “hiệp hành” lại là một chuyện khác.
Thế nhưng,
chúng ta đều biết rằng: Thượng Hội Đồng Giám Mục thứ XVI khi lựa
chọn chủ đề: VÌ MỘT GIÁO HỘI HIỆP HÀNH: HIỆP THÔNG, THAM GIA VÀ SỨ
VỤ (POUR UNE ÉGLISE SYNODALE: COMMUNION,
PARTICIPATION ET MISSION) không nhằm để “nghe, đọc, thảo luận…” mà
là như lưu ý của Thượng Hội Đồng trong “Tài liệu chuẩn bị”: “Hãy nhớ rằng mục đích của Thượng Hội đồng,
và do đó của cuộc thỉnh ý này, không nhằm tạo ra các tài liệu, mà là “để gieo mầm
ước mơ, rút ra các lời tiên tri và thị kiến, cho phép hy vọng nảy nở, khơi dậy
niềm tin, băng bó các vết thương, cùng nhau đan kết các mối tương quan, đánh thức
bình minh hy vọng, học hỏi lẫn nhau và mang lại một khả năng sáng tạo giúp khai
mở trí tuệ, sưởi ấm trái tim, tiếp thêm sức mạnh cho đôi tay””[62].
Hơn ba thế
kỷ trước, khi triệu tập “Công nghị Hội An” cho Giáo phận Tông tòa
Đàng Trong (19.01.1672), chắc chắn Đức cha Lambert cũng mang trọn những
“ước mơ hiệp hành” như thế dành cho một đàn chiên phần nào đang chao
đảo, mệt mỏi, lo lắng… trước những tin tức đó đây từ Ayuthia, Đàng
Ngoài về “bách hại, trục xuất các thừa sai”, về sự “chuyển đổi
cách vận hành mục vụ”; nhất là về “chia rẽ nội bộ, rạn nứt” đang
xảy ra tại Hội An Đàng Trong[63].
Vâng, đó là
ước mơ “hiệp hành” để “loan truyền
Phúc Âm”, “hiệp hành” để ‘tìm
kiếm các phương tiện thích hợp nhất cho vinh danh Đấng Cứu Thế”,
“hiệp hành” vì “ích lợi chung của toàn
công cuộc truyền giáo …, và vì sự phát triển của Kitô giáo cùng sự bình an cho
Giáo Hội…” như được phản ảnh ngay trong những lời đầu tiên của “văn
kiện kết thúc Công nghị”: “Từ lúc
chúng tôi đến vương quốc Đàng Trong, ngay khi có thể, vì nhiệm vụ của chúng
tôi, chúng tôi chú tâm suy nghĩ về việc loan truyền Phúc Âm. Và với nhiều thầy
giảng, các vị trùm trưởng các nhà thờ, cũng như với các Kitô hữu chính, chúng
tôi đã cẩn thận tìm kiếm các phương tiện thích hợp nhất cho vinh danh Đấng Cứu
Thế. Vào lúc chúng tôi sắp sửa phải rời xa vương quốc này vì ích lợi chung của
toàn công cuộc truyền giáo của chúng tôi, và vì sự phát triển của Kitô giáo
cùng sự bình an cho Giáo Hội này, chúng tôi đã quyết định đặt để một cách đạo đức
và chính đáng, vài điều cần thiết cho tình trạng hiện nay của đạo Chúa, theo khả
năng của chúng tôi”[64].
3. Công nghị Hội An: chiều kích hiệp hành
3.1. Giới
thiệu tổng quan
Như đã giới
thiệu ở trên, Công nghị Hội An chính là Công nghị đầu tiên tại Giáo
phận Tông tòa Đàng Trong do chính vị Giám Mục Đại diện Tông tòa cai
quản Giáo phận đích thân triệu tập và chủ trì mà phần lớn các tham
dự viên Công nghị là người Việt Nam Đàng Trong. Nội dung của Công nghị
được phản ảnh qua “Hiến chương chung kết” được phê duyệt ngày
21.11.1678 bởi Thánh Bộ Truyền bá Đức tin, sau 3 lần xem xét, nghiên
cứu. Thánh bộ đã có những kết luận như sau về “Bản Hiến chương Công
nghị Hội An 1672”: “Về lời thỉnh
nguyện xin công nhận công đồng do Đức cha Béryte cử hành tại Đàng
Trong mà văn kiện đã được trao cho các Hồng y Colonna, Alberizzi và
Casanata duyệt xét. Chúng tôi trả lời rằng không phải công nhận như
công đồng, nhưng những quyết định của công đồng này phải được các
Hồng y cứu xét và phúc trình sớm nhất có thể”[65].
Ngoài “Lời
dẫn nhập” và “Kết luận”, Văn kiện của Công nghị Hội An gồm có 10
Điều khoản: 3 Điều khoản đầu tiên xác định việc điều hành và tổ
chức Giáo phận Tông tòa Đàng Trong theo định hướng của Thánh bộ
Truyền bá Đức tin qua năng quyền của vị Giám mục Đại diện Tông tòa
chứ không còn lệ thuộc vào chế độ ‘bảo trợ Bồ Đào Nha” nữa[66]. Đặc biệt,
trong Mục 1, Công nghị đã công bố 5 Sắc chỉ (Đoản sắc) của Tòa
Thánh: bao gồm 4 Sắc chỉ của Đức cố Giáo hoàng Alexandre VII[67] và 1 Sắc chỉ
của Đức cố Giáo Hoàng Clêmentê IX[68].
Trong khi đó, 7 Điều khoản còn lại nhằm chấn chỉnh kỷ luật mục vụ
trong nội bộ Giáo phận (Về vai trò người chủ sự cộng đoàn khi các
linh mục hoặc thầy giảng vắng mặt; về mục vụ bí tích Rửa tội; về
giáo lý; về kinh nguyện; về mục vụ bí tích Hôn phối; về việc làm
chứng đức tin thời bách hại…)[69].
Vì các
“Điều khoản” của Văn kiện thật rõ ràng để có thể áp dụng tức thời
vào hiện tình mục vụ, nên chúng ta không cần bàn sâu. Điều cần ghi
nhận ở đây đó là sự chuẩn bị nghiêm túc của Đức cha Lambert và ban
tổ chức - điều hành Công nghị xung quanh ngài. Trong một hoàn cảnh
khó khăn xa xôi lạ lẫm, chân ướt chân ráo như thế trong lần kinh lý
mục vụ đầu tiên tại Đàng Trong mà các ngài đã “quan tâm dịch các Đoản Sắc trên sang tiếng bản xứ, để mọi người trong
các tín hữu rõ ý hướng và ý muốn của Tòa Thánh. Nhờ đó, các tín hữu có thể nghe
và nhận biết chúng tôi là Giám Mục Bérithe, đại diện tông tòa Đàng Trong, mang
phận vụ của Đức Giáo Hoàng trong việc quản trị và hướng dẫn các tỉnh hạt nơi
này” (Điều khoản 1).
Ở đây,
chúng ta dừng lại để tìm hiểu khái quát về “chiều kích hiệp hành”
của Công nghị Hội An; một chiều kích đang được cả Hội thánh hôm nay
quan tâm thực hiện.
3.2. Công
nghị Hội An: một công nghị “Hiệp thông”
Trong thời
gian này, chắc chắn ai cũng nghe, cũng biết, nội hàm của “hiệp hành”
theo Thượng Hội Đồng Giám Mục XVI chuyên chở ba chiều kích cơ bản:
HIỆP THÔNG, THAM GIA, SỨ VỤ[70]. Như vậy, liệu
Công nghị Hội An có phản ảnh chút gì những chiều kích này?
Trước hết,
chúng ta dễ dàng tìm thấy ý nghĩa “hiệp thông” qua một số từ của
phần dẫn nhập vào chính Văn kiện: “Chúng tôi” (được sử dụng xuyên suốt từ đầu đến cuối), “với nhiều thầy giảng, các vị trùm trưởng các nhà thờ, cũng như với
các Kitô hữu chính”, “chúng tôi cùng hội nhau”, “công nghị với nhau”, “bằng một
cuộc bỏ phiếu đồng nhất, chúng tôi đã quyết định những điều sau”… Tất
cả những chi tiết trên nào có khác gì với cung cách “hiệp hành”
được ghi lại trong Thư của Đại Hội thường lệ lần thứ XVI của Thượng
Hội Đồng Giám Mục gởi cho Dân Chúa: “Khoá
họp mà chúng tôi được quy tụ ở Rôma từ ngày 30 tháng 9 là một giai đoạn quan trọng
trong tiến trình này. Về nhiều phương diện, đây là một trải nghiệm chưa từng
có. Lần đầu tiên, theo lời mời của Đức thánh cha Phanxicô, những người nam cũng
như nữ nhận được lời mời, nhờ bí tích Rửa tội, ngồi cùng bàn không chỉ để tham
gia thảo luận, mà còn tham gia tiến trình bỏ phiếu của Đại hội Thượng Hội đồng
Giám mục này. Trong tâm tình bổ sung cho nhau về ơn gọi, đặc sủng và thừa tác vụ,
chúng tôi đã cùng nhau chăm chú lắng nghe Lời Chúa và kinh nghiệm của người
khác”[71].
Công nghị
Hội An còn cho thấy tính “hiệp thông” giữa Giáo Hội địa phương và
Giáo Hội hoàn vũ; nhất là sự hiệp thông với Tòa Thánh, với thẩm
quyền Giáo Hội; hiệp thông giữa đoàn chiên và chủ chăn… được nhấn
mạnh ngay từ Điều 1:
“Các ngày chúa nhật, lúc các Kitô hữu hội họp đọc kinh,
chúng tôi yêu cầu mọi người, từ các linh mục tới các thầy giảng, ngay cả các
ông trùm trưởng các nhà thờ, phải đọc cho các tín hữu nghe năm Đoản Sắc tông
tòa.
Nghĩa là, bốn Đoản Sắc của Đức cố Giáo Hoàng Alexandre
VII…
Sau hết, Đoản Sắc thứ năm là Đoản Sắc của Đức cố Giáo
Hoàng Clêmentê IX, ban ngày 13/09/1669 tại Rôma, khởi đầu bằng chữ Speculatores
domus Israel…” (X. Ghi chú
67, 68).
Chúng tôi đã quan tâm dịch các Đoản Sắc trên sang tiếng bản
xứ, để mọi người trong các tín hữu rõ ý hướng và ý muốn của Tòa Thánh. Nhờ đó,
các tín hữu có thể nghe và nhận biết chúng tôi là Giám Mục Bérithe, đại diện
tông tòa Đàng Trong, mang phận vụ của Đức Giáo Hoàng trong việc quản trị và hướng
dẫn các tỉnh hạt nơi này…”[72].
3.3. Công
nghị Hội An: một công nghị “Tham gia”
Vademecum
của Thượng Hội Đồng Giám Mục XVI đã cắt nghĩa cho chúng ta chiều
kích “Tham gia” như sau: “… tất cả những
ai thuộc về Dân Chúa - giáo dân, người được thánh hiến và giáo sĩ – hãy dấn
thân vào cuộc thao luyện lắng nghe nhau cách chân thành và tôn trọng. Việc lắng
nghe này tạo ra không gian để chúng ta cùng nhau lắng nghe Chúa Thánh Thần, và
dẫn lối cho những khát vọng của chúng ta đối với Hội thánh trong Thiên niên kỷ
thứ ba. Nền tảng thực sự của việc tham gia là tất cả các tín hữu đều có đủ tư
cách và được kêu gọi để phục vụ lẫn nhau qua các ân ban mà mỗi người đã nhận được
từ Chúa Thánh Thần. Trong Hội thánh hiệp hành, với các thành viên hết sức đa dạng,
toàn thể cộng đồng được kêu gọi cùng nhau cầu nguyện, lắng nghe, phân tích, đối
thoại, biện phân và góp ý cho việc đưa ra các quyết định mục vụ phù hợp hết sức
có thể với ý muốn của Thiên Chúa (ICT, Syn., 67-68). Phải thực sự nỗ lực để đảm
bảo những người ở bên lề hoặc cảm thấy bị loại trừ đều được nhập cuộc”.
Thừa sai
Vachet, vị linh mục làm “Ký lục Tông Tòa” của Công nghị Hội An đã cho
biết về “nhân sự tham dự Công nghị Hội An” và được linh mục sử gia
của Hội Thừa sai Paris – Adrien Launay ghi lại như sau: “Chính từ nơi này, Đức cha de Bérite đã
triệu tập Công nghị Hội An; tại Công nghị này, có 6 thừa sai châu Âu, 4
linh mục bản xứ và hơn 80 giáo lý viên”[73]. Có lẽ
đây là con số tham dự viên Công nghị
dự định ban đầu? Vì nơi một chỗ khác, thừa sai Vachet có viết rằng “vì thận trọng nên ban tổ chức đã hủy
thư mời một số lớn các giáo lý viên và còn lại khoảng 30…”[74]. (x. Giáo phận Qui Nhơn qua dòng thời gian,
tr. 129). Riêng cha Giuse Trang, vị linh mục tiên khởi của Việt Nam,
không những là một trong những tham dự viên của Công nghị mà còn được
Đức cha Lambert chỉ định làm “thư ký tiếng Việt” của Công nghị. Điều
này được ghi rõ trong phần đầu của Văn kiện Công nghị Hội An: “Và cha Giuse Trang, linh mục người Đàng
Trong, mà chúng tôi tuyển chọn vào nhiệm vụ thư ký tiếng Việt”.
Chúng ta
thấy đó, cách đây hơn ba thế kỷ rưỡi, Đức cha Lambert đã vận dụng
tính hiệp hành vào sinh hoạt đức tin của Giáo hội mà chiều kích
“Tham gia” được thể cách rõ nét nơi Công nghị Hội An, một Công nghị
mà thành viên tham dự nghị trình và
bỏ phiếu thuộc về giáo dân (các giáo lý viên) tới gần chín mươi
phần trăm: “Chính như vậy, sau khi đã
khiêm nhường cầu xin ơn Chúa và cử hành thánh lễ, bằng một cuộc bỏ phiếu đồng
nhất, chúng tôi đã quyết định những điều sau…” (Lời mở đầu của Văn kiện
Công nghị Hội An).
3.4. Công
nghị Hội An: một Công nghị “Sứ vụ”
“Sứ vụ”,
“Truyền giáo” hay “được sai đến lương dân giúp họ trở lại” chính là
“sứ vụ” mà Đức cha Lambert luôn canh cánh bên lòng. Đây chính là điều
mà ngài đã tái minh xác trong bức “thư gởi cho Đức Thánh cha Clementê
IX” để đệ trình “văn kiện của Công nghị Ayuthia 1664” hay còn được gọi
là “Huấn thị Monita” (Monita ad missionarios): “Từ lúc mà Thiên Chúa nhân từ đã đoái thương gọi chúng con đi truyền giáo, mặc dù chúng con
bất xứng; và từ lúc mà vị Tiền nhiệm của Đức Thánh Cha, Đức
Alexandre VII đáng nhớ, đã cất nhắc chúng con lên hàng Giám Mục và sai chúng con đến với lương dân giúp
họ trở lại, thì không điều gì khiến chúng con quan tâm hơn là đem hết sức lực để hoàn thành sứ
mạng cao quí và quan trọng này”[75].
Cho dù là
một “Công nghị” nhằm chấn chỉnh và kiện toàn việc “chăm sóc mục vụ”
cho đàn chiên Giáo phận Tông tòa Đàng Trong trước những xáo trộn và
hệ lụy tiêu cực của thời chuyển đổi cơ cấu vận hành mục vụ từ
“Bảo Trợ” sang “Tông Tòa”, thao thức truyền giáo vẫn là “điểm nhấn”
được nêu lên hàng đầu trong Hiến chương Công nghị: “Từ lúc chúng tôi đến vương quốc Đàng Trong, ngay khi có thể, vì nhiệm
vụ của chúng tôi, chúng tôi chú tâm suy nghĩ về việc loan truyền Phúc Âm”. Trong khi đó, nơi điều khoản
cuối cùng số 10, Hiến chương Công nghị Hội An lại lưu ý đặc biệt đến
việc “làm chứng đức tin”, “xưng đạo ra bên ngoài” như là điều
kiện tiên quyết để nhận được ơn cứu rỗi: “Ngoài ra, chúng tôi cảnh báo các tín hữu rằng chỉ giữ đạo bên trong
thôi thì chưa đủ để được cứu rỗi, phải xưng
đạo ra bên ngoài nữa, cho dù bị mất của cải và phải chịu đau khổ khó khăn,
nguy hiểm đến mạng sống mình”.
4. Công nghị Hội An: những quyết sách mục vụ
Sau khi tìm
hiểu bối cảnh liên quan và dừng lại nơi những “điểm nhấn” quan trọng
trong Văn kiện của Công nghị Hội An 1672, chúng ta có thể tóm tắt các
quyết sách mục vụ mà Đức cha Lambert cùng với Công nghị Hội An đã
đề ra cho Dân Chúa Đàng Trong như sau:
4.1. Chiến
lược mục vụ tổng quát: Truyền
giáo – Phát triển – Ổn định: “Từ
lúc chúng tôi đến vương quốc Đàng Trong, ngay khi có thể, vì nhiệm vụ của chúng
tôi, chúng tôi chú tâm suy nghĩ về việc loan truyền Phúc Âm (…) vì sự phát triển của Kitô giáo cùng sự bình
an cho Giáo Hội này” (Lời dẫn Văn kiện Công nghị).
4.2. Lựa
chọn phương thế hành động: Hiệp
hành – Cầu nguyện – Quyết định: “chúng
tôi cùng hội nhau trong làng Chiêm Baong, nằm kế cận thành phố thương mại Hội
An, để công nghị với nhau về lợi ích tất cả các Kitô hữu tại vương quốc và để
giúp đỡ các tín hữu sinh sống nơi đây. Chính như vậy, sau khi đã khiêm nhường cầu
xin ơn Chúa và cử hành thánh lễ, bằng một cuộc bỏ phiếu đồng nhất, chúng tôi đã
quyết định…” (Lời dẫn Văn kiện Công nghị).
4.3. Định
hướng để chấn chỉnh và kiện toàn sinh hoạt Giáo phận: Hiệp thông với Tòa Thánh – Hiệp nhất
trong Giáo phận – Kỷ luật trong trách nhiệm và bổn phận (Điều
khoản 1, 2, 3 của Vă kiện).
4.4. Những
việc cần thực hiện ngay: Nhân sự
(đặc trách chủ sự cộng đoàn) - Phụng vụ bí tích (Rửa tội, Hôn
phối) – Giáo lý và kinh nguyện (Thông thuộc giáo lý và kinh nguyện)
(Điều khoản 4, 5, 6, 7. 8, 9).
4.5. Hành trang tinh thần cho thời bách hại: kiên vững và can đảm làm chứng: “Ngoài ra, chúng tôi cảnh báo các tín hữu rằng chỉ giữ đạo bên trong thôi thì chưa đủ để được cứu rỗi, phải xưng đạo ra bên ngoài nữa, cho dù bị mất của cải và phải chịu đau khổ khó khăn, nguy hiểm đến mạng sống mình” (Điều khoản 10 của Văn kiện).
Lời kết: Người xưa đã “hiệp hành” như thế đó!
Chúng ta
vừa bàn với nhau về một sự kiện mục vụ đặc biệt của Giáo hội tại
Việt Nam vào một thời điểm cách đây 352 năm (1672-2024); và đây là
biến cố mục vụ quan trọng hàng đầu của vị Giám Mục Đại diện Tông
tòa đầu tiên, Đức cha Pierre Lambert de La Motte, tại chính địa bàn mục
vụ mà ngài được Tòa Thánh bổ nhiệm chăm sóc. Vâng, đó chính là Công
nghị Hội An, Công nghị đầu tiên của Giáo phận Tông tòa Đàng Trong.
Thì ra, Đức
Cha Lambert (cùng Dân Chúa Đàng Trong) cách đây hơn ba thế kỷ rưỡi đã
vận dụng “khí cụ hiệp hành”, một “phương cách sống và hành động”
đặc trưng của Hội thánh, vào đời sống đức tin: “hiệp hành chính là phương cách sống sống và hành động (Modus vivendi
et operandi) đặc trưng của Hội Thánh, dân Thiên Chúa, vốn biểu lộ và thực hiện
cách cụ thể bản chất hiệp thông của mình khi mọi thành viên của Hội Thánh đồng
hành cùng nhau, tập họp lại trong đại hội và cùng tham gia tích cực vào sứ vụ
phúc âm hóa của Hội Thánh”[76].
Giáo hội
Việt Nam đang ở vào thời điểm thế kỷ 21; một giai đoạn nói được là
vững mạnh và phát triển mọi mặt; nhất là đang hiệp thông với Giáo
hội hoàn vũ để sống và hành hành động theo phong cách “hiệp hành”
mà Thượng Hội Đồng Giám mục thứ XVI đang khai triển và gọi mời. Thế
nhưng, phải chăng những thành quả của hôm nay chính là nhờ công sức
“hiệp hành” của bao thế hệ tiền nhân mà Đức cha Lambert là một trong
những số ấy.
Qua “Công
nghị Hội An” mà chúng ta vừa chia sẻ với nhau, phải chăng đây là cơ
hội để thế hệ con cháu chúng ta nhìn lại cách lựa chọn và hành
động của cha ông mà áp dụng vào việc củng cố, phát triển và chia
sẻ niềm tin; áp dụng vào hành trình loan báo Tin mừng cho thời đại
hôm nay. Đây chính là cách chúng ta cùng “lắng nghe”, một chiều kích
cơ bản của “hiệp hành”. Bởi vì, lắng nghe kinh nghiệm của người xưa,
lắng nghe truyền thống… đó cũng chính là lắng nghe Chúa Thánh Thần: “Chúng ta lắng nghe lẫn nhau, lắng nghe truyền
thống đức tin của chúng ta và lắng nghe những dấu chỉ thời đại để nhận biết những
gì Chúa đang nói với chúng ta. Đức Giáo Hoàng Phanxicô mô tả hai mục đích tương
thuộc của tiến trình lắng nghe là: “Lắng nghe Thiên Chúa, để cùng với Ngài
chúng ta có thể nghe thấy tiếng kêu của dân Ngài; lắng nghe dân Ngài cho đến
khi chúng ta hòa hợp với ý muốn mà Thiên Chúa kêu gọi chúng ta đón nhận ý muốn
đó” (VADEMECUM 2.2).
Vâng, người xưa đã “hiệp hành như thế”, còn chúng ta hôm nay thì sao?
PHỤ LỤC – BẢN VĂN CÔNG NGHỊ HỘI AN NĂM 1672
CÔNG ĐỒNG ĐÀNG TRONG NĂM 1672
Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
Năm cứu thế 1672
Hiến chương Công đồng
Chúng tôi, Pierre Lambert, nhờ ơn Thiên Chúa và Tòa
Thánh tông truyền, là giám mục Bérithe, đại diện tông tòa Đàng Trong và Chiêm
Thành, v.v.
Từ lúc chúng tôi đến vương quốc Đàng Trong, ngay khi có
thể, vì nhiệm vụ của chúng tôi, chúng tôi chú tâm suy nghĩ về việc loan truyền
Phúc Âm. Và với nhiều thầy giảng, các vị trùm trưởng các nhà thờ, cũng như với
các Kitô hữu chính, chúng tôi đã cẩn thận tìm kiếm các phương tiện thích hợp nhất
cho vinh danh Đấng Cứu Thế. Vào lúc chúng tôi sắp sửa phải rời xa vương quốc
này vì ích lợi chung của toàn công cuộc truyền giáo của chúng tôi, và vì sự
phát triển của Kitô giáo cùng sự bình an cho Giáo Hội này, chúng tôi đã quyết định
đặt để một cách đạo đức và chính đáng, vài điều cần thiết cho tình trạng hiện
nay của đạo Chúa, theo khả năng của chúng tôi.
Do đó, chúng tôi thông báo ngày 19.01.1672 cho:
- Cha Claude Guiard, thừa sai tông tòa và quyền đại diện
của chúng tôi tại vương quốc Đàng Trong và Chiêm Thành,
- Cha Bénigne Vachet, thừa sai và ký lục tông tòa, và
là thư ký tiếng Latinh của chúng tôi trong công việc này,
- Và cha Giuse Trang, linh mục người Đàng Trong, mà
chúng tôi tuyển chọn vào nhiệm vụ thư ký tiếng Việt[77].
Vào chính ngày nói trên, tất cả chúng tôi cùng hội nhau
trong làng Chiêm Baong, nằm kế cận thành phố thương mại Hội An[78], để công
nghị với nhau về lợi ích tất cả các Kitô hữu tại vương quốc và để giúp đỡ các
tín hữu sinh sống nơi đây.
Chính như vậy, sau khi đã khiêm nhường cầu xin ơn Chúa
và cử hành thánh lễ, bằng một cuộc bỏ phiếu đồng nhất, chúng tôi đã quyết định
những điều sau:
Điều 1
Các ngày chúa nhật, lúc các Kitô hữu hội họp đọc kinh,
chúng tôi yêu cầu mọi người, từ các linh mục tới các thầy giảng, ngay cả các
ông trùm trưởng các nhà thờ, phải đọc cho các tín hữu nghe năm Đoản Sắc tông
tòa.
Nghĩa là, bốn Đoản Sắc của Đức cố Giáo Hoàng Alexandre
VII[79]:
Đoản Sắc thứ nhất ban ngày 09.09.1659 tại Rôma, khởi đầu
bằng chữ Super cathedram apostolicorum[80].
Đoản Sắc thứ hai, ngày 04.02.1664, khởi đầu bằng chữ Onerosa pastoralis cura[81].
Đoản Sắc thứ ba, ngày 28.02.1665, khởi đầu bằng chữ Sublimi Sanctae Sedis apostolicae speculo[82].
Đoản Sắc thứ bốn, ngày 13.03.1665, khởi đầu bằng chữ Injuncti nobis caelitus pastoralis officii[83].
Sau hết, Đoản Sắc thứ năm là Đoản Sắc của Đức cố Giáo
Hoàng Clêmentê IX[84], ban ngày
13.09.1669 tại Rôma, khởi đầu bằng chữ Speculatores
domus Israel[85].
Chúng tôi đã quan tâm dịch các Đoản Sắc trên sang tiếng
bản xứ, để mọi người trong các tín hữu rõ ý hướng và ý muốn của Tòa Thánh[86]. Nhờ đó,
các tín hữu có thể nghe và nhận biết chúng tôi là Giám Mục Bérithe, đại diện
tông tòa Đàng Trong, mang phận vụ của Đức Giáo Hoàng trong việc quản trị và hướng
dẫn các tỉnh hạt nơi này.
Các linh mục, các thầy giảng và các ông trùm trưởng nhà
thờ phải đọc ngay chứng thư vâng phục quyền tài phán của chúng tôi mà cha
Bartholomaeus da Costa [cha Acosta], linh mục dòng Tên, đã khiêm tốn xin chúng
tôi và chúng tôi đã ban ngay cho cha[87].
Điều 2
Chiếu theo các khoản giáo luật, nghị định các công đồng
chung, tông sắc các Đức Giáo Hoàng, và nhất là Đoản Sắc mới đây của Đức cố Giáo
Hoàng Clêmentê IX [Speculatores], buộc
các giám mục yêu cầu tất cả và mỗi tu sĩ thuộc bất kỳ hội dòng nào, ngay cả
dòng Tên, phải trình chứng thư hay tài liệu về sứ vụ, nơi chốn, hội dòng và bài
sai của mình, và chính các tu sĩ phải xin các giám mục cho phép thi hành năng
quyền của mình,
Vậy, theo quy chế Giáo Hội, chúng tôi tuyên bố không
giáo sĩ nào hay tu sĩ thuộc bất kỳ dòng nào, kể cả dòng Tên, trong các vương quốc
Đàng Trong và Chiêm Thành, có thể sử dụng năng quyền của mình mà không có phép
của chúng tôi hay của linh mục quyền đại diện chúng tôi.
Do đó, trong các vương quốc nói trên, các thừa sai hãy
vui lòng trình bài sai cho chúng tôi hay cho linh mục quyền đại diện chúng tôi
và buộc phải xin phép thi hành các năng quyền của mình. Nếu họ từ chối, chúng
tôi cấm họ, theo chỉ thị của Tòa Thánh, được thi hành các năng quyền của họ và
các tín hữu phải biết việc xưng tội với họ là vô hiệu, theo các tông hiến Tòa
Thánh.
Điều 3
Ai trân trọng những lời Tông Sắc của Đức Giáo Hoàng
Clêmentê IX, thì biết “các thầy giảng có thể được kêu gọi bởi các vị đại diện
tông tòa, để các thầy thi hành nhiệm vụ của mình dưới sự hướng dẫn và thuộc quyền
các ngài”. Chúng tôi cấm không ai được tự ý làm thầy giảng. Do đó, nếu ai tự động
giảng Phúc Âm Chúa Kitô với tư cách thầy giảng mà không có chứng thư do chúng
tôi hay linh mục quyền đại diện chúng tôi cấp, người ấy bị vạ tuyệt thông “ipso
facto” mà chỉ có chúng tôi hay linh mục quyền đại diện chúng tôi mới tha được.
Quả thật, chúng tôi biết qua kinh nghiệm rằng các Giáo Hội ở nơi xa Tòa Thánh sẽ
rơi vào nguy hiểm lớn, khi các thầy giảng hoặc không có khả năng, hoặc rất kém
về giáo lý, điều mà Tòa Thánh lưu tâm để ý.
Điều 4
Tại những nơi có đông tín hữu, người ta sẽ tuyển chọn một
người có tiếng khôn ngoan và đạo đức. Khi vắng linh mục hay thầy giảng, người
này có thể giúp đỡ giáo hữu đọc kinh các ngày lễ và công bố các quyết định của
chúng tôi. Người này có thể thăm viếng và trợ giúp tín hữu bệnh hoạn, rửa tội
trẻ nhỏ cũng như người hấp hối muốn được rửa tội. Và nếu có thể làm được, người
này hãy dạy luật lệ của Chúa Kitô và các sự cần thiết khác để được rửa tội.
Mỗi khi rửa tội các trẻ nhỏ hay người lớn tuổi cận kề
cái chết, người này sẽ ghi chú tên cha mẹ, tên sinh, tên làng xóm, ngày tháng
năm, và lời điều tra trước xem họ có bị ràng buộc trong hôn nhân không. Người
này phải giữ sổ khai tử và hôn nhân. Tất cả những điều trên là những điều các
thầy giảng phải trung thành tuân giữ trong tỉnh hạt đã được trao phó cho các thầy.
Các thầy buộc phải phúc trình cho chúng tôi hay linh mục quyền đại diện chúng
tôi biết các điều trên.
Điều 5
Chúng tôi rất buồn khi thấy không ít người đã được rửa
tội song hoàn toàn không hiểu biết và dốt nát về các giới luật đạo Chúa. Tìm hiểu
nguyên nhân sự dốt nát này, chúng tôi nhận ra sự lơ là của các thừa sai đã hoàn
toàn bỏ qua không cắt nghĩa các mầu nhiệm cần thiết cho họ. Chính vì lẽ đó, để
dự liệu việc rất quan hệ này cho tương lai, chúng tôi cấm không một thầy giảng
nào, một ông trùm trưởng nhà thờ nào và một linh mục nào, dù triều hay dòng, mỗi
người theo phận vụ mình, được tự ý ban các bí tích rửa tội và giải tội cho bất
kỳ ai, mà không biết trước người đó có thể và có tư cách lãnh nhận.
Điều 6
Mỗi khi các tín hữu đến đọc kinh tại nhà thờ, chúng tôi
yêu cầu trước tiên phải luôn luôn đọc Mười Điều Răn Đức Chúa Trời và Sáu Điều
Răn Hội Thánh, để các tín hữu biết tường tận điều bó buộc họ và không u mê về
việc phải giữ trước Giáo Hội (erga tatam matrem).
Điều 7
Các thầy giảng và các ông trùm trưởng nhà thờ phải cẩn
thận tìm hiểu các cuộc hôn nhân giữa người có họ máu ở những cấp bậc bị cấm,
hay khác biệt tôn giáo, rồi phải trình ngay cho chúng tôi hay cho vị quyền đại
diện chúng tôi. Sau khi nhanh chóng xem xét, chúng tôi sẽ quyết định cuộc hôn
nhân nào được phép.
Về vấn đề này, nếu ai trong các tân tòng muốn kết hôn với
người cùng họ máu, người thân thuộc hay ngoại đạo, phải chuyển đến chúng tôi, để
nếu cần phải có phép chuẩn, chúng tôi sẽ nhượng ban. Bằng không, chúng tôi
tuyên bố những cuộc hôn nhân giữa các người thể ấy là bất thành.
Điều 8
Bí tích rửa tội không được ban cho người vợ lẻ nào muốn
theo đạo, nếu người này coi thường nguy hiểm và cơ hội bỏ trốn đi và việc hoán
cải mình nên tốt hơn.
Điều 9
Các người ngoại không được kết hôn với người vợ lẻ xin
trở lại đạo, nếu người vợ chính không từ chối phép rửa tội, dù người vợ chính bị
chồng ruồng bỏ. Thực vậy, nếu họ đã khởi sự sống hôn nhân trong ngoại giáo, rồi
họ tự ý bỏ nhau, nay một trong hai trở lại đạo, người này có thể tái hôn với
người có đạo, nếu người kia từ chối theo đạo, bởi vì không thể làm cách nào
khác.
Điều 10
Ngoài ra, chúng tôi cảnh báo các tín hữu rằng chỉ giữ đạo
bên trong thôi thì chưa đủ để được cứu rỗi, phải xưng đạo ra bên ngoài nữa, cho
dù bị mất của cải và phải chịu đau khổ khó khăn, nguy hiểm đến mạng sống mình.
Vì đó, trong những cơn bắt đạo vừa qua, ai đã mở miệng
chối đạo mà nghĩ rằng giữ niềm tin trong lòng là đủ rồi, thì phạm tội nặng.
Chúng tôi khuyên nhủ mọi người hãy nhớ những lời Chúa Kitô nói: “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên
hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên
trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước
mặt các thiên thần của Thiên Chúa.” [Mt 10, 32-33]
Ngoài ra, chúng tôi trao phó cho tất cả những ai đang
làm việc trong vườn nho này của Thiên Chúa, hoàn tất những điều khoản trên đây
và liệu cho các tín hữu tuân giữ.
Chúng tôi ký tên dưới đây là ký lục tông tòa, đã ghi lại
mọi sự đúng theo từng chữ Hiến Chương công đồng này.
Làm tại Ayutthaya, vương quốc Xiêm La, ngày 13.09.1672.
Ký tên: Bénigne Vachet, ký lục tông tòa.
THƯ MỤC THAM KHẢO – NGUỒN
TRÍCH DẪN
(Theo thứ tự ghi chú)
1. ĐỖ QUANG
CHÍNH, SJ, Hai Giám Mục đầu tiên tại Việt
Nam, nxb An Tôn & Đuốc Sáng 2005.
2.
CHRISTOFORO BORRI, Relatione della nuova
missione, Xứ Đàng Trong, Thanh Thư dịch, nxb Tổng Hợp Thành phố Hồ
Chí Minh 2019.
3. ALEXANDRE
DE RHODES, Hành trình và truyền giáo,
(Divers voyages et missions), bản dịch Việt ngữ của Hồng Nhuệ, nxb Hồng Đức
2020.
4. ĐỖ QUANG
CHÍNH, SJ, Dòng Tên trong xã hội Đại Việt
1615-1773, nxb Tôn giáo 2008.
5. BAN BIÊN
SOẠN LỊCH SỬ GIÁO PHẬN, Giáo phận
Qui Nhơn qua dòng thời gian, nxb An Tôn & Đuốc Sáng 2017.
6. ADRIEN
LAUNAY, Histoire de la Mission de
Cochinchine 1658-1823, Documents historiques I, 1658-1728, P. Tequi, Paris
1923.
7. LM ĐÀO
QUANG TOẢN, Giáo Hội Việt Nam năm 1659,
nxb Phương Đông, 2010.
8. STEPHEN B.
BEVANS – ROGER P. SCHROEDER, Trung Thành
và thích nghi (Constants in Context) – Thần học Truyền giáo cho hôm nay, bản
dịch Việt Ngữ: Lm. Đaminh Ngô Quang Tuyên, nxb Tôn Giáo 2020.
9. LM. ĐÀO
QUANG TOẢN; Tìm hiểu lịch sử Dòng Mến
Thánh Giá (Tài liệu phổ biến nội bộ).
10. ĐỖ QUANG
CHÍNH, SJ, Dòng Tên trong xã hội Đại Việt
1615-1773, nxb Tôn Giáo 2008.
11. Linh mục
GIUSE TRƯƠNG ĐÌNH HIỀN, Bình vẫn chưa
hề cũ, Huấn thị 1659 – Công nghị 1664, Kim chỉ nam truyền giáo thế kỷ
17, nxb An Tôn & Đuốc Sáng 2021.
12. ỦY BAN
THẦN HỌC QUỐC TẾ, Tính hiệp hành
trong đời sống và sứ vụ của Hội Thánh, Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương
dịch, nxb Đồng Nai 2021.
13. HỘI ĐỒNG
GIÁM MỤC VIỆT NAM, Giáo Hội Công Giáo Việt
Nam, Niên Giám 2016, nxb Tôn Giáo 2017.
14. NGUYỄN
THANH QUANG – Linh mục GIOAN VÕ ĐÌNH ĐỆ, Một số vấn đề chữ Quốc ngữ, nxb Khoa Học Xã hội 2020.
15. ĐÀO
QUANG TOẢN, Lịch sử Giáo phận Đàng
Trong, nxb Tôn Giáo 2023.
16. CĐ
VATICANÔ II, Hiến chế Giáo Hội.
17. JOSEF
HOLZER, Lịch sử truyền giáo qua 100 trình
thuật (Trình thuật số 70: Giáo Hội bung ra khắp thế giới). Nguyên tác: Die Geschichte der Kirche in 100 reportagen,
chuyển ngữ: Đinh Phan Cư, Phạm Hồng-Lam, website
https://xuanbichvietnam.wordpress.com/2011.01.31/lich-su-giao-hoi-qua-100-trinh-thuat-36/#more-19796
18. THƯỢNG HỘI
ĐỒNG GIÁM MỤC XVI, Tài liệu chuẩn bị,
website https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/tai-lieu-chuan-bi-thuong-hoi-dong-giam-muc-lan-thu-xvi-42903
19. CÔNG
ĐỒNG ĐÀNG TRONG NĂM 1672, Bản dịch Việt ngữ: Lm Đào Quang Toản.
20.
VADEMECUM, Cẩm nang cho Thượng Hội
Đồng Giám mục về tính hiệp hành, website https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/cam-nang-cho-thuong-hoi-dong-giam-muc-ve-tinh-hiep-hanh-42941
21. THƯ CỦA ĐẠI
HỘI THƯỜNG LỆ LẦN THỨ XVI CỦA THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC GỬI DÂN CHÚA, website
Thư của Đại hội thường lệ lần thứ XVI của Thượng Hội đồng Giám mục gửi Dân Chúa,
website https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/thu-cua-dai-hoi-thuong-le-lan-thu-xvi-cua-thuong-hoi-dong-giam-muc-gui-dan-chua-52859.
[1] GHI CHÚ RIÊNG: Công đồng Trentô (hay còn được gọi là
Tridentino) là Công đồng chung thứ XIX của Giáo Hội Công Giáo được khai
mạc ngày 13.12.1545 tại Trentô, miền bắc nước Ý, gần các quốc gia germaniques
là nơi đã lan tràn giáo phái Tin lành. Công đồng Trentô diễn ra từ năm 1545
-1563 do Giáo hoàng Phaolô III triệu tập. Lúc khai mạc có 70 Giám mục, lúc kết
thúc có 252 Giám mục và nhiều giáo sĩ tham dự trong 25 khoá họp từ ngày 13
tháng 12 năm 1545 đến ngày 4 tháng 12 năm 1563 và trải qua 3 thời kỳ Giáo
Hoàng: Đức Phaolô III (1545-1547); Đức Giuliô III (1551-1552); Đức Piô IV
(1562-1563). Công đồng xác định một số tín điều và giáo lý liên quan đến Phong
trào Cải Cách, canh tân Giáo hội về nhiều điểm thực tế. Nội dung của công đồng
có thể được tóm tắt như sau:
- Thúc đẩy sự canh tân trong Giáo hội
Công giáo, phản đối phong trào cách mạng của nhóm Thệ Phản (Tin Lành) liên quan
đến vấn đề Mặc Khải và Đức Tin (Lý trí và sự Tiếp thụ) như Thánh Kinh, Thánh
Truyền, Huấn quyền của Giáo hội, Tội Nguyên Tổ, ơn Công Chính hoá, Đặc Sủng, Bảy
Phép Bí tích (Thánh Lễ), Thánh nhân, Thánh cốt, Thánh tượng.
- Quy định quyền lợi và trách nhiệm của
Giám mục.
- Quy định đời sống của Giáo sĩ và Tu
sĩ.
- Quy chế việc thành lập Dòng tu.
Công đồng Trentô đã có một ảnh
hưởng quyết định trên đời sống và bộ mặt của Giáo hội Tây phương vào thế kỷ 16
và tiếp sau đó.
[4] GHI CHÚ RIÊNG: Nói đến lịch sử truyền giáo tại
Việt Nam, cột mốc thời gian khả tín nhất đó chính là năm
1615. Thật vậy, theo những “chứng
nhân trong cuộc” (các thừa sai như Cristoforo Borri, Alexandre De
Rhodes…) và các Báo Cáo chính thức
của Dòng Tên, thì chúng ta có chứng tích rõ ràng về thời điểm,
địa điểm cũng như nhân vật lần đầu tiên đặt chân đến Việt Nam: Do cuộc bách hại tại Nhật Bản, nhất
là chỉ dụ cấm đạo 14.02.1614, các thừa sai bị buộc rời khỏi nước
Nhật cùng với những thông tin thuận lợi và hấp dẫn của thuyền
trưởng thương gia Ferdinand Costa về xứ Đàng Trong, Bề trên tỉnh dòng
Macao của Dòng Tên Valentim Carvalho đã cử phái đoàn truyền giáo đầu tiên
đến Đàng Trong gồm ba người: Cha Buzomi (người Ý là Trưởng đoàn), cha
Diogo Carvalho và tu huynh Antonio Dias (người Bồ). Các ngài đã cập bến
Đàng Trong tại Cửa Hàn ngày 18.01.1615.
[5] X. CHRISTOFORO BORRI, Relatione
della nuova missione, Xứ Đàng Trong, Thanh Thư dịch, nxb Tổng Hợp
Thành phố Hồ Chí Minh 2019, tr. 133-134; ALEXANDRE DE
RHODES, Hành trình và truyền giáo, (Divers voyages et
missions), bản dịch Việt ngữ của Hồng
Nhuệ, nxb Hồng Đức 2020, tr. 80-81; ĐỖ QUANG CHÍNH, SJ, Dòng Tên trong xã hội Đại Việt 1615-1773, nxb Tôn giáo 2008, tr.
18-20; BAN BIÊN SOẠN LỊCH SỬ GIÁO
PHẬN, Giáo phận Qui Nhơn qua dòng
thời gian, nxb An Tôn & Đuốc Sáng 2017, tr. 46-49.
[6] ADRIEN LAUNAY, Histoire
de la Mission de Cochinchine 1658-1823, Documents historiques I, 1658-1728, P.
Tequi, Paris 1923, tr. 9-10.
[7] Có tác giả dùng từ “Công Đồng Hội An” hoặc “Công
Đồng Đàng Trong” (Đào Quang Toản); Launay dùng “Synode pour Faifo”. Trong
bài khảo luận này, chúng tôi dùng từ “Công nghị Hội An” theo cách sử
dụng của tác giả linh mục Đỗ Quang Chính và ở tác phẩm “Giáo phận Qui Nhơn qua dòng thời gian”
của Giáo phận Qui Nhơn.
[9] Ayuthia địa danh thuộc Thái Lan (Ayutthaya) được viết
theo cách viết của Tây phương (Ayuthia, Ajuthia hoặc Juthia). Theo lịch sử nước
Thái Lan, địa danh nầy vừa chỉ vương quốc Ayutthaya (Tên đầy đủ là Phra Nakhon
Si Ayutthaya) tồn tại từ khoảng năm 1350-1767; vừa chỉ thành phố thủ đô của
Vương quốc nầy do vua Uthong xây dựng từ năm 1350 và tồn tại liên tục 417 năm,
cho đến khi bị quân Miến Điện tàn phá năm 1767. Ngày nay, Ayutthaya là thành cổ
với công viên lịch sử Ayutthaya tọa lạc cách thủ đô Bangkok khoảng 76 km về
phía bắc, và đã được Unesco công nhận là di sản văn hóa thế giới vào tháng
12.1991. (x. Giáo phận Qui Nhơn qua dòng
thời gian, ghi chú 243, tr. 113).
[12] Chế độ “Bảo trợ Truyền giáo” thường được gọi chung bằng
tiếng La tinh là Patronatus hình thành từ sắc
chỉ “Inter Caetera” của Đức Giáo Hoàng Alexandro VI ký ngày 04.5.1493, “phân chia quyền bảo trợ truyền giáo cho hai
nước Tây ban Nha và Bồ Đào Nha. Sau đó hai nước ký hiệp ước tại Tordesillas
(Tây Ban Nha) vào ngày 07.06.1494, thỏa thuận đường ranh giới là kinh tuyến 30
từ Bắc cực xuống Nam cực. Tây kinh tuyến thuộc Tây Ban Nha; Đông kinh tuyến thuộc
Bồ Đào Nha, gồm Phi châu và Á châu…” (x. BAN BIÊN SOẠN LỊCH SỬ GIÁO PHẬN, Sđd, tr. 44; xem thêm: STEPHEN B. BEVANS
– ROGER P. SCHROEDER, Trung Thành và
thích nghi (Constants in Context) – Thần học Truyền giáo cho hôm nay, bản dịch
Việt Ngữ: Lm. Đaminh Ngô Quang Tuyên, nxb Tôn Giáo 2020, Chương 6: Truyền giáo trong
thời đại khám phá (1492-1773), tr. 286-287).
[13] x. LM. ĐÀO QUANG TOẢN; Tìm hiểu lịch sử Dòng Mến Thánh Giá, tr. 12-13. (Dẫn nguồn: Ghi chú
6: AMEP, tập 121, trang 621-622).
[15] ĐỖ QUANG CHÍNH, SJ, Dòng
Tên trong xã hội Đại Việt 1615-1773, nxb Tôn Giáo 2008, Chương ba, II:
"Căng thẳng giữa hai nhóm thừa sai", tr. 218: “Ngày 6.10.1675, ĐC Lambert ra vạ tuyệt thông hai cha B. d’Acosta và
G. Candone vì tội bất phục tùng”.
[16] x. LM ĐÀO QUANG TOẢN, Giáo
Hội Việt Nam năm 1659, sđd, tr. 122-123.
(Xem thêm: tr. 22-23 trong nội dung “các xứ truyền giáo trong chế độ bảo trợ
Bồ Đào Nha đang trong tình trạng sa lầy”).
[17] ĐỖ QUANG CHÍNH, SJ, Hai
Giám Mục đầu tiên tại Việt Nam, sđd, tr. 20-24: Bắt đầu thành lập năm 1622,
cơ quan này mang tên La tinh Sacra Congregatio de Propaganda Fide
(trong tiếng Việt ngày nay quen dịch là Thánh Bộ Truyền giáo nhiều hơn là Thánh
Bộ Truyền bá đức Tin, từ năm 1946 trở về trước cũng còn gọi là Tòa
Áp giải việc truyền giáo); ngày 15-8-1967, Đức Giáo hoàng Phaolô VI bằng
Hiến chế Regimini Ecclesiae đổi tên Bộ này là Sacra Congregatio pro Gentium
Evangelizatione seu de Propaganda Fide (Thánh Bộ
Phúc âm hóa các Dân tộc hoặc Truyền bá đức Tin); ngày 28-6-1988, Đức Giáo hoàng
Gioan Phaolô II bằng Hiến chế Pastor bonus lại rút gọn tên Bộ này
là Congregatio
pro Gentium Evangelizatione (Bộ Phúc âm hóa các Dân tộc). Với Hiến chế Pastor
Bonus cải tổ giáo triều Rôma, Tòa thánh đã dám có một thay đổi lớn, dù
chỉ là một tính từ, là bỏ hết từ Sacra (Thánh) đứng trước tên các Bộ
và các cơ quan đầu não của giáo triều, vì vậy từ 1988 trở đi chỉ còn gọi là Bộ
Phúc âm hóa các Dân tộc, Bộ Giám mục, Bộ Giáo sĩ , v.v
[19] LM ĐÀO QUANG TOẢN, Giáo
Hội Việt Nam năm 1659, sđd, tr.
45: “Người ta có thể coi như tài liệu
chung cuộc về chương trình hoạt động của Thánh Bộ là bản Huấn Thị vĩ đại năm
1659 gửi các vị đại diện tông tòa miền Đông Dương”.
[20] Sđd, tr. 46: “Đương
nhiên là chương trình truyền giáo rộng rãi đó, gần như mới mẻ về mọi điểm,
không thể một sớm một chiều thực hiện được. Điều đáng kể là Thánh Bộ đã có được
một chương trình rõ ràng và rất thích ứng với những nhu cầu cụ thể và với những
vấn đề truyền bá đức tin. Dựa theo đó, Thánh Bộ có Thể hướng dẫn các thừa sai một
cách thống nhất và Thánh Bộ có sẵn chương trình để quy chiếu”.
[21] Linh mục GIUSE TRƯƠNG ĐÌNH HIỀN, Bình vẫn chưa hề cũ, Huấn thị 1659 – Công nghị 1664, Kim chỉ
nam truyền giáo thế kỷ 17, nxb An Tôn & Đuốc Sáng 2021, Bài 1,
Phần II, tr. 36-55.
[23] Trong các phần đầu, xin được phép dùng từ “định hướng công nghị” để dịch cụm
từ “orientation synodale”… Trong các phần sau khi bàn tới chuyên đề liên
quan đến Thượng Hội Đồng Giám Mục XVI, chúng tôi sẽ dùng cụm từ “định hướng hiệp hành”.
[24] ỦY BAN THẦN HỌC QUỐC TẾ, Tính hiệp hành trong đời sống và sứ vụ của Hội Thánh, Lm.
Phêrô Nguyễn Văn Hương dịch, nxb Đồng Nai 2021, Chương I: Tính hiệp
hành trong Kinh Thánh, Truyền thống và Lịch sử, tr. 9-15.
[28] UỶ BAN THẦN HỌC QUỐC TẾ (International Theological Commission): “Ủy ban Thần học Quốc tế gồm
một nhóm thần học gia Công Giáo tiếng tăm trên thế giới, được thành lập năm
1969 và được đặt dưới sự chủ tọa của vị tổng trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin nhằm mục
đích nghiên cứu những vấn đề tín lý quan trọng để trợ giúp cho Đức Giáo Hoàng
và Bộ Giáo lý Đức tin”; x. website
http://www.vietcatholic.org/News/Home/Article/129896. (x. Những văn kiện của Uỷ Ban Thần học Quốc tế, website
https://catechesis.net/nhung-van-kien-cua-uy-ban-than-hoc-quoc-te/)
[29] ỦY BAN THẦN HỌC QUỐC TẾ, Tính hiệp hành trong đời sống và sứ vụ của Hội Thánh, sđd,
tr. 39.
[31] ĐỖ QUANG CHÍNH, SJ, Hai
Giám Mục đầu tiên tại Việt Nam, sđd, tr. 171-175; (Xem thêm: Giáo phận Qui Nhơn qua dòng thời gian,
sđd, tr. 114).
[32] Để hiểu thêm về nội dung của văn kiện “MONITA”, xin
đọc tác phẩm “Bình vẫn chưa hề
cũ”, sđd, từ tr. 110-135.
[37] SĐD: Nếu kể từ 1615 đến 1664 (năm có vị thừa sai
Paris đầu tiên đến Đàng Trong),
thì tổng số Giêsu hữu làm việc ở Đàng Trong là 38 người, thuộc 10
quốc tịch sau đây: Bồ Đào Nha: 16; Nhật: 7; Ý: 3; Áo Môn: 2; Đàng
Trong: 2; Napoli: 2; Pháp: 2; Savoie: 2; Piémont: 1; Tòa Thánh: 1…
[38] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, Niên Giám 2016, nxb Tôn Giáo 2017,
tr.176: “37 năm truyền giáo ở Đàng Ngoài
và 50 năm truyền giáo ở Đàng Trong, các thừa sai Dòng Tên đã rửa tội khoảng
100.000 tín hữu (20.000 ở Đàng Trong và 80.000 ở Đàng Ngoài).
[39] BAN BIÊN SOẠN LỊCH SỬ GIÁO PHẬN, Giáo phận Qui Nhơn qua dòng thời gian, sđd, Các thừa sai
Dòng Tên thành lập các cư sở truyền giáo, tr. 47-55.
[40] X. NGUYỄN THANH QUANG – Linh mục GIOAN VÕ ĐÌNH ĐỆ, Một số vấn đề chữ Quốc ngữ, nxb
Khoa Học Xã hội 2020, tr. 28-31: Chữ
Quốc ngữ trong tiến trình phát triển văn hóa Việt Nam (Giáo sư
Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam).
[41] ĐỖ QUANG CHÍNH, SJ, Dòng
Tên trong xã hội Đại Việt 1615-1773, sđd, Tu hội Thầy Giảng, tr.
498-516.
[44] SĐD, tr. 35: Trong thư của Đức Cha Lambert gởi cho cha
Baudet ngày 24.5.1663 có đoạn: “Tôi
vui mừng nghe tin các cha có vài thầy giảng đức hạnh, cha có thể nói
với các thầy rằng nếu họ được gọi vào hàng sĩ, tôi sẽ rất sẵn
sàng truyền chức cho họ”.
[47] CĐ VATICANÔ II, Hiến
chế Giáo Hội, số 2: “Từ muôn thuở, Chúa Cha “đã kêu gọi và tiền
định để họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài để Người Con
Một trở nên trưởng tử giữa một đàn em đông đúc” (Rm 8,29). Ngài quyết
định quy tụ những ai tin vào Đức Kitô thành một Giáo Hội thánh
thiện, được tiên báo bằng hình ảnh biểu trưng ngay từ lúc khởi nguyên
thế giới, được chuẩn bị cách diệu kỳ nơi lịch sử dân Israel và Cựu
ước, được thiết lập vào thời kỳ sau hết, được tỏ lộ trong ngày
Chúa Thánh Thần hiện xuống và sẽ được hoàn tất trong vinh quang vào
lúc kết tận thời gian”.
[48] SĐD, số 8: “Nhưng
nếu Đức Kitô là Đấng “thánh thiện, vẹn toàn, không tì ố” (Dt 7,26),
không hề phạm tội (x. 2 Cr 5,21), chỉ đến để đền tội cho dân (x. Dt
2,17), thì Giáo Hội lại luôn có những tội nhân, vừa thánh thiện vừa
luôn cần được thanh tẩy, nên không ngừng bước theo con đường sám hối
và canh tân”.
[49] Ngày 04.05.1493, khi Đức Giáo Hoàng Alexandrô VI ký Sắc
chỉ Inter Caetera, phân chia quyền bảo trợ
truyền giáo cho hai nước Tây Ban
Nha và Bồ Đào Nha.
[50] Ngày 22.06.1622, Đức Grêgôriô XV, bằng Hiến chế
(Constitutio) Inscrutabili Divinae
Providentiae, chính thức thiết lập
Thánh bộ Truyền Bá Đức Tin.
[51] JOSEF HOLZER, Lịch
sử truyền giáo qua 100 trình thuật (Trình thuật số 70: Giáo Hội bung ra khắp thế
giới). Nguyên tác: Die Geschichte der
Kirche in 100 reportagen, chuyển ngữ: Đinh Phan Cư, Phạm Hồng-Lam, website
https://xuanbichvietnam.wordpress.com/2011.01.31/lich-su-giao-hoi-qua-100-trinh-thuat-36/#more-19796
[52] LM. ĐÀO QUANG TOẢN, Tìm
hiểu lịch sử Dòng Mến Thánh Giá, sđd, tr. 12-13. (Dẫn nguồn: Ghi chú 6:
AMEP, tập 121, tr. 621-622).
[53] ĐỖ QUANG CHÍNH, SJ, Dòng
Tên trong xã hội Đại Việt 1615-1773, sđd, Thư luân lưu năm 1674, tr.
216-217.
[58] Linh mục GIUSE TRƯƠNG ĐÌNH HIỀN, Bình vẫn chưa hề cũ, sđd, Phụ lục 1: Huấn thị 1659, tr.
150-151.
[59] X. ĐỖ QUANG CHÍNH, SJ, Hai Giám Mục đầu tiên tại Việt Nam, sđd, tr. 163, chứng từ của
linh mục thừa sai Louvet (MEP), tức Cố Ngôn, viết về Đức cha Lambert: “Người ta nói không quá đáng, Đức cha
Lambert là vị thánh, và có nhiều sự kiện ngoại thường do các thừa
sai đã cùng sống với ngài chứng nhận, theo đó, hình như Chúa đã ban
cho ngài được ơn làm phép lạ… Đức cha có một đức tin rất sống động
và hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa quan phòng. Sự khéo léo và khôn
ngoan của Đức cha đã giúp cho ngài làm việc thành công trong nhiều
hoàn cảnh nguy hiểm và tế nhị… Dầu bận bịu muôn ngàn công việc,
nhưng mỗi ngày Đức cha cầu nguyện nhiều giờ, và khi dâng Thánh lễ,
nguyên một ý nghĩ đến người ngoại giáo và kẻ tội lỗi, đủ làm ngài
sa nước mắt... Đức cha rất hy sinh hãm mình… đầy nhiệt tình và cương
nghị vì lợi ích của Giáo Hội. Bất kỳ ngãng trở nào, vụ việc nào,
nguy hiểm nào cũng không ngăn cản được ngài chu toàn nghĩa vụ”.
[60] Đây là phương pháp mà sau nầy (1946) Đức Hồng y
Joseph Cardijn đã chuẩn hóa thành phương pháp “Xem, Xét, Làm”, một
phương châm hoạt động tông đồ nổi tiếng của phong trào Thanh Sinh Công.
[61] Linh mục GIUSE TRƯƠNG ĐÌNH HIỀN, Bình vẫn chưa hề cũ, sđd, Phụ lục 2: Monita ad missionarios,
tr. 177.
[67] Bốn Sắc chỉ đó là:
- Super cathedram apostolicorum (09.09.1659).
- Onerosa pastoralis cura (04.02.1664).
- Sublimi Sanctae Sedis apostolicae speculo (28.02.1665).
- Injuncti nobis caelitus pastoralis officii (13.03.1665).
[70] VADEMECUM, Cẩm
nang cho Thượng Hội Đồng Giám mục về tính hiệp hành, số 1.4: CÁC TỪ THEN CHỐT DÀNH CHO TIẾN
TRÌNH HIỆP HÀNH: Chủ đề của Thượng Hội
đồng là “Hướng đến một Hội thánh hiệp hành: Hiệp thông, Tham gia và Sứ vụ.” Ba
chiều kích của chủ đề là hiệp thông, tham gia và sứ vụ. Ba chiều kích này có mối
quan hệ mật thiết với nhau. Chúng là những trụ cột quan trọng của một Hội thánh
hiệp hành. Không có thứ bậc giữa chúng. Thay vào đó, mỗi chiều kích làm phong
phú và định hướng cho hai chiều kích kia. Giữa ba chiều kích này tồn tại một mối
tương quan năng động, cần phải được hiểu rõ mối tương quan này cùng với cả ba
chiều kích của nó.
[71] THƯ CỦA ĐẠI HỘI THƯỜNG LỆ LẦN THỨ XVI CỦA THƯỢNG HỘI ĐỒNG
GIÁM MỤC GỬI DÂN CHÚA, website Thư của Đại hội thường lệ lần thứ XVI của Thượng
Hội đồng Giám mục gửi Dân Chúa (hdgmvietnam.com)
[73] ADRIEN LAUNAY, Histoire
de la Mission de Cochinchine, Documents historiques I, sđd, p. 106: “Ce fut de ce lieu que M. de Bérite
convoqua un synode pour Faifo; nous nous y trouvâmes 6 missionnaires
ecclésiastiques européenes, 4 prêtres du pays, et plus de 80 catéchistes”.
[74] SĐD, Footnotes 1, p. 106: “Ailleurs, M. Vachet a écrit: la prudence voulut que l' on
contremandât la plus grande partie de catéchistes qui devaeint se rendre à
Faifo, ou l' assemblée ne fut que d'
une trentaine de personnes…”.
[75] Linh mục GIUSE TRƯƠNG ĐÌNH HIỀN, Bình vẫn chưa hề cũ, sđd, Phụ lục 2: Monita ad missionarios,
tr. 177.
[76] THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC, Tài liệu chuẩn bị, sđd, số 10, tr.13; (x. UỶ BAN THẦN HỌC QUỐC TẾ (INTERNATIONAL THEOLOGICAL COMMISSION), Tính
Hiệp hành trong Đời sống và Sứ vụ của Hội Thánh (Synodality in the Life and
Mission of the Church), sđd, số 6, tr. 14).
[77] Không tham dự công đồng này
là hai cha Mahot và Luca Bền đang ở Lâm Tuyền (Nha Trang) và cha Acosta dòng
Tên, được mời nhưng không tới tham dự.
[78] Thừa sai Vachet kể:
« Chúng tôi không vào thành phố [Hội An], nhưng cư ngụ tại một hòn đảo
trong dòng sông, nơi này chỉ có một ngôi làng toàn tòng công giáo. Chính tại
đây chúng tôi triệu họp công đồng đầu tiên tại Đàng Trong » (Cochinchine, p. 106).
[80] Đoản Sắc Super cathedram đặt Đức cha Lambert làm
đại diện tông tòa Đàng Trong (Cochinchine,
p. 9-10).
[81] Đoản Sắc Onerosa pastoralis cura cho phép các đại
diện tông tòa, vào trường hợp một trong các vị đại diện tông tòa từ trần, quyền
tấn phong giám mục cho một trong những linh mục người Âu cùng đi với các vị mà
không cần có hai giám mục phụ tế, và quyền truyền chức linh mục cho người bản xứ
không hiểu tiếng Latinh.
[82] Đoản Sắc Sublimi Sanctae Sedis apostolicae speculo tái
xác nhận Đoản Sắc Onerosa pastoralis
cura.
[83] Đoản Sắc Iniuneti nobis caelitus pastoralis officii
gia hạn thêm bảy năm cho các đại diện tông tòa quyền truyền chức linh mục cho
người bản xứ không biết tiếng Latinh và thay Kinh Nhật Tụng cho các linh mục
này bằng những kinh nguyện khác.
[85] Đoản Sắc Speculatores domus Israel chỉ thị cho
các tu sĩ thuộc bất kỳ hội dòng nào, ngay cả dòng Tên, phải tùng phục các vị đại
diện tông tòa tại địa sở truyền giáo.
[87] Theo ký sự của Đức cha
Lambert, khoảng ngày 9 hay 10/09/1670, cha Acosta đã ký nhận chỉ thị Đoản Sắc Speculatores domus Israel trước mặt ngài
tại Phủ Diên (AMEP, vol. 876, p. 689-690, p. 716-717).