CÔNG ĐỒNG GIÊ-RU-SA-LEM: MÔ THỨC CỦA HỘI THÁNH “HIỆP HÀNH”
Lm. Phaolô Ngô Đình Sĩ
WHĐ (05.4.2022) - Sáng thứ
bảy 09/10/2021, tại Hội trường Thượng Hội đồng Giám mục, Đức Giáo Hoàng
Phan-xi-cô đã khai mạc Thượng Hội đồng Giám mục lần thứ XVI với chủ đề “Vì một Giáo hội hiệp hành: hiệp thông, tham
gia và sứ vụ”. Tiến trình “hiệp hành” đã được mở ra tại các Giáo hội địa
phương, cụ thể là các giáo phận Công giáo trên toàn cầu. Đấng kế vị thánh Phêrô
đã nhắc nguyên nghĩa của từ “synod”
trong diễn văn nhân dịp kỷ niệm 50 năm thành lập Thượng Hội đồng Giám mục ngày
17 tháng 10 năm 2021: “Những gì Chúa yêu
cầu chúng ta, theo một nghĩa nào đó, đã nằm trọn trong từ ngữ Synod. ‘Đi cùng với nhau' - giáo dân, mục tử, giám mục Rôma - là một khái niệm dễ diễn
đạt thành lời, nhưng không dễ áp dụng[1]”.
Đối với Đức Giáo Hoàng, Đức Ki-tô đã xây dựng Hội
thánh trên nền tảng các Tông đồ trong đó Phê-rô là đá tảng. Và “như trong một kim tự tháp đảo ngược, đỉnh nằm
dưới chân đế”, nghĩa là trong Thân thể của Đức Ki-tô, mỗi người đều có chỗ
đứng và nhiệm vụ tương hợp với ơn gọi của họ trước mặt Thiên Chúa, một số chi
thể có ơn gọi “khòm lưng” để “phục vụ anh em của mình trên đường đi” đến cứu độ.
Lấy cảm hứng từ sự kiện
trên, Ủy ban Thần học Quốc tế đã đưa ra một từ ngữ mới “synodality”, hình thành
bởi giới từ σύν (với) và danh từ ὁδός (con đường). Từ ngữ này chỉ ra con đường
đi cùng nhau của dân Chúa. Từ những thế kỷ đầu tiên - tài liệu vẫn còn nhắc lại
- cụm từ “thượng hội đồng” đã được dùng để chỉ các hội đồng Giáo hội được triệu
tập ở các cấp độ khác nhau để phân biệt, dưới ánh sáng của Lời Chúa, các câu hỏi về giáo lý, phụng vụ, giáo luật
và mục vụ. Thuật ngữ synodality chỉ ra “phương
thức cụ thể của Giáo Hội, Dân Thiên Chúa, thể hiện và thực hiện cụ thể sự hiệp
thông của mình bằng cách bước đi cùng nhau, tụ họp và tham gia tích cực của tất
cả các thành viên trong sứ mệnh loan báo Tin Mừng của mình” và Giáo hội Việt
Nam đã chuyển dịch thành từ hiệp hành, bao
hàm ý nghĩa mời gọi tất cả thành viên của Giáo hội Việt Nam cùng tham gia cầu
nguyện, suy nghĩ và đóng góp ý tưởng dưới tác động của Chúa Thánh Thần cho
Synod 2021-2023.
Vì Lời Chúa là linh hồn của
toàn bộ hoạt động của Giáo hội, tài liệu Synodality
in the life and mission of the Church của Ủy ban Thần học Quốc tế (the International Theological Commission)
đã trình bày nền tảng Kinh thánh Cựu ước cũng như Tân ước trong các số 12-23. Ở
đây, tuy không trưng dẫn các phân tích của tài liệu, nhưng chúng ta chú ý đến một
trong những bản văn quan trọng, đối với Ủy ban, là khuôn mẫu của Hội thánh hiệp
hành, đó là: Tường thuật Công đồng tại Giê-ru-sa-lem trong Cv 15,1-35.
Cụ thể, trong số 19 của
tài liệu, Ủy ban Thần học lưu ý đến sự hiện diện thường hằng của Thánh thần
trong tất cả hoạt động của Hội thánh, đặc biệt là sứ vụ loan báo Tin mừng cho
muôn dân qua hình ảnh các dân tộc không phải là Ít-ra-en. Các môn đệ của Chúa
Giê-su, mỗi người một ơn gọi với những chức năng đa dạng, nhưng tất cả có trách
nhiệm lắng nghe Thần khí và nhận thức rõ con đường phải đi, công việc phải làm
(Cv 6,1-6; 10,1-48, xem Cv 5,19-21; 8,26. 29. 39; 12,6-17; 13.1-3; 16,6-7.
9-10; 20,22)[2].
Một cách đặc biệt, từ số
20-23, tài liệu này đề cập đến Công đồng đầu tiên của Hội thánh tại
Giê-ru-sa-lem, được trình bày trong chương 15 của sách Công vụ, cũng như trong
thư gửi tín hữu Ga-lát của Phao-lô (Gl 2,1-10)[3],
xem ngôn ngữ và cách thức của Hội thánh vào thời gian đó như “mô thức”
(paradigm) cho Thượng hội đồng của Hội thánh chúng ta hiện nay[4]. Trình thuật Cv 15,1-35 tuy
ngắn gọn nhưng rất súc tích đủ để biểu đạt con đường “hiệp hành” của Hội thánh,
dưới sự dẫn dắt của Thánh Thần Thiên Chúa.
1. Công vụ 15,1-35: Bản văn tiếng Hy-lạp và bản dịch Việt ngữ
2. Cấu trúc và chức năng của Cv 15,1-35
Cấu trúc của bản văn dựa
trên nơi chốn, nhân vật và các tình tiết khác nhau xuất hiện trong trình thuật.
Câu chuyện đi từ An-ti-ô-khi-a đến Giê-ru-sa-lem, sau đó lại trở về
An-ti-ô-khi-a. Các nhân vật rất phong phú và đa dạng: có những nhân vật phát biểu
trực tiếp trong trình thuật và những người khác được nhắc đến, hoặc hàm ý tham
gia vào vấn đề một cách sinh động. Đặc biệt, Ba Ngôi Thiên Chúa lần lượt được
nhắc đến như những tác nhân chính của câu chuyện. Như thế, cấu trúc trình thuật
có dạng thức như sau:
- 15,1-3: Vấn đề và tranh
luận tại An-ti-ô-khi-a
+15,1-2a:
Cắt bì và cứu độ
+15,2b-3:
Hướng giải quyết với những dấu chỉ tích cực
- 15,4-29: Đón tiếp, hội
họp và thảo luận tại Giê-ru-sa-lem
+
15,4: Giê-ru-sa-lem, đón tiếp và chia sẻ, dấu chỉ hiệp thông
+
15,5-6: Khởi đầu Công nghị hiệp hành (Công đồng đầu tiên của Hội thánh)
+
15,7-11: Diễn từ của Phê-rô
+
15,12: Chứng từ của Phao-lô và Ba-na-ba
+
15,13-21: Diễn từ của Gia-cô-bê
- 15,22-32: Hiệp hành
trong dân Chúa
- 15,33-35: Sứ mệnh rộng
mở
Các nhà nghiên cứu Kinh
thánh đương đại đồng thuận rằng trình thuật Công đồng Tông đồ Giê-ru-sa-lem là
giai đoạn trọng yếu bao quanh tâm điểm thông điệp của Luca.
Trước khi trực tiếp đi đến
trình thuật của chương 15, Cv 14,27- 28 một lần nữa khẳng định cộng đoàn Ki-tô
hữu tại An-ti-ô-khi-a là Giáo hội tiên khởi, nơi đó chính Thiên Chúa đã mở cửa
cho “các dân ngoại đón nhận đức tin”
(Cv 14,27).
Gia-cô-bê, người đã can
thiệp trong trình thuật của chương 15, được nhắc đến lần đầu tiên trong Cv
12,17 chỉ đảm nhiệm cùng các kỳ mục (Cv 11,30) cộng đoàn Ki-tô hữu tại
Giê-ru-sa-lem (Cv 21,17-26).
Trình thuật Cv 15,1-35 đã đóng lại phần đầu sách Công vụ và mở ra con
đường rao giảng Tin mừng cho dân ngoại của Phao-lô, đặc biệt cho thế giới Tây
phương (Cv 16-18). Thật vậy, sau Công Đồng Giê-ru-sa-lem (Cv 15,36), chia
tay với Ba-na-ba vì Gioan Mác-cô, Phao-lô cũng được Giáo hội tín nhiệm sai đi
rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại cùng với Xi-la. Hành trình truyền giáo lần này
kéo dài tới ba năm (15,36 - 18,22).
Cấu trúc của Cv 15,1-35
tuy ngắn gọn và đơn giản nhưng đủ để diễn đạt một mặt thực tại đức tin của các
Ki-tô hữu có nguồn gốc văn hóa và tôn giáo khác nhau, mặt khác đã thành công thể
hiện tính “hiệp hành”dưới sự dẫn dắt của Thánh Thần.
3. Diễn tiến tường thuật về Cv 15,1-35
a. “Hiệp hành” bắt đầu với cộng đoàn Giáo Hội địa phương (15,1-4)
Câu chuyện bắt đầu bằng một
tình tiết xứng đáng để tranh luận: vấn đề cắt bì (15,1-2a). Những người đến từ
Giu-đê, được xác định là những tín hữu “Pha-ri-sêu” (15,5) đã nêu lên vấn đề
quan trọng của đức tin, cắt bì liên quan
đến sự cứu độ (15,1). Đối với dân Ít-ra- en, cắt bì không phải là một nghi
thức gia nhập vào tôn giáo, nhưng là dấu chỉ căn tính của dân được Thiên Chúa
tuyển chọn. Nghi thức cắt bì là bí tích giao ước (St 17,11-14). Thiên Chúa đã
tuyên bố rõ ràng mối liên hệ giữa phép cắt bì và giao ước, bất kỳ vi phạm nào về
điều này sẽ bị xét xử, chẳng hạn, ngay cả Mô-sê cũng đã từng bị Thiên Chúa lên
án, và con của ông đã được Thiên Chúa tha chết sau khi chịu cắt bì (Xh 4,23-26)[5]. Hơn nữa, tổ tiên của những
người Pha-ri-sêu đã hy sinh tính mạng của mình để tranh đấu bảo vệ lề luật (1
Mcb 1,41-64)[6].
Như thế, vấn đề nêu lên,
không chỉ liên quan đến sự khác biệt văn hóa và tập quán, nhưng chính là đức
tin và căn tính của các Ki-tô hữu. Ở đây, câu chuyện đi vào chiều sâu: Ai là Đấng
cứu độ? Không phải là chính Đức Ki-tô sao?
Yếu tố đầu tiên của tính hiệp hành trong Giáo Hội tiên khởi là
các Ki-tô hữu gốc dân ngoại tham gia tranh luận vấn đề đức tin và căn tính của
Ki-tô hữu. Hai nhân vật đại diện cho họ, chính là Phao- lô và Ba-na-ba (15,2b).
Ở An-ti-ô-khi-a, lúc đó đã xuất hiện cộng đoàn Ki-tô hữu đầu tiên gồm cả dân
ngoại và các tín hữu gốc Do thái (Cv 11,19-30).
Thật vậy, trong Cv
10,1-48, chính Phê-rô là người đầu tiên vâng theo mệnh lệnh của Thiên Chúa, mở
lòng mình để đi đến nhà Co-nê- li-ô (Cv 10,9-16) và kết quả là Phê-rô cùng với
những tín hữu thuộc giới cắt bì đã chứng kiến tác động của Chúa Thánh Thần trên
cả dân ngoại (Cv 10,44-47).
Trong chương 13 và 14, được
Thánh Thần sai đi (Cv 13,2. 4.), Phao-lô và Ba-na-ba đã thành công đem Tin mừng
đến cho dân ngoại, đặc biệt tác giả cho thấy bước ngoặt đầu tiên qua thái độ
ghen tị tiêu cực của người Do thái trước sự đón nhận Tin mừng của dân ngoại (Cv
13,44-45): “Anh em phải là những người đầu
tiên được nghe công bố lời Thiên Chúa, nhưng vì anh em khước từ lời ấy, và tự
coi mình không xứng đáng hưởng sự sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía
dân ngoại” (Cv 13,46b).
Những cuộc tranh luận sôi
nổi dẫn đến một quyết định rất khôn ngoan, một quyết định mang tính Giáo hội hiệp
hành, dấu chỉ của tác động Thánh Thần Thiên Chúa nơi mỗi Ki-tô hữu tự do và
trách nhiệm: Phao-lô và Ba-na-ba được Giáo hội gởi đi gặp các Tông đồ và các kỳ
mục ở Giê-ru-sa-lem, thành thánh của Dân Thiên Chúa. Một lần nữa, không phải
Phao-lô và Ba-na-ba, cho dù họ là những người có tên tuổi, tự ý lên đường,
nhưng thẩm quyền quy về Hội thánh, một Hội thánh yêu thương và nối kết, có
trách nhiệm, dưới sự dẫn dắt của Thánh Thần: “Hội Thánh đã đưa tiễn các ông” (15,3a). Một chi tiết khác cũng nói
lên sự hiệp thông giữa các Ki-tô hữu, tuy không tham gia trực tiếp vào tranh luận,
nhưng họ đồng thuận với chia sẻ bởi Phao-lô và Ba-na-ba trong niềm vui: dân ngoại
trở lại ai cũng biết đó chính là kết quả hoạt động của Thánh Thần (Cv 2,1-11).
b. Hiệp hành Công đồng: 15,5-29
Nhiều sử gia Kinh thánh
xem những gì xảy ra ở An-ti-ô-khi-a như cuộc chạm trán giữa Phê-rô và Phao-lô
khoảng giữa thế kỷ thứ I và nguồn chính của xung đột Giáo Hội được Phao-lô diễn
đạt trong thư gởi tín hữu Ga-lát (Gl 2,1-21). Với cái nhìn lịch sử, họ cho rằng
kể từ quan điểm của Ferdinand Christian Baur[7],
các nhà nghiên cứu đã tìm thấy bằng chứng về sự xung đột giữa các lãnh đạo
Ki-tô giáo tiên khởi; ví dụ James D. G. Dunn[8]
cho rằng Phê-rô là “cầu nối” giữa các quan điểm đối lập giữa Phao-lô và
Gia-cô-bê và theo họ, kết quả cuối cùng của xung đột vẫn chưa được giải quyết,
dẫn đến nhiều quan điểm Ki-tô giáo về Giao ước cho đến tận ngày nay.
Tác giả sách Công vụ, hay
đúng hơn là chính Lời Thiên Chúa, cho chúng ta một cái nhìn thần học và đức tin
về tính “hiệp hành” của Hội thánh.
Phái đoàn Ki-tô hữu, đại
diện là Phao-lô và Ba-na-ba được Hội thánh đón tiếp tại Giê-ru-sa-lem (15,4). Từ
ἐκκλησία được sử dụng như chủ từ chính diễn đạt trọn vẹn ý nghĩa: không phải cộng
đoàn Ki-tô hữu tại Giê-ru-sa-lem đón tiếp Phao-lô và Ba-na-ba, nhưng chính Hội
thánh. Sau đó, các Tông đồ và kỳ mục được xem như các đại diện của Hội thánh. Họ
đã chào đón các đại diện của cộng đoàn Ki-tô hữu An-ti-ô-khi-a với tất cả những
biểu hiện có thể có của tình anh em.
Hội thánh “hiệp hành” được
thể hiện qua sự chia sẻ trong tình gia đình: Phao-lô và Ba-na-ba trình bày những
điều Thiên Chúa đã thực hiện. Chúng ta hiểu rằng các đại diện của Giáo hội
An-ti-ô- khi-a tường trình cho các anh em của mình nghe về thành quả của họ
trong dân ngoại, không phải những gì họ đã làm, mà là những gì Thiên Chúa đã
làm với họ (xem Cv 14,27).
Yếu tố đầu tiên và quan
trọng của Công đồng, không phải là thái độ phản kháng đối lập, nhưng là sự chào
đón trong tình gia đình, đánh dấu và mở màn cho các cuộc tranh luận phải có
(15,5-6). Chủ đề cắt bì đương nhiên phải được nêu lên, nhưng cách đặt vấn đề đã
thay đổi: tại Công đồng, danh xưng của các đại diện đã được xác định rõ ràng, những người Pha-ri-sêu đã trở thành tín hữu
(15,5), và trong nội dung của phát biểu, biểu đạt οὐ δύνασθε σωθῆναι, liên quan đến cứu độ đã biến mất. Như thế, nội
dung tranh luận đã chuyển hướng:
✔ Một
mặt, có những người Pha-ri-sêu ôn hòa không phản ứng quá khích với các Ki-tô hữu
(Cv 5,34-39) và những người tin vào Đức Ki-tô như Phao-lô hay các Tông đồ của
Chúa Giê-su, dù họ không thể từ chối việc cắt bì và sự trung thành với lề luật
Mô-sê.
✔ Mặt
khác, họ có thể áp đặt lề luật Mô-sê cho những Ki-tô hữu gốc dân ngoại được
không? Chúng ta có thể dễ dàng hiểu rằng việc tuân giữ lề luật Mô-sê của các
Ki-tô hữu gốc Do thái và đặc biệt là vấn đề cắt bì, một tập tục bị cấm đối với
những người không phải là người Do thái trong xã hội La Mã vì bị coi như hủy hoại
thân thể, đã trở thành một câu hỏi hóc búa[9].
Cấu trúc của Cv 15 cho
phép minh chứng tính “hiệp hành” mạnh mẽ và năng động của Hội thánh qua hai diễn
văn được trình bày song song của Phê-rô và của Gia-cô-bê (15,7b-11 và
15,13b-21). Trong khi đó, chỉ cần một câu đủ để nói lên tất cả những gì Thiên
Chúa đã làm thông qua tường trình của Phao-lô và Ba-na-ba (15,12). Hai mục tử,
Phê-rô với tư cách là vị chủ chăn đứng đầu hàng ngũ Tông đồ và một vị khác,
Gia-cô-bê người anh em của Chúa theo lời của Phao-lô (Gl 1,19)[10], chủ chăn của Giáo hội tại
Giê-ru-sa-lem, được Phao-lô xem như một trong ba trụ cột của Hội thánh lúc đó
(Gl 2,9a) đã “hợp xướng” triển khai luận chứng cùng một hướng duy nhất, chúng
ta xem xét diễn văn dưới dạng tu từ:
✔ 15,8 (luận cứ ethos): Thiên Chúa đã chọn Phê-rô và ngài là chứng nhân của Tin mừng
cho các dân ngoại (xem Cv 10, sự kiện xuất thần của Phê-rô ở chương 10 tương đồng
với biến cố Ngũ tuần ở chương 2 sách Công vụ).
✔ 15,9 (luận cứ logos): Thiên Chúa, Đấng thấu suốt tâm can, ban Thánh Thần cho dân
ngoại cũng như cho dân Ngài (cụm từ καθὼς
καὶ ἡμῖν [15,8] đã sử dụng trong 10,47; 11,15. 17). Ngài là Đấng hoàn toàn
không thiên vị (15,9), đã thanh tẩy lòng
dân ngoại bởi đức tin (15,9b).
✔ 15,10 (Câu hỏi tu từ): Phê-rô đặt câu hỏi
cho những người nghe ngài, tự họ đã có câu trả lời - Nếu Thiên Chúa là Đấng đã
thực hiện tất cả đối với dân ngoại, ai còn dám thử thách Ngài?
✔ 15,11 (Kết luận hiển nhiên và tức khắc):
Chính Đức Ki-tô là Đấng cứu độ - bước ngoặt Ki-tô học (không đối lập với quan
điểm của Phao-lô, xem Rm 1,16-17; 3,21-22).
Chúng ta đã nhận thấy vấn
đề được giải quyết tuyệt vời, không nhờ vào tài năng hay thẩm quyền của một cá
nhân, nhưng bởi Thiên Chúa Ba Ngôi. Tất cả những điều đó được diễn tả một cách
rõ ràng trong diễn từ của Phê-rô. Tác giả sách Công vụ đã tinh ý cho thấy một yếu
tố rất quan trọng khác, yếu tố làm chuyển hướng vấn đề ban đầu, cắt bì và cứu độ
(15,1) đến kết luận Ki-tô học (15,11): đó chính là cách sử dụng động từ καθαρίζω
(thanh tẩy) để biểu đạt ân sủng của Thánh Thần cho dân ngoại: Người đã thanh tẩy lòng họ bởi đức tin (15,9b).
Sự thanh sạch hay thuần khiết không còn là hệ quả của sự tuân giữ nghi thức dựa
trên Lề luật (xem Lv 11-18; Đnl 14), nhất là việc tuân giữ nghiêm nhặt các cấm
kỵ thực phẩm (xem Cv 10,14-15. 28.; 11,8-9), nhưng kể từ nay, đến từ quyền năng
của Thiên Chúa ban tặng trong đức tin[11],
nguyên tắc cứu độ được Phê-rô khẳng định trong câu kết luận (15,11).
Nếu Lề luật Mô-sê không
phải là con đường cứu độ, vậy vấn đề căn tính của dân tộc tuyển chọn thì sao?
Thật tuyệt vời, chính Gia-cô-bê sẽ mang lại câu trả lời bổ sung thích đáng với
diễn từ của Phê-rô (15,13-21).
Sau lời mở (15,13), Gia-cô-bê
lấy lại lời của Phê-rô và diễn giải với luận đề Giáo hội học.
✔ 15,14: Thiên Chúa không những muốn dân
ngoại có đức tin (15,14a), nhưng nhất là Ngài đón nhận giữa các dân ngoại một
dân tộc mang danh Người (λαβεῖν ἐξ ἐθνῶν λαὸν τῷ ὀνόματι αὐτοῦ)(15,14b). 15,15
dẫn vào luận chứng Kinh thánh.
✔ 15,16-18 (Am 9,11-12): Luận chứng trích
dẫn từ ngôn sứ A-mốt thừa nhận tình trạng xã hội tôn giáo của dân ngoại tương
đương với dân tộc tuyển chọn Ít-ra-en.
✔ 15,19-21: Đồng thuận và yêu cầu các
kiêng cữ nhưng không phải những điều cấm kỵ. Gia-cô-bê yêu cầu những kiêng cữ
thích hợp với các Ki-tô hữu (1 Cr 10,14 [ngẫu tượng]; 2 Cr 6,14. 17. [vật ô uế];
1 Cr 6,9-11; Ep 5,3). Ông đưa ra lý do tôn trọng việc đọc lề luật Mô-sê, nghĩa
là đọc Torah đối với các Ki-tô hữu gốc Do thái (Ml 3,22), và chúng ta cũng thấy
điều này rất hợp lý vì chính Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài vẫn đọc, trích dẫn
Lề luật và lời ngôn sứ.
Với diễn từ của
Gia-cô-bê, Luca cho chúng ta thấy vị chủ chăn của Giáo hội tại Giê-ru-sa-lem đặt
nền tảng đức tin của mình trên Kinh thánh, Lời của chính Thiên Chúa, được Thánh
Thần linh hứng, đã dẫn đưa Hội thánh trên con đường của sự thật, Đức Ki-tô, Đấng
Thiên sai.
Trong “luận đề” 15,14,
Luca sử dụng thuật từ λαός, một số nhà chú giải hiểu theo nghĩa thông thường đám đông, quần chúng, dân chúng[12];
nhưng nếu làm một phân tích ngôn ngữ học, chúng ta nhận thấy trong 84 từ λαός
được sử dụng trong hai tác phẩm của Lu-ca (Tin mừng và Công vụ) trên 142 từ λαός
sử dụng trong Tân ước, cũng như cách dùng thuật từ này trong sách Công vụ (22 lần
trong Cv 2-6 và 26 lần trong Cv 7-28), đa phần có ý chỉ dân tộc Ít-ra-en. Để
xác định chắc chắn hơn, thuật từ λαός được nhiều lần dùng với từ Thiên Chúa (Lc
1,68. 77.; 2,32; 7,16; Cv 13,17). Chẳng hạn, trong Lc 1,68 Εὐλογητὸς κύριος ὁ θεὸς τοῦ Ἰσραήλ, ὅτι ἐπεσκέψατο καὶ ἐποίησεν λύτρωσιν
τῷ λαῷ αὐτοῦ, xuất hiện động từ ἐπισκέπτομαι
(viếng thăm) (Thiên Chúa Ít-ra-en đã viếng thăm cứu chuộc dân Ngài). Động từ viếng
thăm của Thiên Chúa trong Cựu Ước chỉ những lần Ngài can thiệp ban ơn (St 21,1;
50,24-25; Xh 3,16; Gr 29,10; Tv 65,10; 80,15; 106,4) hay sửa phạt (Xh 32,34; Is
10,12; Ed 34,11-12; Tv 59,6; 89,33). Thánh Lu-ca là tác giả duy nhất trong Tân
ước dùng hình ảnh này (1,78; 7,16; 19,44).
Trong luận chứng Kinh
thánh (15,16-18//Am 9,11-12), cụm từ σκηνὴν Δαυὶδ (lều Đa-vít) củng cố ý tưởng
Chúa Giêsu là Đấng Thiên sai - cứu độ mà Thiên Chúa đã hứa ban cho nhân loại[13]. Thực vậy, đối với Luca, sấm
ngôn của Na-than nói với Đa-vít: Khi ngày
đời của ngươi đã mãn và ngươi đã nằm xuống với cha ông, Ta sẽ cho dòng dõi
ngươi đứng lên kế vị ngươi - một người do chính ngươi sinh ra và Ta sẽ làm cho
vương quyền của nó được vững bền (2 Sm 7-12) ứng nghiệm với Đức Giê-su
Ki-tô (Lc 1,32-33).
Công đồng hiệp hành cho
chúng ta thấy, Gia-cô-bê, với quan điểm chân thật phát xuất từ nguồn gốc văn
hóa của ngài, hợp xướng với Phê-rô, và hoàn toàn ủng hộ Thánh ý Thiên Chúa đã
làm cho dân ngoại, thông qua các chứng nhân Phao-lô và Ba-na-ba. Vị mục tử
thành Giê-ru-sa-em, một trong những trụ cột của Hội thánh, đặt mình dưới sự hướng
dẫn của Lời Thiên Chúa đồng hành với toàn thể dân Ngài, bất kể gốc Do thái hay
dân ngoại, trên con đường loan báo Tin mừng.
Và như thế, Hội thánh tiếp
tục con đường hiệp hành trong 15,22-29.
c. Hiệp hành trong dân Chúa: 15,22-32
Hội thánh hiệp hành với
những đại diện như các Tông đồ và kỳ mục (15,22a) dùng thẩm quyền phục vụ và đồng
hành cho đến cùng đã chọn phái đoàn mới, bao gồm Phao-lô, Ba-na-ba và thêm hai
nhân vật mới là Giu-đa, biệt danh là Ba-sa-ba và Xi-la, còn gọi là Xin-va- nô
trong các thư (2 Cr 1,19; 1 Tx 1,1; 2 Tx 1,1; 1 Pr 5,12)[14]
để mang thư của Hội thánh đến cho dân Chúa tại An-ti-ô-khi-a (15,22b).
Sự lựa chọn mở rộng của Hội
thánh hiển nhiên không phát xuất từ lòng nghi ngờ quan điểm của Phao-lô và
Ba-na-ba (1 Cr 9,1-2), có thể thay đổi bất kỳ điều gì trong quyết định đồng thuận
của Công đồng. Ý nghĩa của lựa chọn và sai đi ẩn chứa tinh thần hiệp hành sâu sắc
dưới tác động của Thánh Thần (15,28).
Hội thánh đã cử phái đoàn
sứ giả đến, trước tiên để bày tỏ lòng tôn kính và trân trọng đối với cộng đoàn
dân Chúa không những tại An-ti-ô-khi-a, nhưng mở rộng với miền Xy-ri và
Ki-li-ki-a (15,23), như các giáo hội chị em và ngang hàng trong tình hiệp
thông. Thứ đến để khích lệ và ủng hộ Phao-lô và Ba-na-ba (15,25-26) trong hành
trình về lại cộng đoàn dân Chúa đã gởi họ đi bằng cách cử những người đại diện
có uy tín như Giu-đa và Xi-la (15,22c). Cuối cùng để xứng hợp với bức thư nhân
danh toàn thể Hội thánh (15,23b), các vị được gửi đi như những đại sứ trang trọng,
và anh em trong cộng đoàn giáo hội tại An-ti-ô-khi-a sẽ nhận biết tầm quan trọng
của thông điệp (15,27).
Câu 15,24 như một mở ngoặc
nhằm xác định lại những gì không mang tính hiệp hành trong Hội thánh: nhưng người không được ủy nhiệm, gây ra
những hệ lụy không phải là các dấu chỉ của Thánh Thần, họ gây xáo trộn và hoang
mang các anh em trong cộng đoàn dân Chúa.
Một bức thư đáng ngạc
nhiên, vì tất cả tầm quan trọng của nội dung chỉ tóm gọn trong hai câu
(15,28-29), nhưng cách thức biểu đạt của các Tông đồ và mục tử trong Hội
thánh-mang nhiều ý nghĩa:
✔ Các
Tông đồ và kỳ mục của Công đồng hiệp hành thể hiện thẩm quyền dựa trên tác động
Thánh Thần, và theo sự hướng dẫn từ Ngài: Thật vậy, Thánh Thần ngự xuống các
Tông đồ để họ rao giảng phúc âm cho dân ngoại vào ngày lễ Ngũ Tuần (Cv 2,1-4).
Ngài tác động trên Co-nê-li-ô và các bạn của ông, cũng như trên Phê-rô trong Cv
10,1-48.
✔ Họ
dùng lối nói của người sê-mít “μηδὲν πλέον ἐπιτίθεσθαι ὑμῖν βάρος” (không áp đặt
cho anh em một gánh nặng nào khác) có nghĩa là Thánh Thần đã ban cho dân ngoại
sự tự do tin vào Đức Ki-tô và trở thành dân Chúa với tư cách như những dân tộc
tuyển chọn mà không cần phải tuân theo lề luật của Mô-sê.
✔ Như
chúng ta đã nói trên đây, tránh gian dâm là cần thiết đối với tất cả các Ki-tô
hữu mọi lúc; tránh ăn tiết và ăn thịt các động vật sát tế theo lối dân ngoại,
không làm sạch máu bằng cách cắt cổ (Lv 17,13-14) nhưng bóp chết con vật
(nviKTÓg) khi họ làm lễ dâng cúng cho ngẫu tượng là cần thiết và tốt cho cả
Ki-tô hữu gốc dân ngoại (1 Cr 8,1-6). Các Tông đồ và các kỳ mục dùng trạng từ
“cần thiết” (ẻnávaYKsg) (15,28) và cho lời khuyên khôn ngoan “giữ gìn tránh các điều đó là làm tốt rồi”
(15,29), tôn trọng các tín hữu trong các cộng đoàn giáo hội mà họ được gọi để
phục vụ chứ không cai trị.
✔ Thể
hiện tính hiệp hành cho đến cùng, Hội thánh tiễn chân các đại biểu đi đến
An-ti-ô-khi-ô (Cv 15,30). Phao-lô và Ba-na-ba trở về lại với giáo hội đã gửi họ
đi, Giu-đê và Xi- la rời khỏi Giê-ru-sa-lem để đến hiệp thông với các tín hữu
anh em gốc dân ngoại không những ở An-ti-ô-khi-a mà còn với các cộng đoàn trong
miền Xy-ri và Ki-li-ki-a.
Tinh thần hiệp thông thể
hiện trong thái độ đón nhận thư của Hội thánh: dân hài lòng một cách lạ lùng về
quyết định và các lời khuyên đến từ Giê-ru-sa-lem (15,31), họ vui mừng vì được
an ủi; nhất là niềm an ủi lớn lao đến từ Hội thánh.
✔ Niềm
vui vì Hội thánh đã nhận ra dấu chỉ tự do và trách nhiệm, hoa quả của Thánh Thần
trong việc thừa nhận đức tin và sự cứu độ từ nay không thuộc về lề luật.
✔ Niềm
an ủi vì dân tìm lại được bình an vì lương tâm của họ trước đây bị xáo trộn và
phiền não (15,24) bởi lời rao truyền của những người không được ủy nhiệm bởi Hội
thánh.
✔ Sự
bình an của Hội thánh đã được khôi phục, và điều đó đã xóa bỏ mối đe dọa chia rẽ,
sẽ không có giáo hội An-ti- ô-khi-a, dưới sự điều hành của Tông đồ Phao-lô đối
lập với giáo hội Giê-ru-sa-lem, với vị chủ chăn Gia-cô-bê, anh em của Chúa
Giê-su.
Sự hiệp thông trong Hội
thánh hiệp hành còn được thể hiện qua sự chia sẻ và đời sống thân tình với các
anh em tín hữu gốc dân ngoại ở An-ti-ô-khi-a (15,32). Giu-đa và Xi-la, được Hội
thánh công nhận với tư cách ngôn sứ, có nghĩa là các chia sẻ, khuyên nhủ và củng
cố các tín hữu được linh hứng bởi Thánh Thần Thiên Chúa (Xh 4,11-12; Am 3,7; Lc
1,70).
Nói tóm lại, quyết định của
Hội thánh thể hiện hiệp thông giữa các Tông đồ và tất cả những mục tử khác, nối
kết trong tình anh em giữa các giáo hội và các mục tử ở cách xa nhau, nhưng vẫn
đồng hành chung về một hướng.
d. Sứ vụ hiệp hành, cùng nhau loan báo Tin mừng: 15,33. 35
Câu cuối cùng của trình
thuật Công đồng Giê-ru-sa-lem, thể hiện tính hiệp hành của Hội thánh Công giáo,
câu 15,33 tuy ngắn nhưng biểu đạt tất
cả ý nghĩa của sứ mệnh loan báo Tin mừng hay chúng ta gọi bằng cụm từ truyền
giáo hôm nay:
✔ Theo
khuôn mẫu nhập thể của Chúa Giê-su, Con Thiên Chúa (được sai đến, sống với và
loan báo Tin mừng), Giu- đê và Xi-la đã được sai đến, họ không chỉ đến và đọc bức
thư của Hội thánh rồi trở về nhưng họ sống với các anh em tín hữu gốc dân ngoại
ở An-ti-ô-khi-a, chia sẻ, khuyên nhủ, củng cố đức tin (15,32), và cuối cùng được
các anh em tiễn chân như lúc lên đường họ được các Tông đồ và các kỳ mục của
Công đồng tiễn đưa (15,30).
✔ Công
đồng hiệp hành Giê-ru-sa-lem không đóng khung các tín hữu trong cộng đoàn giáo
hội của họ, nhưng ngược lại, mở rộng con đường truyền giáo (15,35). Phao-lô và
Ba-na- ba không những tiếp tục sứ vụ rao giảng Tin mừng tại An- ti-ô-khi-a,
nhưng còn tiếp tục hành trình truyền giáo sau đó (15,36-18,22)[15].
Kết luận
Cv 15,1-35, một giai đoạn
mấu chốt trong trình thuật của sách Công vụ[16],
Lu-ca đi từ những vấn đề đức tin và thần học nghiêm trọng được tranh luận tại
giáo hội địa phương, mô tả tính liên kết với Hội thánh đặt trên nền tảng các
Tông đồ cùng các chứng nhân trụ cột, bằng cách gửi hai đại biểu nhiệt tâm và có
thế giá Phao-lô và Ba- na-ba đến Giê-ru-sa-lem để chia sẻ và bàn thảo. Kết quả
như chúng ta đã thấy, Thánh Thần đã dẫn dắt Hội thánh trên con đường hiệp hành
như Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã định nghĩa: Hiệp thông, Tham gia và Sứ vụ[17].
Hiệp thông đích thực biểu
hiện qua việc đối thoại trong khác biệt, hiệp thông đến từ Thánh Thần Thiên
Chúa (2 Cr 13,13)[18]. Đối thoại này đòi hỏi mỗi
bên phải cởi mở, lắng nghe và khôn ngoan để đón nhận lẫn nhau, cụ thể là đối
thoại giữa những Ki-tô hữu gốc Do thái, chi phối bởi lề luật Mô-sê và những
Ki-tô hữu gốc dân ngoại, không sống dưới chế độ lề luật Mô-sê.
Trong Hội thánh hiệp
hành, yếu tố cơ bản qua tường thuật của Cv 15,1-35 là sự tham gia của tất cả
các Ki-tô hữu sống trong mọi tầng lớp của xã hội và môi trường văn hóa đa dạng.
Tham gia vào tranh luận một vấn đề tuy đối lập nhưng không đối kháng[19]. Thật vậy, cộng đoàn dân
Chúa luôn có những xáo trộn, những thành viên diễn giải nhiều vấn đề tôn giáo
theo nhãn quan của họ, mặc dù họ không được ủy nhiệm bởi Hội thánh, ban đầu
Phao-lô và Ba-na-ba có lẽ cũng như thế, họ tham gia tranh luận với tư cách cá
nhân để bảo vệ các anh em tín hữu.
Trong mọi thời đại, luôn
xuất hiện những vấn đề làm hoang mang dân chúng, luôn xảy ra những sự kiện của
thời đại mới và văn hóa mới liên quan đến đức tin và thần học gây tranh luận,
luôn có những phản ứng nằm ngoài thể chế muốn ảnh hưởng hay thay đổi một Giáo hội
nhất định. Nhưng điều đáng chú ý ở đây, trong tường thuật của Lu-ca, sự kiện
Giáo hội địa phương dấn thân tham gia, lấy thẩm quyền được trao ban thực hiện
hai công việc theo đúng nghĩa hiệp hành: 1) cử Phao-lô và Ba-na-ba một cách
chính thức như những đại biểu nhân danh các tín hữu của Giáo hội tại
An-ti-ô-khi-a, 2) đưa vấn đề liên quan đức tin đến cấp độ cao hơn, hay nói đúng
hơn đến Hội thánh (Tông đồ), và Hội thánh có nhiệm vụ hội họp cầu nguyện, suy
tư, phân định để nhận ra Thánh ý Thiên Chúa trên con đường hiệp hành cùng cộng
đoàn dân Chúa.
Trách nhiệm của Hội thánh
phổ quát, khi các Tông đồ và những vị chủ chăn được gửi đến Công đồng chung, là
những người “tôi tớ” được Chúa Giê-su tuyển chọn và sai đi phục vụ cho sự hiệp
nhất, lắng nghe và mời gọi các Ki-tô hữu ở trong các Giáo hội “địa phương”,
sinh sống trong các môi trường văn hóa và ngôn ngữ đa dạng tham gia vào sứ mệnh
của Hội thánh. Trong tường thuật Cv 15,1-35, Phê- rô, Phao-lô và Ba-na-ba, cũng
như Gia-cô-bê, cùng với các kỳ mục, tuy khác nhau trong cách biểu đạt, nhưng dưới
sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần, đã hợp xướng cùng nhau trong một bản giao hưởng
tuyệt vời mà tác giả không ai khác hơn là chính Thiên Chúa Ba ngôi: Thiên Chúa,
Chúa Giê-su và Thánh Thần.
Như vậy, Cv 15,1-35 cho
chúng ta thấy, Hội thánh hiệp hành không triệu tập Công đồng hay Hội đồng để giải
quyết một hay nhiều vấn đề của các Ki-tô hữu, nhưng để sống và thi hành chương
trình cứu độ của Thiên Chúa cho loài người, bằng cách tiếp tục thúc đẩy các
Ki-tô hữu thực hiện sứ mệnh loan báo Tin mừng của Chúa Giê-su cho nhân loại,
như câu kết của trình thuật Công đồng Giê-ru-sa-lem: “Còn Phao-lô và Ba-na-ba ở lại An-ti-ô-khi-a giảng dạy và loan báo Tin Mừng,
Lời của Chúa, với nhiều người khác” (Cv 15,35).
THƯ MỤC
✔ A theology of Luke and Acts: biblical
theology of the New Testament, Darrell L. Bock; Andreas J. Kởstenberger,
general editor, Zondervan, Grand Rapids, Michigan, 2011.
✔ BUTTICAZ
Simon, L'identité de l'Eglise dans les
Actes des apôtres, De la restauration d'Israẽl à la conquête universelle,
De Gruter, Berlin/Newyork, 2011.
✔ Catholic Bible Dictionary, SCOTT HAHN,
General Editor, Doubleday, 2009.
✔ DAHL
Nils A., “APeople forHis Name” (Acts XV.4), NTS 4 (New Testament Studies),
1957-1958, tr. 324-326.
✔ DELEBECQUE
Édouard, Deux études de critique
littéraire sur les deux versions du Concile de Jérusalem en 49, In: Revue
belge de philologie et d'histoire, tome 62, fasc. 1, 1984. Antiquité — Oudheid.
pp. 30-55; doi: https://doi.org/10.3406/rbph.1984.3449. https://www.persee.fr/doc/rbph_0035-0818_1984_num_62_1_3449.
✔ DUNN
James D. G., The Canon Debate, L. M.
McDonald và J. A. Sanders, éditeurs, 2002, chương 32, trang 577.
✔ GADAMER
Hans-Georg, Truth and Method, Second,
Revised Edition Translation revised by Joel Weinsheimer and Donald G. Marshall,
Continuum London/Newyork, tr. 356-371.
✔ Harpercollins Bible Dictionary, Paul J.
Achtemeier, General Editor, Revisied Edition, 1996.
✔ HURLEY
Robert, “La fonction politique d'Actes 15,23- 29”, trong Tạp chí Théologiques,
Dernier repas, Tập 23, số 1, năm 2015, tr. 181-207. https://doi.org/10.7202/1040871ar.
✔ International Theological Commission, Synodality in the life and mission of the Church, Vatican, 2018. https://www.vatican.va/roman_curia/congregations/cfaith/cti_documents/rc_cti_20180302_sinodalita_en.html.
✔ Nestle-Aland,
E. et al., Novum Testamentum Graece
(28th ed.), Stuttgart, Deutsche Bibelgesellschaft, 2021.
✔ STRAUSS
Mark L., The Davidic Messiah in
Luke-Acts, The Promise and its fulfillment in Lukan Christology, JSNT. SS
110, Sheffield Academic Press, 1995, tr. 180-192.
✔ Talbert,
C., ReadingLuke-Acts in
itsMediterraneanMilieu, Leiden, Brill, 2003.
✔ Thượng
Hội đồng Giám mục (Synodus episcoporum), Hướng
tới một Hội thánh hiệp hành, Hiệp thông, Tham gia và Sứ vụ, Văn phòng Tổng
thư ký Thượng hội đồng giám mục phát hành, 2021.
✔ WENDT
Hans Hinrich, Die Apostelgeschichte,
(1899), nxb Nabu Press, 2011.
Trích Bản tin Hiệp
Thông / HĐGMVN, Số 127
(Tháng 01 & 02 năm 2022)
[1] “Ce que le Seigneur nous demande, dans un certain sens, est déjà
contenu entièrement dans le mot synode. Marcher ensemble - laỉcs, pasteurs,
évêque de Rome - est un concept facile à exprimer en paroles, mais pas si
facile à mettre en pratique”. http://secretariat.synod.va/content/synod/fr/news/le-pape-
convoque-un-synode-sur-l-eglise-et-la-synodalite-en-2022.html. Tham khảo ngày 30/11/21.
[2] International Theological Commission, Synodality in the life and
mission of the Church, “Chương 1, Synodality in Scripture, in Tradition and in
History”, số 12-23, Vatican, 2018. https://www.vatican.va/roman_curia/congregations/cfaith/cti_documents/rc_cti_20180302_sinodalita_en.html. Tham khảo ngày 11/12/2021.
[3] Các nhà chú giải đồng thuận có liên quan giữa Cv 15,1-35 và Gl 2,1-10.
HURLEY Robert, “La fonction politique d'Actes 15,23-29”, trong Tạp chí
Théologiques, Dernier repas, Tập 23, số 1, năm 2015, tr. 186. https://www.erudit.org/fr/revues/theologi/2015-v23-n1-theologi03170/1040871ar/.
[4] “This question is dealt with in what tradition has called ‘the
apostolic Council of Jerusalem” (cf. Acts 15, and also Galatians 2,1-10). There
we can see a synodal event coming into being, in which the apostolic Church, in
a decisive moment of its development, lives out its vocation in view of its
mission, enlightened by the presence of the risen Lord. Across the centuries, this event has been interpreted as the paradigm for Synods celebrated by
the Church.” International Theological Commission, “Chương 1, Synodality in
Scripture, in Tradition and in History”, trong Synodality in the life and
mission of the Church, số 20.
[6] “Circumcision”, Harpercollins Bible Dictionary, Paul J. Achtemeier,
General Editor, Revised Edition, 1996.
[7] Ferdinand Christian Baur (sinh ngày 21 tháng 6 năm 1792 tại Schmiden,
gần
Fellbach, vương quận
Wurttemberg và mất ngày 2 tháng 12 năm 1860 tại Tubingen) là một nhà thần học
Tin lành người Đức. Ông đã xuất bản một số lượng lớn các tác phẩm phê bình tôn
giáo, táo bạo như tác phẩm của David Friedrich Strauss, học trò của ông: Gnose
chrétienne, 1835; Saint-Paul, sa vie et ses doctrines, 1845; Recherches critiques
sur les Évangiles canoniques, 1847; Le Christianisme jusqu'au VIe siècle, 1835.
[8] James D. G. Dunn, The Canon Debate, L. M. McDonald và J. A. Sanders,
éditeurs, 2002, chương 32, trang 577.
[9] Có lẽ hoàn toàn độc lập với tranh luận tại Công đồng Giê-ru-sa-lem, chủ
đề “ gentils et la Torah” (dân ngoại và Torah” cũng được tranh luận giữa các
giáo sĩ Do Thái như được viết trong Talmud. Điều này dẫn đến học thuyết về Bảy
điều luật của Nô-ê, được các dân ngoại tuân theo, cũng như xác định rằng “dân
ngoại không được dạy về kinh Torah.” Giáo sĩ Do Thái ở thế kỷ 18, Jacob Emden,
cho rằng mục tiêu ban đầu của Chúa Giê-su, và đặc biệt là của Phao-lô, chỉ là
chuyển đổi người ngoại giáo theo Bảy điều luật của Nô-ê, đồng thời cho phép người
Do thái tuân theo Luật pháp Mô-sê hoàn chỉnh. Xem Jewish Encyclopedia:
“Gentiles: Gentiles May Not Be Taught the Torah”. http://jewishencyclopedia.com/view.jsp?artid=142&letter=G&search=gentiles. Tham khảo ngày 5/12/21.
[10] Gia-cô-bê có ảnh hưởng sâu rộng nơi các tín hữu gốc Do-thái giáo, đứng
đầu Hội Thánh tại Giê-ru-sa-lem (Mt 13,55; Mc 6,3; 1 Cr 15,7; Cv 12,17; 15,13;
21,18). Có lẽ ông kế vị tông đồ Gia-cô-bê tiền bị vua Hê-rô-đê Ác-ríp-pa I giết
bằng gươm khoảng năm 44 (Cv 12,1).
[12] Nils A. Dahl, “A People for His Name” (Acts XV.4), NTS 4 (New
Testament Studies), 1957-1958, tr. 324-326.
[13] Mark L. Strauss, The Davidic Messiah in Luke-Acts, The Promise and its
fulfillment in Lukan Christology, JSNT.SS 110, Sheffield Academic Press, 1995,
tr. 180-192.
[14] Xi-la sẽ được Phao-lô chọn thay thế Mác-cô (15,40) để đồng hành với
ngài trong chuyến truyền giáo lần thứ hai (15,40 - 18,5).
[15] Câu 15,34 không hiện hữu trong nhiều bản thảo tiếng Hy lạp (ví dụ:
Nestle Aland, tái bản lần thứ 28), như P74 א
A B E Ψ M bo. Một số ít chứng bản thêm câu 15,34 với hình thức ngắn (nhưng
Xi-la quyết định ở lại) ([C] 33 36 323 453 614 [945] 1175 1739 1891 al sa) và dạng
thức dài hơn (nhưng Xi-la quyết định ở lại với họ, và chỉ một mình Giu-đa rời
đi) (D I). Nhưng theo nguyên tắc phê bình văn bản, 15,34 được thêm vào sau này
để hòa hợp với Cv 15,40, vì Xi-la sau đó đã đồng hành với Phao-lô trong hành
trình truyền giáo kéo dài 3 năm (15,36-18,22).
[16] Robert Hurley, “La fonction politique d'Actes 15,23-29”, trong Tạp chí
Théologiques, Dernier repas, Tập 23, số 1, năm 2015, tr. 185.
[17] Thượng Hội đồng Giám mục (Synodus episcoporum), Hướng tới một Hội
thánh hiệp hành, Hiệp thông, Tham gia và Sứ vụ, Văn Phòng Tổng thư ký Thượng hội
đồng giám mục phát hành, 2021.
[19] Hans-Georg GADAMER, Truth and Method, Second, Revised Edition
Translation revised by Joel Weinsheimer and Donald G. Marshall, Continuum
London/Newyork, tr. 356-371.