CHƯƠNG TRÌNH DƯỚI ÁNH SÁNG LỜI CHÚA

CHÚA NHẬT 32 THƯỜNG NIÊN NĂM A

BÀI 39: NGƯỜI TRINH NỮ TRONG KINH THÁNH

Lm. I-nha-xi-ô Hồ Văn Xuân,
Tổng Đại Diện Gp. Sài Gòn
và Nhóm Phiên Dịch Các giờ kinh Phụng vụ

WGPSG (09.11.2023)Trong bài giảng về cánh chung theo Tin Mừng Mát-thêu, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Nước Trời sẽ giống như chuyện mười trinh nữ cầm đèn ra đón chú rể” (Mt 25,1).

Theo ngữ cảnh của dụ ngôn, mười trinh nữ này là những phù dâu mà theo tập tục Do-thái, họ là những thiếu nữ trinh trắng và chưa hề kết hôn.

Trong bài học hỏi này, chúng ta thử tìm xem Kinh Thánh quan niệm thế nào về việc đồng trinh và về người trinh nữ.

Thông thường, trinh nữ được hiểu là người con gái chưa kết hôn, chưa có tương quan vợ chồng với ai và thường thì vẫn còn dưới quyền bảo hộ của người cha trong gia đình.

1. Theo Cựu Ước

Cựu Ước dùng hai từ Híp-ri là bơ-thu-lah  (בְּתוּלָה) và al-mah (עַלְמָה) để chỉ một cô bé, một thiếu nữ, và thường hiểu là còn trong trắng, tức là trinh nữ.

a. Bơ-thu-lah là một từ rất chung để chỉ bất cứ người nữ nào từ khi sinh ra cho đến tuổi thành niên. Từ này thường được dịch là “trinh nữ”, cũng được dịch là “thiếu nữ”, với hàm ý rằng đó là cô gái còn trong trắng về mặt giới tính và chưa kết hôn.

Bơ-thu-lah cũng để chỉ một cô gái trẻ ở độ tuổi có thể kết hôn, đang độ thanh xuân, triển nở về sức mạnh, vóc dáng và nhan sắc. Nói theo thời nay, Bơ-thu-lah là cô gái tuổi “teen”.

Trong sách ngôn sứ Ê-dê-ki-en, Ít-ra-en được ví như một đứa trẻ bị bỏ rơi nhưng được Chúa thương cứu vớt và nuôi nấng để rồi trở nên một thiếu nữ xinh đẹp : “Ta làm cho ngươi nảy nở như hoa ngoài đồng. Ngươi đã nảy nở, lớn lên và thành  thiếu nữ” (Ed 16,7).

b. Al-mah chỉ được dùng 7 lần trong Kinh Thánh (St 24,43 ; Xh 2,8 ; Tv 68,25 ; Cn 30,19 ; Dc 1,3 ; 6,8 ; Is 7,14) để chỉ một cô gái đang tuổi thiếu niên hay vị thành niên và có thể kết hôn, nhưng thường hiểu là một bé gái hơn là cô gái với hàm ý là còn đồng trinh.

Xh 2,8 : “Công chúa của Pha-ra-ô trả lời (chị của cậu bé Mô-sê) : ‘Con đi đi.’ Cô bé liền đi gọi mẹ đứa trẻ.” Al-mah ở đây hiểu là một bé gái hơn là một thiếu nữ.

St 24,43 dùng từ al-mah để chỉ một thiếu nữ đến tuổi thành hôn mà sau đó chính là cô Rê-bê-ca, người được hỏi cưới cho I-xa-ác.

Trường hợp al-mah ở Is 7,14 đã gây tranh luận về ý nghĩa của danh từ này là “thiếu nữ” hay “trinh nữ”, vì bản văn Hy-lạp đã phiên dịch al-mah thành pác-thê-nos (παρθένος) nghĩa là trinh nữ. Sau này tác giả Tin Mừng Mát-thêu cũng trưng dẫn Is 7,14 theo bản Hy-lạp (x. Mt 1,23).

c. Luật Mô-sê và sự trinh khiết

Luật đòi hỏi dân Ít-ra-en phải tôn trọng trinh hạnh của một cô gái, nhất là đối với cô dâu.

Sách Lê-vi quy định rằng vị thượng tế “chỉ được lấy một trinh nữ trong gia tộc mình làm vợ” (Lv 21,14)

Đnl 22,13-21 nói đến “các dấu trinh tiết” khi một người vợ bị chồng cáo buộc là đã mất trinh hạnh trước khi cưới, thì cha mẹ vợ phải trưng ra bằng chứng trinh tiết để bảo vệ con mình. Nếu lời cáo buộc là vu khống thì người chồng bị đánh đòn và nộp phạt, bị cấm ly dị vợ mình. Nhưng nếu không có “các dấu trinh tiết”, thì người vợ sẽ bị ném đá.

Đnl 22,23-24 quy định rằng một trinh nữ đã đính hôn mà ăn ở như vợ chồng với người đàn ông khác thì cả hai sẽ bị ném đá.

2. Theo Tân Ước

Tân Ước dùng từ pác-thê-nos (παρθένος) để chỉ “một cô gái đến tuổi kết hôn”. Nhưng về sau, pác-thê-nos được dùng để nói đến một cô gái còn trinh khiết, nghĩa là “trinh nữ” hay “đồng trinh”.

Mt 1,18.25 và Lc 1,27-28 xác nhận sự trinh khiết của Đức Ma-ri-a lúc được truyền tin và thụ thai : “Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giu-se, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Ma-ri-a” (Lc 1,26b-27).

Thời các Tông Đồ đã có các trinh nữ Ki-tô giáo được Chúa mời gọi để tâm hồn, thể xác và tinh thần được tự do hơn mà gắn bó hoàn toàn với Người (x. 1 Cr 7,34-36). Họ quyết định sống trong bậc đồng trinh hoặc khiết tịnh vĩnh viễn “vì Nước Trời” (Mt 19,12).

Ở 2 Cr 11,2 thánh Phao-lô nói mình đã tiến dâng Hội Thánh như một trinh nữ thanh khiết cho Đức Ki-tô.

Trinh khiết là một lý tưởng sống khổ hạnh trong Tân Ước. Không có nhiều lời khuyên rõ ràng về lý tưởng này. Truyền thống Ki-tô giáo hoàn toàn dựa vào chính cuộc đời của Đức Giê-su và cuộc sinh hạ trinh khiết của Người. Truyền thống cũng coi thánh Gio-an tông đồ là gương mẫu cho những ai bước theo Đức Giê-su trinh khiết. Đức Giê-su đưa ra giáo huấn về đời sống trinh khiết ở Mt 19,11-12 : “Không phải ai cũng hiểu được […], nhưng chỉ những ai được Thiên Chúa cho hiểu mới hiểu. Quả vậy, có những người không kết hôn vì từ khi lọt lòng mẹ, họ đã không có khả năng ; […] ; lại có những người tự ý không kết hôn vì Nước Trời. Ai hiểu được thì hiểu.”

Đức Giê-su đề cập đến việc tự nguyện sống độc thân trọn vẹn, suốt đời như một bậc sống đặc biệt để phục vụ Nước Trời. Người còn cho hiểu rằng : lý tưởng độc thân này được đưa ra như lời mời gọi dành cho một số người, ai được Thiên Chúa cho hiểu thì mới hiểu ; cho nên đây là chuyện hoàn toàn tự do tự nguyện, không phải ai cũng hiểu được và ai hiểu được thì hiểu.

Thánh Phao-lô viết cho các tín hữu Cô-rin-tô rằng : “Người đàn bà không có chồng và người trinh nữ thì chuyên lo việc Chúađể thuộc trọn về Người cả hồn lẫn xác” (1 Cr 7,34). Liệu đây có phải là lời mở đường cho các trinh nữ sẽ sống đời thánh hiến sau này không ? Thật ra, với bối cảnh của thế kỷ I, bản văn 1 Cr 7,29-38 mang sắc thái cánh chung, hướng các Ki-tô hữu đến biến cố quang lâm mà sống tinh thần thanh thoát, như thánh Phao-lô đã viết : “Thưa anh em, tôi xin nói với anh em điều này : thời gian chẳng còn bao lâu. Vậy từ nay những người có vợ hãy sống như không có ; ai khóc lóc, hãy làm như không khóc ; ai vui mừng, như chẳng mừng vui ; ai mua sắm, hãy làm như không có gì cả ; kẻ hưởng dùng của cải đời này, hãy làm như chẳng hưởng. Vì bộ mặt thế gian này đang biến đi” (1 Cr 7,29-31).

Trước đó, vào cuối thế kỷ II tCN, trong cộng đoàn Qumran, gần Biển Chết, đã có các nhóm trinh nữ sống trong niềm trông đợi Chúa đến.

3. Những trinh nữ tiêu biểu trong Kinh Thánh

a. Con gái thủ lãnh Gíp-tắc (x. Tl 11,29-40)

Trước khi đi giao chiến với con cái Am-mon, ông Gíp-tắc đã khấn hứa với Chúa : Nếu Chúa cho ông thắng trận, thì khi trở về, người đầu tiên đón mừng ông, ông sẽ sát tế kính Đức Chúa. Chẳng may, chính con gái độc nhất của ông rơi vào lời khấn hứa ấy. Cô con gái xin ông hoãn lại hai tháng cho cô đi lang thang với các bạn bè, khóc thương tuổi thanh xuân của cô. Cô thương tiếc cái chết đến quá sớm trước khi cô đạt được trọn vẹn vai trò của người phụ nữ trong hôn nhân.

b. Hoàng hậu Ét-te, nữ anh hùng dân Do-thái

Sách Ét-te kể : Sau khi hoàng hậu Vát-ti bị vua A-suê-rô nước Ba-tư truất phế, các cận thần đề nghị tuyển chọn “các trinh nữ nhan sắc” (x. Et 2,2), huấn luyện và chăm sóc sắc đẹp cho các cô, để nhà vua đích thân tuyển chọn một cô làm hoàng hậu. Và vua đã tuyển chọn cô Ét-te, người Do-thái ở thành Su-san làm hoàng hậu (x. Et 2,17). Hoàng hậu Ét-te đã cứu dân tộc Do-thái khỏi nạn diệt chủng vì lòng thù ghét người Do-thái của quan Ha-man.

c. Được nhân cách hoá là “trinh nữ”

Ngôn sứ I-sai-a đã kết án Xan-khê-ríp, vua Át-sua, vì tội thoá mạ Thiên Chúa và Giê-ru-sa-lem rằng : “Trinh nữ, con gái Xi-on khinh dể nhạo báng ngươi” (Is 37,22 // 2 V 19,21) ; I-sai-a cũng nguyền rủa Ba-by-lon rằng : “Hỡi trinh nữ, con gái Ba-by-lon, xuống đi, ngồi trên cát bụi ; […] vì người ta sẽ không bao giờ gọi ngươi là cô gái yêu kiều đài các nữa” (Is 47,1).

Giê-rê-mi-a cũng kết tội dân Ai-cập : “Hãy lên Ga-la-át lấy dầu thoa, hỡi trinh nữ, con gái Ai-cập” (Gr 46,11).

Đặc biệt, các ngôn sứ đã gọi :

Giê-ru-sa-lem là trinh nữ : “Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, ví ngươi cùng ai, sánh ngươi với ai ? Này trinh nữ, cô gái Xi-on, ai cứu được ngươi, ai ủi an ngươi ?” (Ac 2,13).

Ít-ra-en là trinh nữ : “ĐỨC CHÚA phán thế này : Hãy hỏi các dân tộc cho biết : Ai đã nghe câu chuyện như thế này chưa ? Trinh nữ Ít-ra-en đã làm điều rất kinh tởm” (Gr 18,13).

Dân Ít-ra-en là trinh nữ : Giê-rê-mi-a đã than khóc rằng : “Mắt tôi hãy tuôn trào suối lệ cả ngày đêm không ngớt, vì trinh nữ cô gái dân tôi đã bị đánh nhừ đòn, vết trọng thương hết đường cứu chữa” (Gr 14,17).

d. Đức Trinh Nữ Ma-ri-a

Mt 1,18-25 và Lc 1,26-38 cho biết Đức Ma-ri-a là trinh nữ thụ thai do quyền năng Chúa Thánh Thần (Mt 1,20 ; Lc 1,35). Hơn nữa, Lc 1,27 nhấn mạnh hai lần từ “trinh nữ”. Điều này quan trọng, vì tác giả Lu-ca có thể sử dụng một từ Hy-lạp quen thuộc ko-ra-xi-on (κοράσιον) để chỉ một cô gái nhỏ, một thiếu nữ chưa kết hôn nhưng ông lại dùng hạn từ “trinh nữ” - pác-thê-nos (παρθένος) - để nói về Đức Ma-ri-a.

Cầu nguyện :

CHÚA làm chủ trái đất cùng muôn vật muôn loài,

làm chủ hoàn cầu với toàn thể dân cư.

Nền trái đất, Người dựng trên biển cả,

đặt vững vàng trên làn nước mênh mông.

Ai được lên núi CHÚA ?

Ai được ở trong đền thánh của Người ?

Đó là kẻ tay sạch lòng thanh,

chẳng mê theo ngẫu tượng,

không thề gian thề dối.

Người ấy sẽ được CHÚA ban phúc lành,

được Thiên Chúa cứu độ thưởng công xứng đáng.

Đây chính là dòng dõi những kẻ kiếm tìm Người,

tìm thánh nhan Thiên Chúa nhà Gia-cóp.

(Tv 24,1-6)

Nguồn: tgpsaigon.net