|
Đáp ca: Tv 71,1-2.7-8.12-13.17 (Đ. x. c.7) |
A. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
Bài đọc 1: Is 11,1-10
Chúa xét xử công minh cho người thấp cổ bé miệng.
Bài trích sách ngôn sứ I-sai-a.
1 Ngày ấy, từ gốc tổ Gie-sê, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non. 2 Thần khí Đức Chúa sẽ ngự trên vị này : thần khí khôn ngoan và minh mẫn,thần khí mưu lược và dũng mãnh, thần khí hiểu biết và kính sợ Đức Chúa. 3 Lòng kính sợ Đức Chúa làm cho Người hứng thú, Người sẽ không xét xử theo dáng vẻ bên ngoài, cũng không phán quyết theo lời kẻ khác nói, 4 nhưng xét xử công minh cho người thấp cổ bé miệng, và phán quyết vô tư bênh kẻ nghèo trong xứ sở. Lời Người nói là cây roi đánh vào xứ sở, hơi miệng thở ra giết chết kẻ gian tà. 5 Đai thắt ngang lưng là đức công chính, giải buộc bên sườn là đức tín thành. 6 Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ. Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau, một cậu bé sẽ chăn dắt chúng. 7 Bò cái kết thân cùng gấu cái, con của chúng nằm chung một chỗ, sư tử cũng ăn rơm như bò. 8 Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang. 9 Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá trên khắp núi thánh của Ta, vì sự hiểu biết Đức Chúa sẽ tràn ngập đất này, cũng như nước lấp đầy lòng biển. 10 Đến ngày đó, cội rễ Gie-sê sẽ đứng lên làm cờ hiệu cho các dân. Các dân tộc sẽ tìm kiếm Người, và nơi Người ngự sẽ rực rỡ vinh quang. Đó là lời Chúa.
Đáp ca: Tv 71,1-2.7-8.12-13.17 (Đ. x. c.7)
Đ. Triều đại Người, đua nở hoa công lý và thái bình thịnh trị đến muôn đời.
1 Tâu Thượng Đế,
xin ban quyền bính Ngài cho vị Tân Vương,
trao công lý Ngài vào tay Thái Tử,
2 để Tân Vương xét xử dân Ngài theo công lý,
và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn. Đ.
7 Triều đại Người, đua nở hoa công lý và thái bình thịnh trị
tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn.
8 Người làm bá chủ từ biển này qua biển nọ,
từ Sông Cả đến tận cùng cõi đất. Đ.
12 Người giải thoát bần dân kêu khổ
và kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương,
13 chạnh lòng thương ai bé nhỏ khó nghèo.
Mạng sống dân nghèo, Người ra tay tế độ. Đ.
17 Danh thơm Người sẽ trường tồn vạn kỷ,
nức tiếng gần xa dưới ánh mặt trời.
Ước gì mọi sắc tộc trần gian,
nhờ Người được chúc lành,
và muôn dân thiên hạ ngợi khen Người có phúc. Đ.
Bài đọc 2: Rm 15,4-9
Đức Ki-tô cứu độ hết mọi người.
Bài trích thư của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Rô-ma.
4 Thưa anh em, mọi lời xưa đã chép trong Kinh Thánh, đều được chép để dạy dỗ chúng ta. Những lời ấy làm cho chúng ta nên kiên nhẫn, và an ủi chúng ta, để nhờ đó chúng ta vững lòng trông cậy. 5 Xin Thiên Chúa là nguồn kiên nhẫn và an ủi, làm cho anh em được đồng tâm nhất trí với nhau, như Đức Ki-tô Giê-su đòi hỏi. 6 Nhờ đó, anh em sẽ có thể hiệp ý đồng thanh mà tôn vinh Thiên Chúa, là Thân Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. 7 Vậy, anh em hãy đón nhận nhau, như Đức Ki-tô đã đón nhận anh em, để làm rạng danh Thiên Chúa. 8 Thật vậy, tôi xin quả quyết : Đức Ki-tô có đến phục vụ những người được cắt bì, để thực hiện những gì Thiên Chúa đã hứa với tổ tiên họ, đó là do lòng trung thành của Thiên Chúa. 9 Còn các dân ngoại có được tôn vinh Thiên Chúa, thì đó là do lòng thương xót của Người, như có lời chép : Vì thế giữa muôn dân con cất lời cảm tạ, dâng điệu hát cung đàn ca mừng danh thánh Chúa.
Đó là lời Chúa.
Tung hô Tin Mừng: Lc 3,4.6
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa. Ha-lê-lui-a.
Tin Mừng: Mt 3,1-12
Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần.
X Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.
1 Khi ấy, ông Gio-an Tẩy Giả đến rao giảng trong hoang địa miền Giu-đê rằng : 2 “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đếngần.” 3 Ông chính là người đã được ngôn sứ I-sai-a nói tới : Có tiếng người hô trong hoang địa : Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi.
4 Ông Gio-an mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn. 5 Bấy giờ, người ta từ Giê-ru-sa-lem và khắp miền Giu-đê, cùng khắp vùng ven sông Gio-đan, kéo đến với ông. 6 Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Gio-đan. 7 Thấy nhiều người thuộc phái Pha-ri-sêu và phái Xa-đốc đến chịu phép rửa, ông nói với họ rằng : “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy ? 8 Các anh hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối. 9 Đừng tưởng có thể bảo mình rằng : ‘Chúng ta đã có tổ phụ Áp-ra-ham.’ Vì, tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Áp-ra-ham. 10 Cái rìu đã đặt sát gốc cây : bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa. 11 Phần tôi, tôi làm phép rửa cho các anh bằng nước để giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh bằng Thánh Thần và bằng lửa. 12 Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân : thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi.”
Đó là lời Chúa.
B. CHIA SẺ LỜI CHÚA
1. Bài đọc 1 : Is 11,1-10
1. Bài đọc 1 chúng ta vừa nghe nói về gia phả của vua Đa-vít. Chúng ta nhớ lại ông Gie-sê có tám người con trai và Thiên Chúa chọn một trong tám người con trai đó làm vua cai trị Ít-ra-en. Theo lệnh của Đức Chúa, ông Sa-mu-en không chọn người lớn tuổi nhất, cao lớn nhất, vạm vỡ nhất, nhưng chọn người trẻ nhất, một cậu bé đang chăn chiên ngoài đồng, đó là cậu bé Đa-vít, sẽ là một vị vua vĩ đại của Ít-ra-en, và nhờ đó ông Gie-sê trở nên nổi tiếng vì ông là cha của vua Đa-vít, là tổ tiên của một dòng dõi đông đảo, dòng dõi này thường được tượng trưng bằng một cái cây : một cái cây sẽ có tương lai huy hoàng, một cái cây không bao giờ chết.
Một ngôn sứ khác, ngôn sứ Na-than cũng nói với vua Đa-vít : Thiên Chúa hứa ban cho dòng dõi nhà vua sẽ mãi mãi trường tồn và cuối cùng dân chúng sẽ hoàn toàn hiệp nhất và bình an. Nhưng chúng ta phải thẳng thắn nhìn nhận rằng : không một vị vua nào của dòng dõi vua Đa-vít đã thực hiện được những lời hứa tốt đẹp này ; dù vậy dân chúng vẫn tiếp tục hy vọng vì Thiên Chúa đã hứa thì sớm hay muộn gì, lời hứa cũng sẽ trở thành hiện thực bởi Thiên Chúa là Đấng trung tín. Vì thế, từ “Mê-si-a” đã thay đổi ý nghĩa.
2. Tất cả các vị vua, dù tốt hay xấu, đều xứng đáng với danh xưng “mê-si-a”, trong tiếng Híp-ri có nghĩa là “người được xức dầu”, ám chỉ việc một vị vua được xức dầu ngày đăng quang. Nhưng với thời gian, từ “mê-si-a” đồng nghĩa với “vị vua lý tưởng”, vị vua mang lại hạnh phúc và công bằng trên trái đất này.
Chúng ta trở lại câu nói đầu tiên của bài đọc 1 hôm nay : “Ngày ấy, từ gốc tổ Gie-sê (cha của Đa-vít), sẽ đâm ra một nhánh nhỏ.” Lời này ngôn sứ I-sai-a muốn nói với những ngườiđương thời là hiện tại, mọi người có cảm tưởng tất cả những lời hứa đẹp đẽ đều bay mất hết và cây gia phả của Đa-vít chẳng sản sinh ra cái gì tốt cả ! Nhưng, ngay cả từ một cây đã chết khô, từ một cội rễ, Thiên Chúa sẽ làm nảy sinh một chồi non không ai ngờ cả. Vì thế xin mọi người yên tâm, sớm hay muộn gì thì Đấng Mê-si-a sẽ tới !
Trở lại bài đọc 1, ta thấy có hai câu đóng khung cây Gie-sê, và bên trong khung này có hai phần : Phần thứ nhất nói về vị Vua – Mê-si-a mà Thần Khí Đức Chúa sẽ ngự trên vị này, với các ơn ban : thần khí khôn ngoan và minh mẫn, thần khí mưu lược và dũng mãnh, thần khí hiểu biết và kính sợ Đức Chúa. Trong Kinh Thánh, con số 7 chỉ sự tròn đầy ; bản văn nhấn mạnh đến ơn kính sợ Đức Chúa : Vào thời ngôn sứ I-sai-a, khi nói “kính sợ Thiên Chúa”, người ta muốn nói đến thái độ hiếu thảo, tin tưởng và kính trọng. Vị Vua – Mê-si-a, khi ngự đến, sẽ cư xử với Thiên Chúa như một người con đối với cha của mình, nghĩa là Người sẽ cai trị dân chúng như Thiên Chúa muốn.
3. Chúng ta thấy ngôn sứ I-sai-a nhấn mạnh đến sự công chính, đó là ưu phẩm của vị vua lý tưởng : “Đai thắt ngang lưng là đức công chính, giải buộc bên sườn là đức tín thành. Người sẽ không xét xử theo dáng vẻ bên ngoài, cũng không phán quyết theo lời kẻ khác nói, nhưng xét xử công minh cho người thấp cổ bé miệng, và phán quyết vô tư bênh kẻ nghèo hèn trong xứ sở.” Chúng ta biết ngôn sứ I-sai-a đã khiển trách nặng lời những người đương thời với ông về vấn đề này. Ngôn sứ I-sai-a tiếp tục : “Lời Người nói là cây roi đánh vào xứ sở, hơi miệng thở ra giết chết kẻ gian tà” ; như vậy vị Vua – Mê-si-a tuyên chiến với bất công.
Phần thứ hai của bản văn chúng ta có thể gọi là “chuyện ngụ ngôn của loài vật”, hình ảnh tuyệt vời về sự hoà hợp chung ; đây có ý nói ngày kết thúc kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa, ngày mà Thần Khí dẫn chúng ta tới sự thật toàn vẹn, như Chúa Giê-su đã nói, ngày mà “sự hiểu biết Đức Chúa sẽ tràn ngập đất này, cũng như nước lấp đầy lòng biển”.
Cuối cùng, ngôn sứ I-sai-a nhắc lại một lần nữa về kế hoạch của Thiên Chúa liên quan đến toàn thể nhân loại : “Đến ngày đó, cội rễ Gie-sê sẽ đứng lên làm cờ hiệu cho các dân. Các dân tộc sẽ tìm kiếm Người.” Sau này, Chúa Giê-su sẽ nói : “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12,32).
2. Đáp ca : Tv 71
1. Thánh vịnh 71 nói về vương quyền của Đức Ki-tô : “Tâu Thượng Đế, xin ban quyền bính Ngài cho vị Tân Vương” : đây là một lời cầu nguyện ; “để Tân Vương xét xử dân Ngài theo công lý” : đó là một ước mong. Đó là những lời được đọc lên trong lễ tấn phong một Tân Vương. Chúng ta đang ở Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, nhưng chúng ta biết là thánh vịnh này được sáng tác và hát lên sau thời gian lưu đày ở Ba-by-lon, nghĩa là vào thời kỳ Ít-ra-en không có vua nữa ; điều đó muốn nói rằng lời cầu nguyện cũng như ước mong này không liên quan đến một vị vua bằng xương bằng thịt, nhưng liên quan đến một vị vua mà mọi người đang trông đợi mà Thiên Chúa đã hứa ban, đó là vị Vua – Mê-si-a. Vì đó là một lời hứa của Thiên Chúa, nên chắc chắn sẽ trở thành hiện thực vì Thiên Chúa là Đấng trung tín.
2. Kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa là muốn cho con người được hạnh phúc. Thiên Chúa đã báo điều đó ngay trong lời nói đầu tiên với ông Áp-ra-ham : “Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc” (St 12,3). Điều quan trọng ta cần ghi nhớ là ngay từ đầu, mặc khải Kinh Thánh liên quan đến toàn thể nhân loại, và dân Ít-ra-en dần dần hiểu rằng họ không được phép giấu kín bí mật này mà phải công bố cho cả thế giới được biết. Thánh vịnh hôm nay đâu có nói điều gì khác đâu : “Ước gì mọi sắc tộc trần gian, nhờ Người được chúc lành, và muôn dân thiên hạ ngợi khen Người có phúc.” Một lời hứa khác Chúa dành cho ông Áp-ra-ham : “Hôm đó, Chúa lập giao ước với ông Áp-ra-ham như sau : ‘Ta ban cho dòng dõi ngươi đất này, từ sông Ai-cập đến sông Cả, tức sông Êu-phơ-rát’” (St 15,18). Thánh vịnh hôm nay như một tiếng dội lại của lời hứa đó : “Người làm bá chủ từ biển này qua biển nọ, từ sông Cả đến tận cùng cõi đất.”
Cuối cùng là một nhân loại sống trong tình huynh đệ và hoà bình, không còn ai bị chà đạp : “Triều đại Người, đua nở hoa công lý, và thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn.” Đó là ước mơ tha thiết nhất của tất cả mọi người đang sống trên hành tinh này, trong số đó có tất cả chúng ta.
3. Bài đọc 2 : Rm 15,4-9
1. “Thưa anh chị em, mọi lời xưa đã chép trong Kinh Thánh, đều được chép để dạy dỗ chúng ta. Những lời ấy làm cho chúng ta nên kiên nhẫn, và an ủi chúng ta, để nhờ đó chúng ta vững lòng trông cậy.” Chúng ta cùng xác tín là Kinh Thánh chỉ có một mục tiêu duy nhất là dạy dỗ chúng ta, để chúng ta vững lòng trông cậy. Kinh Thánh luôn chứa đựng Tin Mừng, nuôi dưỡng niềm hy vọng của tất cả chúng ta, vì Kinh Thánh luôn đề cập đến một chủ đề duy nhất công bố kế hoạch lạ lùng của Thiên Chúa mà thánh Phao-lô gọi là “ý định yêu thương của Thiên Chúa”, nghĩa là lời yêu thương của Thiên Chúa dành cho nhân loại.
Trở lại bài đọc 2 hôm nay, thánh Phao-lô mời gọi tín hữu Rô-ma : “Anh em hãy đón nhận nhau, như Đức Ki-tô đã đón nhận anh em.” Từ câu nói trên của thánh Phao-lô, ta có thể hiểu là trong cộng đoàn Rô-ma có vấn đề, có một cuộc xung đột xảy ra giữa những người Ki-tô hữu gốc Do-thái giáo và những anh chị em Ki-tô hữu gốc dân ngoại : những người Ki-tô hữu gốc Do-thái giáo tuân giữ nghiêm ngặt tất cả mọi lề luật Cựu Ước, nhất là về vấn đề thức ăn, trong khi những anh chị em gốc dân ngoại thì không chấp nhận việc đó. Vì thế, thánh Phao-lô “xin Thiên Chúa là nguồn kiên nhẫn và an ủi, làm cho cộng đoàn tín hữu Rô-ma được đồng tâm nhất trí với nhau, sống chung hoà bình, như Đức Ki-tô đòi hỏi. Nhờ đó, họ có thể hiệp ý đồng thanh mà tôn vinh Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta”. Trong những câu trước bài đọc 2 hôm nay, thánh Phao-lô mời gọi tín hữu Rô-ma : “Vậy chúng ta hãy theo đuổi những gì đem lại bình an và những gì xây dựng cho nhau.”
2. Người Ki-tô hữu chúng ta phải luôn noi gương Đức Ki-tô trong cách xử sự thường ngày của mình : “Anh em hãy đón nhận nhau, như Đức Ki-tô đã đón nhận anh em, để làm rạng danh Thiên Chúa.” Vậy Đức Ki-tô làm gì ? Thánh Phao-lô xác nhận : “Đức Ki-tô có đến phục vụ những người được cắt bì” (người Do-thái), ám chỉ “người tôi tớ” ngôn sứ I-sai-a đã đề cập tới trong các chương 42–53 (các bài ca “Người tôi tớ” : Is 42,1-7 ; 49,1-6 ; 50,4-7 ; 52,13–53,12). Có thể nói khi viết thư cho các tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô đã hiểu rõ bốn bài ca về Người tôi tớ trong sách I-sai-a, và ngài đã đọc lại cuộc đời của Đức Ki-tô dưới ánh sáng của 4 bài ca này. “Đức Ki-tô có đến phục vụ những người được cắt bì, để thực hiện những gì Thiên Chúa đã hứa với tổ tiên họ, đó là do lòng trung thành của Thiên Chúa. Còn các dân ngoại có được tôn vinh Thiên Chúa, thì đó là do lòng thương xót của Người.”
4. Bài Tin Mừng : Mt 3,1-12
1. Chính dưới ánh sáng của Đấng Phục Sinh sẽ đến trong ngày quang lâm mà ta khai mạc mùa Vọng này. Cũng chính dưới ánh sáng đó, cùng với thánh Mát-thêu mà chúng ta chứng kiến thời đầu sứ vụ của thánh Gio-an Tẩy Giả. Chỉ một câu thôi cũng đủ gợi lên sự nhập cuộc của ngài : “Hồi ấy, ông Gio-an Tẩy Giả đến rao giảng trong hoang địa miền Giu-đê rằng : ‘Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần.’” Ông Gio-an giới thiệu sự xuất hiện của Đức Giê-su : “Bấy giờ, Đức Giê-su từ miền Ga-li-lê đến sông Gio-đan, gặp ông Gio-an để xin ông làm phép rửa cho mình” (Mt 3,13).
Ông Gio-an đến rao giảng trong hoang địa. Trong ký ức của dân Ít-ra-en, hoang địa là nơi thử thách, nhưng cũng là nơi thể hiện tình nghĩa cha con giữa Thiên Chúa và dân riêng Người chọn, dân Ít-ra-en, và là nơi của mọi khởi đầu. Ta chỉ cần nhắc lại bốn mươi năm vượt qua sa mạc Xi-nai, bốn mươi ngày bốn mươi đêm của ngôn sứ Ê-li-a trên đường về núi Kho-rép, bốn mươi ngày bốn mươi đêm của Đức Giê-su trong hoang địa khi bắt đầu sứ vụ của Người.
2. Ông Gio-an loan báo điều gì ? “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần.” Trọng tâm lời rao giảng của ông Gio-an Tẩy Giả trong Tin Mừng Mát-thêu, cũng là trọng tâm lời công bố của Chúa Giê-su : “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 4,17), trọng tâm lời rao giảng của Giáo Hội trong sách Công vụ Tông Đồ 10,7, sự kiện đặc biệt quan trọng là người ngoại cũng được Thiên Chúa yêu thương, cứu độ qua việc Thánh Thần Chúa sai ông Phê-rô đến nhà viên sĩ quan Co-nê-li-ô. Lời rao giảng của ông Gio-an Tẩy Giả mở màn cho một giai đoạn mới của lịch sử cứu độ : “Có tiếng người hô trong hoang địa : Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, thẳng để Người đi.”
Một nhà chú giải Kinh Thánh tên Tassin giải thích như sau : “Ngày xưa, dân Ít-ra-en được sinh ra từ hoang địa trong cuộc Xuất hành, rồi sau đó lại được sinh ra một lần nữa sau cuộc lưu đày ở Ba-by-lon trở về. Ngày nay chúng ta, các Ki-tô hữu phải được tái sinh nhờ lắng nghe lời các ngôn sứ để dọn đường cho Chúa đến. Chính Chúa Giê-su làm gương cho chúng ta qua việc Người chịu phép rửa tại sông Gio-đan bởi ông Gio-an và bốn mươi ngày đêm sống trong hoang địa.”
3. “Ông Gio-an mặc áo lông lạc đà”, ngày hôm nay, chúng ta cảm thấy xa lạ với cách ăn mặc này, nhưng ngày xưa, việc ăn mặc như vậy có giá trị biểu tượng rất cao, bởi vì gợi nhớ y phục của ngôn sứ Ê-li-a (2 V 1,8) : “Đó là một người ăn mặc áo lông, đóng khố da” mà theo truyền thống Do-thái, việc ông tái xuất hiện dọn đường cho Đấng Cứu Thế ngự đến : “Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến.” “Nếu anh em chịu tin lời tôi (Đức Giê-su), thì ông Gio-an chính là Ê-li-a, người phải đến” (Mt 11,10.14).
Lời rao giảng của ông Gio-an lan toả khắp miền Giu-đê, cũng giống như Đức Giê-su trong chương 4,25 cũng của Tin Mừng Mát-thêu : “Từ miền Ga-li-lê, vùng Thập Tỉnh, thành Giê-ru-sa-lem, miền Giu-đê, và bên kia sông Gio-đan, dân chúng lũ lượt kéo đến đi theo Người” (Mt 11,4).
Theo lời kêu gọi của ông Gio-an Tẩy Giả trong hoang địa, một dân tộc tội lỗi sẽ đến dìm mình trong dòng nước mà ngày xưa họ vượt qua để vào Đất Hứa : “Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ tại sông Gio-đan.” Đó là một khởi đầu mới, một sự sinh ra mới đã được chuẩn bị kỹ lưỡng.
4. Phải gấp rút hoán cải đời sống
Thánh Mát-thêu kể ra những loại người đặc biệt đến xin ông Gio-an làm phép rửa tại sông Gio-đan. Thấy nhiều người thuộc phái Pha-ri-sêu và phái Xa-đốc đến chịu phép rửa, ông nói ngay chẳng nể nang gì cả : “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy ? Các anh hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối.” … Nguyên danh xưng con cháu ông Áp-ra-ham không bảo đảm sẽ được cứu rỗi đâu, vì “Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu Áp-ra-ham. Cái rìu đã đặt sát gốc cây : bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa.”
Kết : Chúng ta đang sống trong mùa Vọng là thời gian mỗi người tích cực chuẩn bị tâm hồn để đón mừng đại lễ Chúa Giáng Sinh, đồng thời hướng lòng chúng ta về ngày Chúa quang lâm. Hai việc làm không thể thiếu được là thống hối và làm việc thiện.
Thống hối là nhận biết tội lỗi, đoạn tuyệt với lối sống cũ, trở về với Thiên Chúa cách triệt để.
Thống hối hàm chứa lòng ước ao và sự quyết tâm thay đổi đời sống, bằng cách trông cậy vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Thống hối là ân sủng của Thiên Chúa – tái tạo và thúc đẩy hối nhân trở về với Người (x. Giáo lý Hội Thánh Công Giáo, các số 1430 đến 1433).
Sự thống hối có thể được diễn tả qua việc ăn chay, cầu nguyện và bố thí (chia sẻ của cải cho người nghèo) (x. Mt 6,1-18) là những hình thức được nhấn mạnh nhất. Ngoài ra, sự thống hối còn được thể hiện bằng những cử chỉ hoà giải, sửa lỗi cho nhau trong tình bác ái, quan tâm giúp đỡ người nghèo (x. Giáo lý Hội Thánh Công Giáo, số 1435).
Bí tích Thánh Thể và bí tích Hoà Giải là nguồn mạch và lương thực của sự thống hối, các thời điểm như mùa Chay và mỗi thứ Sáu tưởng niệm Chúa chịu chết là những lúc thích hợp để thực hành thống hối (x. Giáo lý Hội Thánh Công Giáo, các số 1434 đến 1439).
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giê-su, chúng con đang tích cực chuẩn bị tâm hồn đón mừng Chúa xuống thế làm người và ở cùng chúng con. Xin Chúa giúp chúng con cố gắng sống trọn vẹn chương trình thánh Gio-an Tẩy Giả mời gọi chúng con sống trong mùa Vọng này : đó là thống hối tội lỗi, dọn đường cho Chúa ngự đến và nhiệt thành làm việc thiện.
Tự vấn :
Ngôn sứ I-sai-a mời gọi mỗi người chúng ta nỗ lực dọn đường cho Ngôi Hai xuống thế làm người và ở cùng chúng ta bằng cách : san bằng những núi đồi kiêu căng hiện có trong tâm trí chúng ta, lấp đầy những hố sâu chia rẽ vốn có trong cộng đoàn chúng ta và quảng đại giúp đỡ những người nghèo khổ, bất hạnh đang sống chung quanh chúng ta. Chúng ta đã làm chưa ?
C. BÀI ĐỌC THÊM
1. “Không thể có Phúc Âm hoá mà không có sự trở lại”
(Mgr. L. Daloz, trong “Nước Thiên Chúa đã gần”, Desclée de Brouwer, tr. 23-24).
Ông Gio-an chất vấn bằng lời nói, nhưng cũng bằng cách sống của ông : hoang địa, y phục, lương thực … Chính cuộc sống của ông đặt vấn đề và lôi cuốn. Sau này, Đức Giê-su nhắc lại điều đó : “Anh em ra xem gì trong hoang địa ? Một cây sậy phất phơ trước gió chăng ? Thế thì anh em ra xem gì ? Một người mặc gấm vóc lụa là chăng ? Kìa những kẻ mặc gấm vóc lụa là thì ở trong cung điện nhà vua” (Mt 11,7-8). Ngôn sứ là người đầu tiên phải trở lại. Trước khi loan báo Nước Trời cho người khác, chính ông phải sẵn sàng đón nhận Nước ấy. Không thể nào loan báo cho người khác nếu chính mình không hồi tâm trở lại, bởi vì đó không phải chỉ đơn thuần là chuyển giao một kiến thức. Thông tin về Nước Trời chỉ có thể được tiếp nhận bởi người nào chấp nhận biến đổi đời mình : Hãy ăn năn thống hối : Nước Trời đã gần đến. Không ăn năn trở lại, thì Nước Trời vẫn ở ngoài cửa mà thôi. Chúng ta cần nghe lại sứ điệp của ông Gio-an Tẩy Giả. Trong một thế giới mà việc loan báo Tin Mừng về Nước Thiên Chúa là Nước không được nhận biết, không được đón nhận, thì không được quên rằng, sẽ không được Phúc Âm hoá nếu không có sự ăn năn trở lại của người loan báo, cũng như của người lắng nghe Tin Mừng. Chúng ta luôn luôn phải chạm trán với sự không tin hay với sự thờ ơ, dửng dưng. Chúng thách thức ta phải kiểm điểm lại sự trung thành với Tin Mừng, trình bày Tin Mừng không phải là một giáo huấn đơn thuần cho trí hiểu, nhưng là một lời mời gọi biến đổi đời mình. Bởi vì Tin Mừng là sức mạnh đổi mới, hướng dẫn đời sống một cách khác. Tin Mừng khơi gợi một sự ý thức về tội lỗi, một ý chí muốn thay đổi cuộc sống. Đó là ý nghĩa phép rửa của ông Gio-an : trong khi xưng thú tội lỗi, họ để ông làm phép rửa trong sông Gio-đan.
2. “Với Thiên Chúa, chúng ta không thể gian lận”
(G. Boucher, trong “Đất nói với trời”, xuất bản tại nhà tác giả : Résidence de Kerampir, 29820 Bohars).
Ông Gio-an không rào trước đón sau, mắng nhiếc thậm tệ những người đến với ông. Chúng ta có thể nghĩ rằng những người đến với ông đều tỏ ra thiện chí. Bởi vì họ đã bước xuống nước sông Gio-đan. Bởi vì họ đã dìm mình xuống dòng sông thanh tẩy. Nhưng không đúng thế.
Nghi thức tự nó không đủ. Chính con tim và cách sống mới quan trọng. Và khi Thiên Chúa đến thì sẽ là phép rửa bằng lửa : một ngọn lửa tinh luyện và đúc rèn. Một ngọn lửa thiêu đốt thế giới. Một ngọn lửa cháy lên vinh quang huy hoàng.
Chúng ta thấy đó : không phải là vấn đề giả vờ. Với Thiên Chúa, chúng ta không thể gian lận. Và nhất là, nếu chúng ta để Thiên Chúa hành động, thì Người sẽ cho thực hiện các phép lạ. Các bạn sẽ sản xuất ra nhiều hoa trái một cách dồi dào phong phú, các kho lẫm trên trời sẽ đầy tràn chan chứa.
Nhưng trước tiên, các bạn hãy ăn năn trở lại ! Hãy từ bỏ sự tự mãn ! Hãy để Thiên Chúa tràn ngập các bạn và đốt lửa lên trong lòng các bạn !
Các bạn hãy thành thật đi ! Đừng tìm cách đánh lừa Thiên Chúa. Hãy từ bỏ sự bảo đảm dựa trên các tập quán để mở rộng con tim các bạn đón nhận những cái mới căn bản của Nước Trời !
