Cha Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH (1912 – 1971)
Cha chính Hà Nội, tấm gương can trường
Cha Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh chào đời ngày 2 tháng 10
năm 1912 tại làng Ngọc Lũ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam.
Cậu Vinh, một thiếu niên vui vẻ, thông minh, có năng khiếu
nghệ thuật bẩm sinh về âm nhạc, ca hát. Cậu biết kính trên, nhường dưới, trong
xứ đạo, ai cũng quý yêu. Cha xứ Ngọc Lũ thời đó là Cố Hương, một cha người Pháp
tên là Dépaulis giới thiệu cậu lên học tại trường Puginier Hà Nội. Năm 1928,
cậu học Tiểu Chủng viện Hoàng Nguyên, Phú Xuyên, Hà Tây.
Năm 1930, thầy Vinh được cố Hương dẫn sang Pháp du học. Năm
1935, thầy vào Đại Chủng viện St Sulpice, Paris. Ngày 20-6-1940, thầy được thụ
phong linh mục ở
Chiến tranh thế giới xảy ra, cha Vinh phải ở lại Pháp và
tiếp tục học tập. Ngài học Văn Khoa-Triết tại Đại Học Sorbonne, học sáng tác và
hòa âm tại Nhạc viện Quốc Gia. Ngài phải vừa học vừa làm. Vóc dáng nhỏ nhắn dễ
thương của ngài đã làm cho nhiều người Pháp tưởng lầm ngài là phụ nữ nên cứ
chào: Bonjour Madame! Nhưng ẩn trong
cái dáng vóc nhỏ bé; đó là một tâm hồn rộng lớn, sau đôi mắt sáng là tính cương
trực, dưới nụ cười là ý chí sắt son.
Sau khi tốt nghiệp cử nhân Văn Triết ở Sorbonne, ngài gia
nhập dòng khổ tu Biển Đức tại Đan Viện Ste Marie.
Sau 17 năm du học, năm 1947 cha Vinh về nước, nhằm góp sức
xây dựng một Giáo Hội Công Giáo Việt Nam vững mạnh về mọi mặt. Khi ấy, Đức cha François Chaize - Thịnh, Bề trên Giáo
phận đã bổ nhiệm ngài làm cha xứ Nhà Thờ Lớn Hà Nội. Ngài xin Bề trên lập dòng
Biển Đức ở Việt
Cha Vinh, dù tu học ở Pháp nhưng luôn có tinh thần yêu
nước, độc lập, không nệ Pháp. Năm 1951, Nhà Thờ Lớn Hà Nội tổ chức lễ an táng
cho Bernard, con trai tướng De Lattre de Tassigni. Trong thánh lễ, tướng De
Lattre kiêu căng đòi đặt ghế của ông trên cung thánh và bắt chuyển ghế của Trần
Văn Hữu, Thủ tướng Việt
Năm 1954, Đức cha Trịnh Như Khuê cho phép cha Vinh và cha
Nhân đưa chủng sinh đi Nam, nhưng cả hai đều xin ở lại sống chết với giáo phận
Hà Nội, dù biết hoàn cảnh đầy khó khăn, nguy hiểm. Đức Cha Khuê bổ nhiệm ngài
làm Cha Chính, kiêm Hiệu Trưởng trường Dũng Lạc.
Ngài tổ chức lớp học giáo lý cho các giới, có những linh
mục trẻ thông minh, đạo đức cộng tác, như cha Nguyễn Ngọc Oánh, cha Nguyễn Minh
Thông, cha Phạm Hân Quynh. Lúc đầu, lớp học được tổ chức thành nhóm nhỏ tại
phòng khách Tòa Giám Mục, về sau, con số người tham dự tăng dần, lớp học được
chuyển tới nhà préau, và ngồi ra cả
ngoài sân. Lớp học hiệu quả rất lớn, những tín hữu khô khan thành đạo đức nhiệt
thành, ảnh hưởng lan tới cả giới sinh viên và giáo sư đại học, nhiều người gia
nhập đạo. Sau chính quyền ra lệnh ngừng hoạt động vì lý do an ninh.
Khi cha Vinh đang làm Hiệu Trưởng Dũng Lạc, Chính phủ ra
chỉ thị phải treo ảnh lãnh tụ thay vào ảnh Thánh Giá ở các lớp học. Ngài không
tuyên đọc chỉ thị cũng không tháo bỏ Thánh giá, nên năm 1957, trường bị đóng
cửa.
Thời bấy giờ, Đại học Y khoa Hà Nội thiếu giáo sư, nên đã
đề nghị Đức Cha Khuê cử cha Vinh đến trường dạy La tinh. Nhiều sinh viên cảm
phục ngài. Một hôm, Chu Ân Lai, thủ tướng Trung Quốc đến thăm trường, thấy bóng
dáng chiếc áo chùng thâm linh mục, ông nói với đoàn tháp tùng: “Đến giờ này mà
còn có linh mục dạy ở Đại Học quốc gia ư?”. Ít lâu sau trường Đại học Y khoa
không mời cha dạy nữa.
Biết tài năng và kiến thức âm nhạc của ngài, nhiều nhạc sĩ
ở Hà Nội tìm cha Vinh tham khảo ý kiến và nhờ xem lại những bản nhạc, bài ca họ
mới viết.
Cha Vinh, một trong những nhạc sĩ tiên phong của Thánh nhạc
Việt
Cộng tác với Hùng Lân sáng tác ‘Tôn Giáo Nhạc Kịch Đa-Vít’.
Ngài còn sáng tác nhiều nhạc phẩm lớn: ‘Mở Đường Phúc Thật’, ‘Tôn Vinh Thiên Chúa Ba Ngôi’, ‘Ôi GiaVi’, ‘Lạy
Mừng Thánh Tử Đạo’. Ngài phổ nhạc cho các Ca Vịnh 8 , Ca vịnh 16, Ca vịnh
23, Ca vịnh 41, Ca vịnh 115 và nhiều bài hát khác như Đức Mẹ Vô Nhiễm, Thánh
Tâm Giêsu. Ngài còn viết những bài ca sinh hoạt: Sao Mai, Đời Người, phổ nhạc
bài ‘Bước Tới Đèo Ngang’ của Bà Huyện
Thanh Quan.
Hằng tuần ngài đến dạy nhạc, xướng âm và tập hát bên chủng
viện Gioan. Cha Vinh có giọng nam cao, âm hưởng thanh thoát, lôi cuốn.
Ngài tổ chức và chỉ huy đồng ca trong nhiều cuộc lễ và rước
kiệu lớn như cuộc Cung Nghinh Thánh Thể từ Hàm Long về Nhà ThờLớn Hà Nội.
Năm 1957, Nhà nước muốn tỏ cho dân chúng trong nước và thế
giới thấy là ở Việt
Cha Căn, cha Vinh cùng một số giáo dân bị cơ quan an ninh thẩm
vấn, đem ra xét xử. Tòa án nhân dân Hà Nội tuyên án: Cha Trịnh Văn Căn, Chính
xứ Nhà Thờ Lớn, người chịu trách nhiệm tổ chức lễ Noel năm 1958 chịu án 12
tháng tù treo. Cha Chính Nguyễn Văn Vinh chịu án 18 tháng tù giam, với tội
danh: “Vô cớ tập hợp quần chúng trái phép, phá rối trị an, cố tình vu khống,
xuyên tạc chế độ, gây chia rẽ trong nhân dân” (!).
Sau phiên tòa, cha Vinh bị đưa đi giam ở Hỏa Lò, sau bị
chuyển đi nhiều trại giam khác như Chợ Ngọc, Yên Bái, cuối cùng là trại “Cổng
Trời”, nơi dành riêng cho các tù nhân tử tội.
Khi cha Vinh mới đến trại Yên Bái, ngài còn được ở chung
với các tù nhân khác, nhiều giáo dân, chủng sinh, tu sĩ đến xin cha giải tội,
vì thế ngài bị kỷ luật, phải biệt giam, bị cùm chân trong xà lim tối. Mấy tháng
sau được ra, ngài lại ban phép giải tội. Cán bộ hỏi: “Tại sao bị cùm, bị kỷ
luật, được ra, anh tiếp tục phạm quy?” Ngài đáp: “Cấm là việc của các ông, giải
tội là việc của tôi, còn sống ngày nào, tôi phải làm bổn phận mình!”.
Ở tù đói rét là đương nhiên, lúc nào cũng đói, hằng ngày
mỗi bữa một bát sắn độn cơm, ăn với lá bắp cải già nấu muối, khi chia cơm phải
cân đong từng chút một... Một lần cha Vinh nhận được gói bưu kiện do cha Cương,
quản lý Nhà Chung Hà Nội, gửi lên, trong đó có ít thức ăn, lương khô và vài đồ
dùng cá nhân, ngài đem chia sẻ cho anh em trong nhóm, cả Công giáo lẫn lương
dân, ăn chung, dùng chung. Anh em tù hình sự thân thương gọi ngài là ‘bố’.
Ngay trong nhà tù, cha Vinh vẫn can đảm bảo vệ người bị áp
bức, có lần một tổ trưởng đánh đập tù nhân, ngài lên tiếng bênh vực, liền bị
người tổ trưởng này xông đến giang tay đánh, ngài đưa tay gạt, anh ta ngã khụy.
Từ đó trong trại có tiếng đồn cha Vinh giỏi võ, mọi người phải nể vì.
Một cán bộ cao cấp ở Hà Nội lên Cổng Trời gặp cha Vinh,
nói: “Đảng và Chính phủ muốn anh được tha về, nhưng với điều kiện phải cộng tác
với linh mục Nguyễn Thế Vịnh (Chủ tịch Ủy Ban Liên Lạc Công Giáo). Nếu anh đồng
ý, anh có thể về Hà Nội ngay bây giờ với tôi”. Ngài khẳng khái đáp: “Ông Vịnh
có đường lối của ông Vịnh. Tôi có đường lối của tôi”.
Vì không khuất phục được ngài, nên bản án của ngài từ 18
tháng tù giam, không qua một thủ tục pháp lý án lệnh nào, đã biến thành 12 năm
tù kiên giam, xà lim biệt giam và án tử. Năm 1971, khi ngài từ trần không ai
được biết, một năm sau, chính quyền mới báo cho Đức Cha Khuê và cha Cương quản
lý Nhà Chung: “Ông Vinh đã chết. Không được làm lễ áo đỏ cho ông Vinh!”.
Suốt đời mình, trong mọi tình huống cha Chính Vinh làm trọn
trách vụ của mình. Ngài đã mạnh mẽ rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho đức tin,
khi thuận tiện cũng như khó khăn. Vượt mọi thử thách gian khó, không chịu khuất
phục trước cường quyền, luôn trung kiên với Thiên Chúa và Giáo Hội.
Cha Chính Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh là một chứng nhân của
thời đại, một linh mục Công Giáo Việt