CHA
AUGUSTE MACÉ SĨ (1844-1885)
Chuyển ngữ : Phêrô
Võ Sum
“Không gì đem lại sự
tin cậy và thanh thản bằng biết mình đang ở chỗ mà Thiên Chúa muốn.” Auguste Macé
WGPQN (28.12.2020) - Đầu
óc linh hoạt, trí tuệ rất cởi mở, không lay chuyển trong các ý tưởng của mình,
một lòng đạo đức nồng cháy và suy lý, Cha Macé là hậu duệ xứng đáng của những
người nông dân xứ Vendée, hào hiệp đến hy sinh, đôi khi thẳng thắn đến thô bạo,
những con người bổn phận, đặt bổn phận lên trên hết, bởi vì bổn phận là mệnh lệnh
của Thiên Chúa.
I
Ngài
sinh ở Bazoges-en-Paillers, ngày 19 tháng 6 năm 1844, và đã học tại tiểu chủng
viện Chavagnes. Chính nơi đây Thiên Chúa đã tỏ cho ngài định mệnh mà Người kêu
gọi ngài hướng đến, và nếu có một sự gì gây ấn tượng mạnh trong đời sống của
ngài thì chắc chắn đó là tính kiên trì để đạt được mục đích, một mục đích sớm bộc
lộ nhưng đạt được cách chậm chạp.
“Từ mười một hoặc mười
hai năm nay, ngay lúc con ở Chavagnes, tiếng từ Trời đã gọi con đến với ơn gọi
cao quý này. Một ngày nọ, ngay sau khi rước lễ, con thấy mình chìm trong một
ánh sáng khó tả và đột nhiên được ân sủng thôi thúc tâm hồn, con đặt tay lên ngực
và thốt ra những lời này: ‘Vâng, lạy Thiên Chúa của con, con sẽ là nhà truyền
giáo!’ Từ lúc đó, thưa cha kính yêu, chưa bao giờ con trải qua một ngày nào mà
lại không nghĩ đến điều phải đến này, hoặc không làm điều gì cho ý hướng này.
Cho đến lúc ấy, sức khoẻ của con đã là một trở ngại không thể vượt qua được. Tất
cả những người con tham khảo ý kiến, các y sĩ hoặc những người khác, đều không
tin rằng con có thể thành công. Còn con, dựa vào sự cứu giúp của Thiên Chúa và
đầy lòng tin cậy Đức Trinh Nữ Maria Vô Nhiễm, con đã không bao giờ do dự một
giây phút nào. Con đã không bao giờ tuyệt vọng ngay cả khi một mình con chống
vũ trụ. Con đã hoãn việc thực hiện dự định; nhưng từ bỏ hẳn nó thì không bao giờ,
chính là vì hình như con cảm thấy rằng hành động như vậy, con sẽ làm đẹp lòng
Thiên Chúa và Đức Thánh Nữ Trinh, những Đấng mà theo con nghĩ chắc chắn sẽ trợ
giúp con. Tin cậy vào các Ngài và can đảm lên! Đó luôn luôn là khẩu hiệu của
con.”
Chính
bằng những lời này, thừa sai Macé đã thuật lại nguồn gốc ơn gọi tông đồ của
mình, khi báo cho cha ngài biết việc mình vào Chủng Viện Hội Truyền Giáo Hải
Ngoại.
Quả
thực, suốt mười một năm, trong nhiều địa vị khác nhau, ngài chỉ có một ước muốn:
là nhà truyền giáo. Trước là ý muốn của bề trên sau là bệnh hoạn đã giữ chân
ngài lại; ngài đã không lo lắng, không buồn phiền, không tuyệt vọng; nhìn lên
trời, không trách móc hiện tại, không sợ tương lai, ngài đã sống trong hy vọng,
hay nói đúng hơn và thật hơn, trong sự chắc chắn thành công. Ngài đã nghiên cứu
ơn gọi của ngài dưới tất cả mọi mặt; sau khi đã học các nguyên tắc nhận biết ơn
gọi, ngài đã áp dụng chúng.
Ngài
viết từ năm 1865: “Trong việc xem xét một
ơn gọi, phải suy nghĩ, với một ý hướng trong sạch và ngay thẳng, cầu nguyện nhiều,
nói chuyện với Đức Thánh Nữ Trinh, sẵn sàng thực hiện ý muốn của Thiên Chúa dù
là ý nào đi nữa, lượng xét những ý hướng của mình, các phương tiện và sức lực của
mình, đặt mình theo quan điểm vì vinh quang của Thiên Chúa, sự chết và vĩnh cửu,
cuối cùng cầu viện đến một vị hướng dẫn có kinh nghiệm và hoàn toàn tuân theo ý
kiến của ngài. Mỗi bậc sống đều có những thế lợi và những vất vả của nó; bất cứ
ở đâu người ta cũng đều thoải mái khi ở đó vì vâng theo ý muốn của Thiên Chúa.”
“Tôi muốn làm nhà truyền
giáo. Chắc chắn đó là một dự định rất nghiêm trọng và không thể được suy đi
nghĩ lại quá lâu. Đây không phải là trò chơi con trẻ khi dứt khoát với thời
niên thiếu, cắt đứt hàng nghìn mối quan hệ gia đình, tổ quốc, từ khước mọi niềm
vui, mọi hạnh phúc trần thế, tự nguyện đày đọa mình cho đến chết khi phải chịu
những thiếu thốn liên tục, những đau khổ triền miên. Đối với tôi, cho dù niềm
hy vọng và giấc mộng tương lai là gì đi nữa, hẳn là tôi cũng không muốn dấn
mình vào một sự nghiệp mà không thật chắc chắn về ơn gọi của mình.”
Vả
lại, không thoả mãn với việc thăm dò tâm hồn, ngài tìm kiếm trong các tình huống
bên ngoài dấu hiệu của ý muốn Thiên Chúa; không gì phải vội vã, ngài nhẫn nại bởi
vì ngài mạnh mẽ, và ngài mạnh mẽ bởi vì được soi sáng và được đức tin hướng dẫn.
Khi
được bổ nhiệm làm giáo sư toán, và sau đó làm giám luật ở Tiểu Chủng Viện
Sables d’Olonne, ngài không xúc động chút nào; ngài viết cho chị mình, người được
tin cậy để chia sẻ những
niềm vui và nỗi buồn: “Em tin chắc rằng
chức vụ mới đã được giao cho em là do sự sắp đặt hiển nhiên của Thiên Chúa Quan
Phòng, do đó, khi làm việc gì thì em làm mà không quá lo lắng. Không gì đem lại
sự tin cậy và thanh thản khi biết mình đang ở chỗ mà Thiên Chúa muốn. Không phải
là em quên Hội Truyền Giáo Hải Ngoại, nhưng hiện nay em chỉ thấy nó ở một nơi
xa bất định, và em bình tĩnh chờ đợi thời cơ thuận tiện xuất hiện, dù sớm hơn
hay muộn hơn. Các chức vụ của em là thật khó khăn, em biết, nhưng em không thể
nào tránh né chúng và bây giờ em phải ra sức làm cho trọn. Dù xảy ra thế nào
cũng được. Nói về việc đầu hàng cái mà em tin là một bổn phận thì em thà để cho
mình bị xẻ ra làm tư hơn là chịu thua, và dầu là người lớn hay trẻ em thì đều
phải bước đi, và nhanh nhẹn.”
“Phải bước đi và nhanh
nhẹn”, ngài nói điều đó và
đúng như vậy; ở Sables, người ta không quên người giám luật trẻ mà bàn tay sắt
không phải lúc nào cũng bọc nhung này. Chính vì thế, như chính ngài đã nói rằng
“với lòng khát khao cứng nhắc và kiên quyết
để đạt điều thiện và vì điều thiện”, ngài chạm trán với những trở ngại bằng
một sự mạnh mẽ có lẽ là thiếu sự mềm dẻo; trong linh hồn ưu tú này, người ta đã
muốn một điều gì đó dịu dàng một chút để làm hài hoà tính cứng nhắc.
Một
công đôi việc; trong vài năm, ngài đã học năm ngôn ngữ: Anh, Đức, Tây Ban Nha,
Ý và Nga. – Ngài nói mình không biết được sai đi đến đâu nên đã chuẩn bị mọi sự.
Công
việc và những giấc mơ đã không ngăn cản ngài nhìn xem thế giới tiến hành như thế
nào, hoặc đúng hơn là Giáo Hội Công Giáo,
“Mẹ thánh, vĩ đại và dịu dàng này” như ngài gọi. Ngài viết vào năm 1870 rằng: “Định tín về ơn Bất Khả Ngộ khiến tôi hết sức
quan tâm đến nỗi tôi tự nguyện giữ lại bệnh viêm thanh quản của tôi trong vòng
mười năm, nếu điều đó là cần thiết để tín điều này được công nhận”. Vào thời
kỳ này, những cơn đau của ngài đã trở nên trầm trọng, nhưng ngài đã không lo lắng
hay lo sợ hơn về chúng.
Sự
bình tĩnh không thể lay chuyển, sự thanh thản và niềm vui tâm hồn mà thừa sai
Macé mang đi khắp nơi, chính ngài sắp nói cho chúng ta biết nguồn cơn của
chúng.
“Có bao giờ ta cô độc
hoặc đau khổ khi gắn kết với một mình Thiên Chúa không? Không phải ta gặp thấy
Người khắp nơi, luôn luôn, lúc nào cũng đáng yêu đáng mến như vậy sao? Sự buồn
phiền là những niềm vui khi ta trút chúng vào trong trái tim của Người, và ta
chịu đựng chúng vì tình yêu đối với Người. Không có gì buồn hơn là sự buồn phiền.
Điều đó không dẫn đến cái gì tốt đẹp cả. Ngược lại, một niềm vui dịu dàng, một
sự vui vẻ dễ thương với tất cả mọi người, trong tất cả mọi tình trạng của tâm hồn,
làm nên một sự thiện vô biên. Chúng ta hãy yêu mến Thiên Chúa hết sức, và hãy
vui vẻ làm theo ý muốn của Người trong mọi sự”. Rồi sự tín thác vào Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm
nâng đỡ ngài, và tận đáy lòng, ngài dâng lên Người kinh nguyện này: “Ôi, Lạy Mẹ Maria! Con ở đâu, nếu không có
Mẹ? Mỗi bước chân cuộc đời con, con đều gặp lại Mẹ, ôi người bạn, ôi người mẹ,
ôi thiên thần hộ thủ dịu dàng! Bàn tay Mẹ ngọt ngào và mạnh mẽ đẩy con đến một
cái đích nhân hậu. Nếu con bước hụt trên đường, Mẹ đỡ con; nếu con ngã xuống, Mẹ
nâng con dậy, nếu con lạc lối, Mẹ đưa con về. Ôi dịu dàng, ôi dịu ngọt, ôi dịu
hiền, ôi Maria! Mẹ tốt đối với tất cả mọi người, nhưng đối với con cái của Mẹ,
Mẹ là một phép lạ tình yêu!”
Sự
nhẫn nhục kiên cường của ngài là có thật, nó không phải là mặt nạ ngài dùng để
che; ngài đứng vững hứng chịu tất cả mọi sự tấn công và không yếu đi: Spes contra spem (vẫn trông cậy dầu
hết lẽ cậy trông – Rm 4, 18) hình như là khẩu hiệu của ngài.
Một
ngày sau khi các y sĩ tuyên bố là không bao giờ ngài có thể là nhà truyền giáo,
và vị hướng dẫn của ngài xác định điều đó, ngài đã viết: “Nếu tôi chiến đấu ngoan cường hơn bao giờ hết thì đó cũng là vì tôi
chỉ còn có ít hy vọng; dường như ơn gọi và cuộc đời mà tôi đã đánh cược và đã
thua vào ngày hôm ấy. Vả lại, dẫu điều gì xảy ra, tôi cũng sẽ không bao giờ đầu
hàng. Mục đích luôn ở trước mắt, và tôi nỗ lực để đạt đến đó.”
Ngài
đã cố gắng với tất cả nghị lực có thể được; nhưng căn bệnh hình như không muốn
rời bỏ ngài. Uổng công ngài hỏi ý kiến nhiều y sĩ; uổng công ngài đi cầu xin được
lành bệnh mau chóng, trước tiên là ở Lộ Đức, sau đó là ở suối nước Canterets:
trời thì không chịu nghe còn đất thì bất lực trước lời cầu xin của ngài. “Ma quỷ nắm lấy tôi ở cổ họng, và nó giữ chặt.
Uổng công tôi đã khuấy động trời đất, tôi đã không thể thoát khỏi Sables, và
trong tình trạng sức khoẻ hiện tại của tôi thì ra đi là một điều khinh suất. Tôi nhận biết rõ ràng ý muốn của Thiên Chúa trong những
gì xảy đến cho tôi, và không rời bỏ nửa bước những dốc quyết ban đầu, tôi chờ đợi
lúc thuận lợi được tỏ rõ trong các lời khuyên của Thiên Chúa Quan Phòng.”
Cuối
cùng, thời khắc đã đến, và ngài viết cho người chị thân yêu: “Chị đã hiểu, chị thân mến, đây là tương
lai của em. Từ nay ván đã đóng thuyền dứt khoát: không có gì ở thế gian làm cho
em lùi lại dù một bước. Thời gian còn lại em phải trải qua ở đây đã trôi đi
nhanh chóng. Cuối cùng trời cũng đã lên tiếng, những nguyện ước của em được thoả
lòng. Từ bây giờ chị hãy dâng cho các Trái Tim cực thánh Đức Chúa Giêsu và Đức
Maria đứa em thân thương này mà các Ngài xin chị, và hãy cam chịu thánh ý của
các Ngài. Em vừa nói gì thế nhỉ? Cam chịu à! Đúng hơn, chị hãy vui mừng vì các
Ngài đã khấn nhìn đến để làm cho em trở thành nhà truyền giáo và tông đồ của
các Ngài! Đó là một vinh quang lớn cho em và cũng là một vinh quang lớn cho chị.
Bản tính chịu đau khổ, nhưng đức tin hướng mắt lên trời. Sự đau khổ là lớn,
nhưng các phần thưởng trên trời còn lớn hơn nhiều. Trái đất không phải là quê
hương, và muốn định cư lại nơi đây thì không khôn ngoan chút nào. Trên trời, ở
trên trời! Đó là nơi đoàn tụ của chúng ta, nơi an nghỉ của chúng ta. Ở trần thế
này, tất cả đều qua đi, đều già đi và đều chết!”
II
Tháng
9 năm 1874, thừa sai Macé vào Chủng Viện Hội Truyền Giáo Hải Ngoại, và một năm
sau, ngài đến Đông Đàng Trong.
Cuối
cùng, khi chạm đến miền đất rất ước ao này, ngài kêu lên: “Trong ngày này, trên đất này, nơi con đến để vắt hết sức lực và chết,
như từ trên cao một giàn thiêu hoặc một thập giá, con hiến mình cho Chúa, ôi, lạy
Thiên Chúa của con! Qua bàn tay dịu dàng của Đức Vô Nhiễm Nguyên Tội, làm vật
hiến sinh của Chúa, vì phần rỗi của các linh hồn tội nghiệp này, và để cho vinh
quang của Chúa được cả sáng hơn. Con không từ chối làm việc lâu dài, con sẵn
sàng chết. Con dâng trước cho Chúa những việc làm của con, nỗi buồn và đau khổ
của con, những điều nhục nhã của con, sự sống và hơi thở cuối cùng của con. Tất
cả là cho Chúa, nhờ Đức Maria, với Đức Maria, trong Đức Maria, bây giờ và mãi
mãi.”
“Ôi Maria! Mẹ hãy đối xử
với con như một người mẹ đối xử với con mình, nhưng cũng như một nữ hoàng đối xử
với lính của bà.”
Sau
khi đã học tiếng trong một xứ đạo nhỏ gần trường Làng Sông, ngài được gởi vào tỉnh
Phú Yên và phụ trách một hạt có mười ba xứ đạo. Giáo xứ Cây Da, nơi Cha
Chatelet đã tử đạo, ở trong số này.
Nhà
truyền giáo trẻ bắt đầu làm việc hăng say. Đôi khi ngài rời xa các giáo dân để
đi thăm một trong các bạn đồng hội của mình. Ngài viết cho bà chị:
“Em vừa đi thăm người bạn
láng giềng, thỉnh thoảng em đến đó.”
“Em đã xưng tội và đã kể
lại cho ngài những công việc của em, em đã xin ý kiến ngài về những nỗi khó
khăn của em; sau bốn mươi tám giờ, em đã bắt tay ngài thật chặt và ôm ngài thân
tình, rồi lên ngựa, tạm biệt và hẹn gặp lại. Em thật sung sướng.”
Đời
truyền giáo thật cam go, công việc thì nặng nhọc, cuộc chiến thì khó khăn cho
nên có bên mình một người anh em mà mình có thể cởi mở tâm hồn, thổ lộ những cực
nhọc, những lo âu và những sợ hãi thì đó là một niềm vui thực sự và ấm áp.
Các
tu hội hiến thân làm việc tông đồ không phải là không biết điều đó, đặc biệt là
Hội Truyền Giáo Hải Ngoại; sự tồn tại hai trăm hai mươi lăm năm không phải là
đã cho Hội có kinh nghiệm về tất cả những khó khăn và những nhu cầu của đời sống
tông đồ sao? Bởi đó, quy luật của Hội buộc các giám mục phải “phân bổ các nhà truyền giáo thế nào để họ
không bị cô lập quá đáng”. Vì thế, sự cô lập này không bao giờ là tuyệt đối,
nhưng than ôi, trừ những lúc mà các cuộc bách hại thường xuyên xảy ra!
Nhưng
sử liệu về các tử đạo và những lá thư của các chứng nhân đức tin đã nói lên khá
rõ rằng chính khi bị bách hại là những lúc mà ân sủng trở nên mạnh mẽ, nó thay
thế lời nói của bạn hữu và sự chúc lành của một linh mục.
Vả
lại, quy luật còn đi xa hơn nữa: người ta khuyên nên xếp hai nhà truyền giáo sống
cùng nhau, hoặc ít nhất là một nhà truyền giáo và một linh mục bản xứ; ngày nay
số các nhà truyền giáo đã tăng lên, nên đó là điều được thực hành khắp nơi, ngoại
trừ có lẽ là trong vài xứ truyền giáo mà giáo dân phân tán rộng nên không cho
phép làm điều đó.
Thực
sự, khi xếp hai linh mục ở chung với nhau thì có thể nhờ đó mà giảm đi một nửa
số trung tâm hoạt động, nhưng trong vài trường hợp, điều này khiến phần lớn
giáo dân sống rải rác trên một diện tích rộng 50.000, 60.000 hoặc 80.000 cây số
vuông không thể tham dự thường xuyên hy lễ thánh hoặc siêng năng lãnh nhận các
bí tích; điều đó hạn chế những cuộc thăm viếng trong mỗi hạt, để lại nhiều khó
khăn đang bỏ ngỏ, nhiều
cuộc trở lại bị gián đoạn; tóm lại, nó làm suy yếu đời sống Kitô hữu về nhiều mặt
mà cũng không làm mạnh mẽ hơn về nhiều mặt khác.
Để
phòng ngừa những điều bất lợi này, người ta chỉ đặt một linh mục duy nhất trong
mỗi nhiệm sở; nhưng đồng thời, để cho ngài có phương tiện giữ gìn sự sốt sắng cần
thiết, quy luật định rằng cứ mười lăm ngày, ngài phải xưng tội một lần, và
trong những trường hợp rất hiếm, ngài không được qua một tháng mà không làm
tròn bổn phận này.
III
Sau
năm tháng làm việc, Cha Macé đã điều hành đến mười giáo xứ trống chỗ.
Ngài
viết: “Người ta nói rằng tôi đã quá vội
và làm quá nhiều việc cùng một lúc. Tôi chỉ có một hối tiếc là đã không làm nhiều
hơn nữa, và nếu có khi nào tôi có dịp tái xuất trên vũ đài, tôi sẽ cố gắng bù lại
những tháng nghỉ ngơi quá dài đã áp đặt cho tôi”.
Theo
lệnh giám mục, nhà truyền giáo trẻ quả thực đã phải đi đến Nhà điều dưỡng được
Hội Truyền Giáo Hải Ngoại thiết lập ở Hồng Kông.
Năm
1843, Hồng Kông chỉ là một hoang đảo. Sau cuộc chiến đầu tiên chống lại Trung
Quốc, người Anh đã chiếm được nó, một thành phố được xây dựng lên ngay lập tức:
các chi nhánh thương mại, ngân hàng, nhà thờ, dinh thự mọc lên nhanh chóng; đồi
và núi đá khô cằn và trơ trụi cho đến lúc bấy giờ, đã nhanh chóng phủ đầy những
bãi cây nhỏ, vườn tược, vườn cây ăn quả bao quanh các ngôi biệt thự xinh xắn; hải
cảng cách đây không lâu là hang ổ thực sự của bọn cướp đã trở thành nơi tụ họp
tất cả các tàu thuyền của thế giới.
Hội
Truyền Giáo Hải Ngoại đã không lần lữa chuyển sang Hồng Kông trụ sở quản lý mà
Hội đã có ở Ma Cao; sau đó, Hội đã thành lập tại đây một Nhà điều dưỡng cho các
thừa sai đau bệnh. Chính trong nhà này, được sự ân cần chăm sóc sáng suốt của một
vị bề trên lúc nào cũng tận tâm, Cha Macé đã sống gần một năm.
Khi
trở lại xứ truyền giáo, ngài được bổ nhiệm làm giáo sư tu từ học và quản lý nhà
trường Nước Nhỉ.
“Thật khó khăn biết bao khi phải làm một
bài tập mẫu về Cicéron bằng tiếng Annam… Nhưng, với ân sủng của Thiên Chúa, người
ta sẽ làm điều gì đó về tu từ học, địa lý, lịch sử, v.v.”
Năm
1880, ngài bị lây bệnh đậu mùa từ chiếc gối đầu giường của một bệnh nhân; ngài
tin là mình sắp chết. Đấng Quan Phòng đã cứu chữa để dành lại cho ngài một cái
chết vinh quang hơn. Sau đó ngài viết cho bà chị: “Em nghĩ là em sẽ chết vì bệnh đó, Thiên Chúa đã quyết định cách khác,
chúc tụng Người! Sống và chết, điều đó đối với em là như nhau cả. Hy lễ của em
đã sẵn sàng từ lâu, vả lại, da của em không quá đắt giá! Một mình, ở cách gia
đình em bốn ngàn dặm, em nghĩ rất nhiều đến tất cả và từng bà con và bạn bè!
Khi em cảm thấy quá mệt, em lê người đến bàn để viết cho chị một lời từ biệt cuối
cùng, một lời hứa tưởng nhớ luôn mãi. Em đã nhớ đến những lời sau cùng của mẹ
lúc sắp chết: ‘Chết không phải là quá khó’. Bây giờ, kìa, em đã sống lại. Nhưng
em hạnh phúc là đã chịu đau khổ: sự đau khổ, kết hợp với tình yêu, là đồng tiền
người ta mua nước trời.”
Khi
sự thù địch bắt đầu, và sự căm ghét của người Annam hầu như được buông thả tự
do, thì Cha Macé vừa mới được bổ nhiệm làm Bề trên Chủng Viện Nước Nhỉ đã nghĩ
ngay đến sự tử đạo. Ngài nói: “Nếu có lưỡi
dao cùn nào ở đấy để cắt cổ tôi, thì tôi tin là tôi sẽ xắn tay áo lên để giúp
mài nó cho bén.”
Khi
gia đình và bạn bè khiếp sợ vì những nguy hiểm ngài gặp phải, ngài trả lời họ rằng:
“Xin bà con và các bạn đừng lo lắng: tôi
đã đến đây chính xác là để có một cơ may hơn là ở nước Pháp, là được chết vì
Thiên Chúa nhân lành.” Và đến giờ cuối cùng, khi ngài thấy ở xa ánh sáng lờ
mờ của những ngọn đuốc cháy, khi ngài nghe tiếng la hú của những kẻ sát nhân,
ngài không tái mặt, cũng không run rẩy. Mạnh mẽ trong sự chết cũng như sự sống,
ngài viết cho gia đình rất thân yêu những lời từ biệt cuối cùng:
“Từ vài ngày nay, trong
tỉnh lân cận, tất cả đều chìm trong lửa và máu, vô số giáo dân và có lẽ nhiều
Cha đã bị giết, tất cả đều bị cướp và đốt. Ở đây, điều đó cũng xảy ra từ một
ngày rưỡi nay. Rất có thể là người Pháp đã không thể dập tắt cuộc nổi dậy kịp
thời, và chúng tôi phải gánh chịu những bất hạnh cho đến bây giờ và có lẽ còn
lâu hơn nữa. Tình thế vậy là rất nghiêm trọng, và tôi không biết Thiên Chúa
dành cho chúng tôi điều gì. Tôi, cũng như nhiều người khác, đều ở trong tay Người;
xin cho ý Người được thể hiện!
Tôi luôn luôn ước muốn
được chết vì Người, và chính là để có cơ may này mà tôi đã đến Annam; vậy, nếu
điều đó xảy ra, thì ước nguyện của tôi sẽ thành hiện thực.
Trong tất cả các ân sủng
mà lúc nào tôi cũng xin Đức Thánh Nữ Trinh, được chết đi vì Chúa là ân sủng duy
nhất mà Người đã không ban cho tôi: vậy thì, nghìn lời tạ ơn, nếu điều đó xảy
ra.
Trước khi chết, trái
tim tôi bay đến bà con bạn bè để nói với bà con và các bạn rằng tôi đã luôn
luôn yêu mến, và sẽ luôn luôn yêu mến bà con và các bạn.
Tôi hy vọng Thiên Chúa,
lưu tâm đến lòng nhân từ vô biên của Người, và Đức Thánh Nữ Trinh mà tôi hằng
yêu mến, sẽ vui lòng chấp nhận tôi vào thiên đường của các Ngài. Chính ở đó,
tôi hẹn gặp bà con và các bạn. Đừng có ai vắng mặt khi điểm danh; bà con và các
bạn biết đường dẫn đến đó, hãy luôn luôn đi theo nó, hoặc hãy trở về lại đó thật
nhanh và đừng bỏ nó nữa. Từ trên ấy, tôi sẽ cầu cho tất cả bà con và các bạn,
và cho mỗi người.
Nào! Can đảm lên! và đừng
đau buồn. Tôi thanh thản tận đáy lòng, và tôi phó thác hồn xác trong tay Đức
Giêsu và Mẹ Maria. Các Ngài sẽ làm cho tôi trở thành cái các Ngài muốn.
Vĩnh biệt tất cả, bà
con và bạn bè. Tôi xin mỗi người tha thứ cho những thiếu sót của tôi đối với mỗi
người, như tôi thân tình tha thứ cho tất cả những ai đã làm cho tôi đau khổ.
Vĩnh biệt! cha thân
yêu, Jean-Baptiste, Marie, Joséphine! Vĩnh biệt!
Thân ái với mọi người,
Henri MACÉ,
Linh mục thừa sai”
“T.B. – Lạy Thiên Chúa,
xin cho cái chết của con có thể bảo đảm phần rỗi cho từng người thân thuộc của
con trên trần gian này và có ích cho các Kitô hữu, đặc biệt cho những người ngoại
giáo của xứ truyền giáo thân yêu này. Cha, anh, các chị, các cháu gái, các cháu
trai, vĩnh biệt! Con gởi đến tất cả nụ hôn cuối cùng của con trên thập giá.”
IV
Cha
Hamon đã gởi cho chúng tôi vài chi tiết về những lúc sau cùng của người bạn đồng
hội chúng tôi, về sự thất thủ của chủng viện và giáo xứ Nước Nhỉ; chúng tôi xin
tóm tắt ở đây.
Sau
khi nhận lệnh Đức Cha Van Camelbeke bảo phải chạy trốn vào Qui Nhơn cùng với tất
cả các giáo dân của mình, Cha Macé đã chuẩn bị sẵn sàng mọi sự để trốn đi. Ngài
cho giáo dân đi từng đoàn nhỏ để dễ dàng đánh lừa người ngoại giáo hơn. Nhưng vừa
khi bắt đầu ra đi thì người ngoại giáo đã nhận thấy và lập tức bao vây cộng
đoàn giáo dân và chủng viện. Cha Macé lập tức gọi các trưởng làng đến và báo
cho họ ngài sẽ ra đi vào khoảng bốn giờ sáng, và nếu người ngoại giáo mưu toan
chống lại, thì ngài sẽ dùng vũ khí để mở cho mình một lối thoát: cuối cùng,
ngài buộc họ phải chịu trách nhiệm về mọi tổn hại gây ra cho chủng viện. Các
trưởng làng cam đoan về những ý hướng hoà bình của họ và rút lui. Đang đêm, một
cựu chánh tổng đã sai các phái viên mật đi xúi giục người ngoại giáo nổi dậy,
và tập họp họ lại để bao vây chủng viện và chiến đấu hiệu quả trong trường hợp
giáo dân chống trả. Trong trận chiến này, quả thực, điều rất hiếm trong lịch sử
Kitô giáo, các giáo dân đã cố dùng sức mạnh để đẩy lùi sức mạnh. Không nên nhìn
đây là sự mâu thuẫn giữa lối cư xử của các giáo dân ngày nay và lối cư xử của
các Kitô hữu ngày xưa là những người, thay vì chống lại các đao phủ, họ vui vẻ
chấp nhận đổ máu mình ra vì Đức Giêsu Kitô. Sự mâu thuẫn chỉ là vẻ bề ngoài và
xuất phát từ sự khác nhau hoàn toàn của hai tình huống. Các Kitô hữu được thúc
đẩy bởi cùng những tình cảm như các vị tử đạo; nhưng những kẻ tấn công họ không
phải là những đại diện của một thẩm quyền hợp pháp, họ không đến do lệnh của
một chính quyền đã được thiết lập, căn cứ vào một luật pháp hoặc một sắc lệnh;
họ là những bè lũ phản nghịch, không có sự ủy quyền hợp thức, chỉ tìm sự cướp
bóc và giết người. Nếu trước những kẻ tấn công khác, thì vì tôn trọng Xê-da,
các Kitô hữu đã quỳ gối xuống, và không có vũ khí nào khác ngoài sự cầu nguyện
và sự kiên nhẫn, họ chết như cha ông của họ đã chết, như con cái của Giáo Hội
Công Giáo biết cách chết.
Cha
Hamon nói tiếp: “Người ngoại giáo tụ họp
lại một cách hết sức âm thầm đến nỗi ở trong chủng viện người ta không hề nhận
thấy. Sau khi tham dự thánh lễ và một số đông đã rước lễ, giáo dân chuẩn bị ra
đi, thì bỗng dưng họ thấy lửa bốc cháy trên mái của một căn nhà, và lập tức một
tiếng hô rất to vang lên chung quanh vòng rào tre. Cha đáp lại bằng một phát
súng pháo, và với bốn năm súng trường và khẩu đại bác, ngài đã có thể cầm cự cuộc
tấn công của hàng nghìn quân địch từ bốn giờ sáng đến tận một giờ chiều. Lúc bấy
giờ, đạn dược đã cạn, thấy các giáo dân hốt hoảng chạy trốn tứ phía, Cha Macé
trốn vào nhà nguyện trong khi những kẻ thù đi vào tu viện các nữ tu và tàn sát
năm trăm người đang trốn ở đó. Trong vài phút, khi Cha vẫn còn quỳ ở chân bàn
thờ để hiến tế mạng sống mình cho Thiên Chúa, bỗng ngài nghe thấy những kẻ cắt
cổ giết người chất củi vụn, rơm rạ, củi lớn và những bụi gai chung quanh vách
nhà nguyện: nhọc công vô ích, các tường bằng đất không bắt lửa chút nào; nhưng
khói ùa vào qua các kẽ nứt to tướng có nguy cơ làm ngạt thở Cha Macé và người
giúp việc; vị thừa sai lúc bấy giờ ra lệnh cho cậu bé cố trốn đi: ngài tiếp tục
cầu nguyện cho nó.”
“Một giáo dân, ngay từ
đầu, đã trèo lên một cây dừa hơi xa nơi xảy ra những cuộc tàn sát và đốt nhà một
chút, và núp trong tán lá. Cây dừa này đã thoát khỏi lưỡi rìu của những kẻ phá
hoại. Những kẻ này đã chặt tất cả các cây lớn và tàn phá khu vườn cũng như các
đám cây trồng xinh đẹp của Cha Macé, giàu tinh dầu đủ loại và của mọi xứ. Chính
từ trên cao đài quan sát bị bỏ quên này mà anh giáo dân đã chứng kiến tất cả những
cảnh hãi hùng ghê rợn tại chủng viện và tu viện; anh là nhân chứng cái chết của
vị truyền giáo.
Hoặc là Cha đã không thể
chịu đựng được nhục hình kinh khủng tự nguyện, hoặc là, tôi tin hơn, theo sự
tinh tế lương tâm mình, sau khi không nghe thấy điều gì lạ thường trong cuộc chạy
trốn của người giúp việc và tin rằng cậu ấy đã có thể trốn thoát, nên ngài cho
rằng bổn phận của mình là phải thử chạy trốn, ngài đã nhảy qua một cửa sổ.
Nhưng ngài đã bị phát hiện. Một trong những kẻ cắt cổ giết người nhanh chóng
lao tới, và bằng một phát rựa có cán tre dài, anh ta chém lên vai và hạ gục
ngài. Ông cựu chánh tổng cũng chạy đến; từ xa, ông đã kêu lên với tên đao phủ:
Chặt đầu nó đi! Chặt đầu nó đi! Và chính như vậy mà Cha Macé thân yêu, sau khi
đã chịu khổ hình lửa thiêu, cũng đã đổ máu mình vì vinh quang của Thiên Chúa và
phần rỗi các anh em ngài, vì đã từ chối chạy trước khi người giáo dân cuối cùng
ra đi, như ngài đã quả quyết với tôi là ngài sẽ làm như vậy. Hôm đó là Chúa Nhật,
ngày 2 tháng 8, lễ Thánh Anphong-Maria Liguori, chắc là giữa hai và bốn giờ chiều.”
Có
những người mà sự chết đặc biệt giống như sự sống; Cha Macé ở trong số đó. Ngài
chết như ngài đã sống; đứng tại nhiệm sở và trên chiến trường; ngài đạt được điều
đã xin từ lâu và từng ước ao cháy bỏng, điều ngài đã đoán thấy ở giữa những trò
chơi trẻ con và trong những giấc mơ thời thiếu niên của mình: cái chết đổ máu
ra vì Đức Giêsu Kitô; Còn Đức Maria đối xử với ngài “như một người mẹ với con mình, như một nữ hoàng với người lính của
bà”.
(Trích: Lm. Phaolô Nguyễn
Minh Chính chủ biên, Khi xác thân làm của lễ, Tủ sách Nước Mặn, 2017,
tr. 21-36)
Nguồn: gpquinhon.org