CÁC CA ĐOÀN PHỤNG VỤ SAU CÔNG ĐỒNG VATICAN II
Tác giả: LM Anrê Đỗ Xuân Quế, OP
WHĐ (19.07.2023) – Có
nhiều ca đoàn trong các nhà thờ tại Việt Nam. Những ca đoàn này đã góp phần
đáng kể trong công việc thờ phượng Chúa. Nhưng tất cả đã là những ca đoàn phụng
vụ chưa thì tôi chưa dám quyết, mà chỉ muốn đưa ra một mô hình ca đoàn phụng vụ
sau Công Đồng Vatican II trong bài viết dưới đây, dựa theo một số tài liệu
trong tạp chí Maison-Dieu, Célébrer và một bài nhận định của linh mục Nguyễn Hữu
Triết về hiện tình Thánh Nhạc Việt Nam.
Những tạp chí và tài liệu đó càng làm cho tôi thêm xác tín về
sự cần thiết và vai trò của các ca đoàn phụng vụ trong việc tôn vinh và thờ phượng
Thiên Chúa. Vì vậy, tôi xin chia bài này làm hai phần: phần I nói chung về các
ca đoàn, phần II nói về các ca đoàn phụng vụ sau Công Đồng Vatican II ở bên ta
cũng như bên Tây, để đi tới kết luận rằng ca đoàn là một bộ phận cần thiết và đắc
dụng của cộng đoàn, nên cần được chăm sóc và huấn luyện về cả hai phía ca đoàn
cũng như cộng đoàn, đặc biệt nơi những người có trách nhiệm riêng như cha sở và
ca trưởng.
4.
Thế nào là ca đoàn phụng vụ? |
I. NÓI CHUNG VỀ CA ĐOÀN
1. Ca đoàn là gì?
Ca đoàn là một từ mới được sử dụng trong những năm gần đây.
Ngày trước những người hát trong nhà thờ thường được gọi là hội hát hay ban ca
vịnh, gồm toàn nam giới và hoạt động cũng khá hạn chế, nghĩa là chỉ hát lễ và
hát chầu bằng tiếng la tinh.
Trước năm 1945, ngoài các bài hát bằng tiếng la tinh là các
bài hát bằng tiếng Pháp trong cuốn Cantique
de la jeunesse. Một số bài trong cuốn này cũng như một số bài bằng tiếng la
tinh như Veni Creator, Jesus dulcis memoria v.v… được đặt lời
Việt vào để hát. Ngoài ra lại có cả một cuốn sách hát Tây lời Việt đề là Thanh Niên Kinh Nhạc, do ông Nguyễn Đức
Lợi sưu tầm và xuất bản, nhưng không biết xuất bản năm nào[1],
và một cuốn khác do cha già Vượng, giáo phận Hà nội sưu tầm và đặt lời. Thỉnh
thoảng có một số bài do mấy chủng sinh Đại Chủng Viện Liễu Giai-Hà-nội[2] sáng tác như Nguyện xin Mẹ rất từ bi của
thầy Hùng Lân và Ôi thiêng liêng cao
quý vô cùng của thầy Phương Linh trước 1945, nhưng ít được ai biết đến.
Vào tháng 10 năm 1945, nhạc đoàn Lê Bảo Tịnh ra đời và cho phát hành Cung Thánh I. Thánh ca Việt Nam phát khởi
từ đây và lan rộng khắp nơi. Ngoài ra, trong Nam trước đó đã có những bài rất nổi
tiếng như Nửa đêm mừng Chúa ra đời và Nguyện xin Chúa Thánh Thần của linh
mục Phao-lồ Đạt cũng như mấy bài của thầy Mạc Khanh ở Thanh Hóa như Chói lói Con Chúa nơi cửu trùng và Hải tần v.v…
Vậy ca đoàn là gì? Thưa là một tổ hợp thanh niên thiếu nữ
hát lễ trong các nhà thờ ngày Chúa nhật cũng như ngày thường và các ngày lễ cưới,
lễ an táng, chầu Mình Thánh Chúa v.v… hay một hội, một nhóm đồng ca, hát những
bài ca phụng vụ[3].
Từ ca đoàn không có trong tự điển tiếng Việt. Thông thường
hiện nay, người ta hiểu ca đoàn là những người đi hát lễ. Hiểu như vậy không
sai, nhưng chưa đủ. Vì vậy, cần phải nói thêm về vai trò và nhiệm vụ của ca
đoàn nữa.
2. Vai trò của ca đoàn
Ca đoàn có một vai trò và nhiệm vụ cao quý. Điều này chính Đức
Giáo hoàng Phao-lô VI đã nói như sau: “Nếu
đọc kỹ các tài liệu về Thánh Nhạc, người ta sẽ thấy rõ, ngay cả bây giờ, nhiệm
vụ Hội Thánh giao cho Thánh nhạc, những người sáng tác cũng như các nhạc công,
các ca đoàn và những người hát trong nhà thờ thật là cao quý và hệ trọng, như từ
trước đến nay vẫn thế. Khi cử hành phụng vụ, phải liệu phô diễn những hình thức
nghệ thuật sao cho thật hay, thật đẹp, như kèm theo các nghi thức là những cử
điệu khoan thai, đẹp mắt, xứng hợp, trang trọng, cung giọng trong sáng dễ nghe,
dễ đáp; như đi đôi với lời cầu nguyện của Hội Thánh là những bài hát vừa hay vừa
cảm động, lại có sức nâng tâm hồn người nghe lên cùng Thiên Chúa và giúp cầu
nguyện. Âm nhạc tỏa chiếu trên cộng đoàn họp nhau lại nhân danh Chúa Kitô một
thứ ánh sáng rực rỡ như chính gương mặt của Người vậy. Nhờ sức mạnh vô hình của
nghệ thuật, các ca đoàn dễ bay lên vùng ánh sáng rạng ngời của chân lý, tìm gặp
Thiên Chúa là Đấng thanh tẩy và thánh hóa. Như thế, họ có thể giúp cộng đoàn cử
hành mầu nhiệm cứu độ trong những điều kiện thuận lợi khi chính họ thông phần mật
thiết vào các ơn ích của mầu nhiệm đó.
Nhằm mục đích này, những
tài liệu tôi vừa trưng dẫn, nhằm cổ võ các ca đoàn, từ những ca đoàn trong các
đại giáo đường, các nhà thờ chánh tòa, các đan viện nổi tiếng cho tới các ban
hát trong các nhà nguyện, nhà thờ nhỏ, say sưa tập luyện và chuyên cần trau dồi
nghệ thuật. Huấn thị về Thánh nhạc muốn rằng không một buổi cử hành phụng vụ
nào mà không có hát, nên đã yêu cầu trong trường hợp không có ban hát nhỏ, thì
phải có ít là hai hay ba người biết hát và được huấn luyện vừa đủ, để có thể
giúp giáo dân tham dự thánh lễ và các nghi thức bằng những bài hát đơn sơ dễ
hát, lại biết điều khiển và làm điểm tựa cho họ dựa vào để hát”[4].
Qua những lời lẽ trên, Hội Thánh tỏ ra săn sóc đặc biệt đến
các ca đoàn, kêu mời họ đạo và cha sở lưu tâm đến ca đoàn. Lý do của sự quan
tâm này là vì các ca đoàn góp phần vào việc tôn vinh thờ phượng Chúa, một nhiệm
vụ hàng đầu của Hội Thánh.
Đó là bản chất và lý hữu của ca đoàn. Bây giờ xin nói đến
nhiệm vụ của ca đoàn.
3. Nhiệm vụ của ca đoàn
Ca đoàn có nhiệm vụ yểm trợ và làm nền cho cộng đoàn hát,
hay hát đối đáp với cộng đoàn, và đảm nhận những phần hát khó và đòi hỏi hơn.
Riêng đối với bản thân, mỗi ca viên có bổn phận phải lo cho mình được huấn luyện
về đường thiêng liêng, tìm cách để được hiểu Kinh Thánh, Phụng Vụ và các tài liệu
Thánh Nhạc. Ngoài ra là tuân hành nội qui và nhịp độ sinh hoạt của ca đoàn, vì
vào ca đoàn là làm một công tác thuộc đức thờ phượng, và ở trong ca đoàn là làm
một tông đồ nhằm phổ biến vẻ đẹp của nghệ thuật cả về nội dung lẫn hình thức,
qua lời ca tiếng hát để tôn vinh Thiên Chúa và thánh hóa các tín hữu. Đây là lý
tưởng cần phải nhắm tới, còn thực tế thì phải nói là khó, vì vấn đề không được
các vị hữu trách lưu tâm đến bao nhiêu, cứ để cho ca đoàn và ca trưởng tự do xử
lý, dù đã có những thông cáo hướng dẫn[5].
Năm 1987, Ban Thánh Nhạc Giáo Phận Thành Phố đã ra các tập
in ronéo về Mùa Vọng, Mùa Chay, Tam Nhật Vượt Qua, nhưng không lấy gì làm phấn
khởi, vì các linh mục quản xứ không lưu tâm, giới trẻ không thích nhạc phụng vụ.
Sở dĩ như vậy vì phần đông không hiểu Thánh nhạc là nhạc dùng trong nhà thờ để tôn
vinh Thiên Chúa và thánh hóa tín hữu, nên có qui luật riêng về nghệ thuật là phải
hay, phải thánh thiện và mang tính phổ quát, nghĩa là ở đâu và thời nào cũng
hay.
Vì vậy, muốn giúp ca đoàn thi hành nhiệm vụ này, các vị hữu
trách nên nhắc cho ca trưởng và ca đoàn luật hát xướng của Hội Thánh trong
nhà thờ, kiểm tra bài hát về nội dung và nhạc điệu, chỉ cho cách chọn bài hát,
nhấn mạnh đến tính cầu nguyện, cổ vũ và cho người đi học các lớp thánh nhạc và
đệm đàn.
4. Thế nào là ca đoàn phụng vụ?
Ca đoàn phụng vụ là ca đoàn chuyên lo ca hát ở nhà thờ theo
qui luật của Thánh nhạc cũng như các chỉ dẫn và đòi hỏi của Phụng vụ. Là phụng
vụ, khi ca đoàn hát các bài ca phù hợp với từng phần trong thánh lễ, theo từng
thể loại như đáp ca, đối ca, tung hô, ca vịnh, cung đọc, ca khúc, nghĩa là từ vị
trí, thể loại cho đến nội dung lời ca, tất cả đều nằm trong mục đích tôn vinh
Thiên Chúa và thánh hóa các tín hữu. Những ca đoàn như thế này tương đối còn ít
ở nước ta, vì những lý do như nói ở trên, lại gặp hoàn cảnh không thuận lợi,
không có phương tiện, không sẵn người chuyên môn, tuy có nhiều ca đoàn hát hay
nhưng chưa phải là phụng vụ. Có chăng thì mới chỉ có Ban Hợp Xướng Pio X từ 17
năm nay đã luôn theo sát các qui luật của Thánh nhạc mà hát theo phụng vụ, đúng
như các phần đoạn trong thánh lễ cũng như hình thức, thể loại và lời ca lấy từ
các bản văn phụng vụ và Kinh Thánh. Còn bên Âu Mỹ, người ta có nhiều chuyên
viên, lại sẵn phương tiện và truyền thống lâu đời nên thấy khác. Hơn nữa, kỷ luật
về Thánh nhạc nơi họ được áp dụng và tuân hành chặt chẽ hơn. Các thứ loại nhạc
mới phát xuất từ nơi họ, nhưng họ phân biệt rất rõ nhạc ngoài đời với nhạc
trong nhà thờ. Trong nhà thờ, người ta không hát và đệm đàn như trong các nhà
thờ Việt Nam. Nói đúng ra là người ta hiểu và thi hành kỷ luật một cách nghiêm
túc. Có lẽ vì vậy mà những người xuất thân từ các học viện thánh nhạc như Viện
thánh nhạc Rôma, bài hát họ làm ra không phải kiểm duyệt, vì họ đã kiểm duyệt
trước theo những điều đã được học biết và cũng vì lương tâm nghề nghiệp và tinh
thần tự trọng nữa.
Nói gọn lại, có thể căn cứ vào những tiêu chuẩn sau đây để
xác nhận một ca đoàn là phụng vụ:
(1) Ca tụng tôn vinh Chúa: Ca đoàn ấy theo đuổi mục đích chính là
ca tụng tôn vinh Chúa và thánh hóa các tín hữu.
(2) Phân biệt nhạc đạo với nhạc đời: Ca đoàn ấy phân biệt rõ nhạc đạo
với nhạc đời. Nhạc nào là đời thì chơi ở ngoài đời, nhạc nào là đạo mới đem vào
nhà thờ.
(3) Cầu nguyện thật sự: Ca đoàn ấy cầu nguyện và giúp cầu nguyện thật
sự, trong khi hát và giúp người ta cầu nguyện, bằng những bài hát mà tâm tình
và ý tưởng phát xuất từ những bản văn Kinh Thánh và Phụng vụ, lại được thể hiện
với một cung cách đưa tâm hồn người nghe, người hát lên cao và mang đến cho tâm
hồn họ, những tâm tình sốt mến, nghĩa là nghe hát và hát xong, người ta thấy có
một cái gì đó và cũng còn để lại một cái gì đó.
(4) Không theo lối đời: Lối đời là hát để được tiếng cho cá nhân
cũng như đoàn thể. Ca đoàn ấy hát không phải để đề cao cá nhân như ca sĩ hay tự
đề cao mình như ca đoàn vượt trội. Ở đây không có cơ hội cho cá nhân trở thành
ngôi sao và không biến người lĩnh xướng thành ca sĩ như ở phòng trà, các tụ điểm
ca nhạc hay trên màn hình.
(5) Thi hành đúng phần việc: Khi hát, điều khiển ca đoàn hay chơi
nhạc cụ, ai cũng chỉ thi hành công việc cần thiết và không ai chơi trội để lấy
tiếng cho mình.
II. CÁC CA ĐOÀN PHỤNG VỤ SAU CÔNG ĐỒNG VATICAN II
1. Ban Hát Nhà Thờ Chánh Tòa Đức Bà Paris[6]
Tôi nói mà không dám giới thiệu, vì giới thiệu thì phải biết
rõ, đàng này tôi mới dự có một buổi Kinh Chiều vào đầu tháng 2, năm 1993. Bởi vậy,
tôi chỉ nói những điều mắt thấy tai nghe.
Tôi thấy có vài chục ca viên gồm người lớn, thanh niên, thiếu
nữ, nhi đồng mặc đồng phục màu xanh đậm. Họ đứng hai bên các hàng ghế được dành
cho các kinh sĩ hay tu sĩ hát kinh phụng vụ[7].
Mỗi khi hát thì ca trưởng ra đứng ở giữa đánh nhịp cho họ. Người đánh nhịp hôm
đó là một thiếu nữ. Cô đánh nhịp không đẹp và không có gì hấp dẫn bằng phần
đông các cô đánh nhịp trong các ca đoàn của chúng ta. Tôi chỉ thấy nhịp của cô
làm cho người ta hát được, hát đều và hát đúng cũng như mấy cô đầm đánh nhịp ở
nhà thờ Mai Khôi cho người Pháp vào các lễ Chúa Nhật lúc 10g30 sáng. Ca đoàn
hát đối đáp với cộng đoàn, mỗi bên chu toàn đúng phần việc của mình. Các bài
hát được in sẵn và để tại chỗ người tham dự. Chiều nào người ta cũng hát như thế
tùy theo bậc lễ. Những người hát trong ban này là những thành phần chuyên nghiệp
được huấn luyện và được trả lương. Tuy vậy, họ không hát như những người hát
thuê mà hát như những người có trách nhiệm. Tiền lương họ nhận được là mối dây
buộc họ phải làm cho chu đáo. Đó là điều công bằng về cả hai phía. Kể cũng đáng
đối với một nhà thờ như nhà thờ Đức Bà Paris, nơi có nhiều du khách đến thăm viếng
và tham dự các giờ kinh mỗi ngày.
2. Ca Đoàn Nhà Thờ Chánh Tòa Thánh
Phao-lô ở Lyon[8]
a. Vài dòng lịch sử
Nguồn gốc Ban Hát của nhà thờ này có từ rất lâu đời. Năm 800,
Đức cha Leitrade mở một trường dạy hát ở gần nhà thờ Chánh Tòa, theo lời yêu cầu
của bạn ngài là hoàng đế Charlemagne. Trường này tồn tại mãi cho đến thế kỷ
XVIII. Hiện nay còn ngôi nhà rất đẹp tên là Mécanterie, nơi lưu trú của
các em ca viên thời xưa. Cuộc Cách Mạng năm 1789 làm cho mọi sinh hoạt của trường
bị gián đoạn lần đầu tiên. Nhờ sự kiên trì của Đức cha de Bonald trường mau
chóng phục hồi các sinh hoạt vào giữa thế kỷ XIX. Ban hát bấy giờ trở thành tổ
chức âm nhạc đầu tiên của thành phố. Cuộc gián đoạn thứ hai xảy ra vào năm
1969, khi tiểu chủng viện, nơi tuyển mộ các ca viên nhỏ bị đóng cửa.
Đến năm 1974, theo lời khuyên sáng suốt của linh mục Marcel
Godard, quản nhiệm nhà thờ Chánh Tòa. Linh mục Jean-Francois Duchamp, giáo sư
trường Saint Bernard bắt đầu luyện tập cho những em thích hát. Dần dần
nhóm nhỏ này phát triển và lấy tên là Les Petits Chanteurs de Saint Bernard rồi
sau thành Les Petits Chanteurs de Lyon.
Năm 1982, Đức Hồng y Albert Decourtray vừa từ Dijon đến, tặng
cho nhóm này danh hiệu Ban Hát Trẻ. Năm 1984, ngài đặt linh mục Duchamp làm quản
nhiệm nhà thờ Chánh Tòa. Thế là bắt đầu một thời kỳ phát triển rực rỡ. Thời kỳ
này Ban Hát hợp tác với trường Sainte Marie cho đến năm 1991 thì mở trường đào
tạo ca viên hát trong nhà thờ.
b. Cấu trúc
Ban Hát Nhà Thờ được đặt dưới quyền vị quản nhiệm thánh đường.
Vị này được Đức cha giáo phận bổ nhiệm. Ban Hát được điều hành theo qui chế một
hiệp hội chiếu theo bản luật năm 1901. Ban có một Hội Đồng Quản Trị gồm các vị
đại diện của Tòa Tổng Giám Mục, nhà thờ Chánh Tòa, nhà trường và các thành viên
được tuyển chọn trong số các phụ huynh. Chủ tịch Hiệp Hội, ông Jacques Dumont
điều hành toàn bộ công việc với sự hợp tác chặt chẽ của ông Giám Đốc. Hội có
hai phó chủ tịch đặc trách việc liên lạc với gia đình các ca viên và với bên
ngoài, một thư ký và một thủ quỹ lo sổ sách tiền bạc. Từ năm 1996, thêm một cô
thư ký làm việc bán thời gian, lo tiếp khách và một số công việc khác.
Việc điều hành Ban Hát về mặt nghệ thuật được giao cho linh
mục Duchamp. Có một Hội Đồng Âm Nhạc gồm một số người liên hệ đến công việc đào
tạo hỗ trợ. Hiện nay Ban hát có 150 thanh thiếu niên chia làm bốn ca đoàn[9]:
Ca đoàn 4: lớp 10-11, 6,7 tuổi, bậc khai tâm
Ca đoàn 3: lớp 7-8, chừng 7-8 tuổi, giai đoạn dự bị
Ca đoàn 2: lớp 6-7, chừng 8-9 tuổi, bậc trung cấp
Ca đoàn 1: từ lớp 6 trở đi, chừng 10 tuổi hoặc trên 10 tuổi
là lớp lớn.
Ca đoàn nam giới gồm các ca viên kỳ cựu.
Việc huấn luyện chia thành nhiều ban do nhiều huấn luyện
viên phụ trách:
Huấn luyện âm nhạc: ông Francois Terrieux
Huấn luyện thanh nhạc: ông Emmanuel Magat
Lịch sử âm nhạc: bà Paule Delorme
Hợp xướng: linh mục Francois Duchamp.
c. Trang bị
Có hai phòng tập hát ngay trước nhà thờ chánh tòa, hai phòng
hội, một phòng để sổ sách và một làm văn phòng. Ngoài ra, Ban Hát còn được sử dụng
hai phòng nữa để giảng dạy trong khuôn khổ đào tạo. Có 4 dương cầm loại thông
thường và một cái có “đuôi”, một quản cầm có 4 hàng phím, hai đàn điện tử và một
dương cầm điện tử, một dàn âm thanh và dụng cụ vidéo cao cấp.
d. Cơ quan bảo trợ
Cơ quan bảo trợ chính yếu là giáo phận dưới quyền Đức Tổng
Giám mục với sự trợ giúp của cha sở nhà thờ Chánh Tòa. Vị quản nhiệm thánh đường
cũng là Giám Đốc Ban Hát, thành viên Ban Thánh nhạc giáo phận và Ban Quản trị
Viện Thánh nhạc Lyon.
e. Các dịch vụ âm
nhạc
Ban Hát nhận hát các buổi lễ của nhà thờ Chánh Tòa với các
ca đoàn hỗn hợp: ca đoàn người lớn và ca đoàn chỉ gồm toàn thiếu nữ. Ít khi hay
đặc biệt lắm các ca đoàn mới cùng có mặt chung trong một buổi lễ. Mỗi tháng hai
lần Ban Hát nhận hát lễ Chúa Nhật ở nhà thờ Chánh Tòa. Khi nào Đức Tổng Giám mục
tới cử hành lễ Giáng Sinh, Tuần Thánh, Hiện Xuống, lễ Các Thánh, Ban Hát phải
có mặt. Các chiều thứ ba hàng tuần, Ban Hát hát Kinh Chiều có giáo dân tham dự.
Buổi hát này buộc phải được chuẩn bị chu đáo, ca viên phải có mặt đông đủ, bài
hát được chọn lọc kỹ lưỡng và tập luyện công phu. Ngoài ra, Ban Hát cũng tới
các gia đình giúp việc hiếu hỷ. Đó cũng là một cách thế mang lại cho các gia
đình niềm vui và sự an ủi.
Les Petits Chanteurs de Lyon là một Ban Hát được tổ chức
qui mô và được sự bảo trợ chính thức của giáo phận. Khi giới thiệu Ban Hát này,
tôi chỉ muốn nói một điều là Ban Hát dù nhỏ hay lớn cần được sự quan tâm và hỗ
trợ của các cơ quan chức năng, đồng thời bản thân các ca đoàn cũng phải tổ chức
và chấn chỉnh nội bộ không ngừng, nếu muốn là một ban hát có giá trị đích thật.
Chúng ta chưa thể sánh được với những ban hát lâu đời và có tầm cỡ lớn như người
ta ở nước ngoài. Chúng ta nhỏ và ít khả năng cũng như phương tiện thì hãy tổ chức
và hoạt động theo khả năng mình có.
Xin dừng lại về các ca đoàn bên Tây để nói về các ca đoàn
bên ta.
3. Các ca đoàn bên ta
Thời kỳ này có thể chia làm hai giai đoạn: giai đoạn I từ cuối
năm 1975 đến sau lễ Giáng sinh năm 1980 và giai đoạn II từ 1980 đến nay.
a. Giai đoạn I
Có thể nói giai đoạn này là thời kỳ nở rộ của các ca đoàn.
Nhiều nhà thờ như Chúa Cứu Thế, Huyện Sĩ, Đắc Lộ, Tân Định, Thị Nghè vô hình
trung trở thành nơi tụ họp và gặp gỡ của giới trẻ, nhất là Nhà Nguyện Đắc Lộ ở
đường Yên Đổ[10]. Người trẻ hồi đó đi
nhà thờ chưa hẳn vì lòng tin hay đạo đức mà có lẽ vì vui, có đông người, có ca
đoàn hát hay, có người mặc quần áo đẹp, hợp thời trang v.v… Đàng khác, thời đó
ít có chỗ nào để vui chơi giải trí, lại đang phải sống trong nỗi lo sợ. Bấy giờ
các ca đoàn hát nhiều bài mới lạ mà lời ca và nhất là nhịp điệu gần với nhạc đời
hơn là nhạc đạo. Ngoài ra, có nơi hát cốt cho người ta nghe thôi, chứ ít để ý đến
hát để cầu nguyện và giúp cầu nguyện. Rốt cuộc, đi những lễ này, dường như người
ta chỉ muốn nghe hát cho thích thôi. Vì vậy, có nơi trong phần đáp ca, hát hai
bài hợp xướng một lúc và những bài đó chẳng ăn nhằm gì với đáp ca, cả về nội
dung lẫn hình thức. Thời kỳ này có thể nói ai muốn hát gì thì hát, hát làm sao
cũng được, chẳng ai lên tiếng hay đưa ra nhận xét nào, có chăng thì cũng riêng
tư thầm kín vậy thôi.
b. Giai đoạn II từ sau
1980 đến nay
Một phần vì mấy ca đoàn tên tuổi như Cung Chiều, Y Nhã, Thái
Hòa không còn sinh hoạt nữa, sau vụ Trung Tâm Đắc Lộ bị dẹp năm 1980, phần khác
vì một số thanh niên thiếu nữ vượt biên, đi làm hay đi học, nên các ca đoàn thiếu
người hoặc nếu có thì lại vướng vào nhiều công việc khác, không có thời giờ
rảnh rỗi bao nhiêu. Hơn nữa ca đoàn cũng không còn là nơi hấp dẫn và thu hút
như trước. Nhiều nhà thờ bắt đầu hát cộng đồng và tỏ ra ít cần ca đoàn và ca
đoàn cũng không còn đóng một vai trò quan trọng như xưa. Rồi vào năm 1987, có
nhiều lời than phiền về việc hát xướng trong các nhà thờ đến tai Đức Cố Tổng
Giám Mục Phao-lô Nguyễn văn Bình, khiến ngài lưu tâm và ra những thông cáo về
Thánh Nhạc nhằm chấn chỉnh lại tình trạng nói trên[11]. Đây
mới chỉ là một tiếng chuông báo động nhưng chưa đạt tới kết quả mong muốn, vì
thiếu một sự hiểu biết về Thánh Nhạc nơi các ca đoàn và ca trưởng. Gần đây đã
có một vài biến chuyển về việc hát đáp ca, nhưng các bài hát vẫn chưa được chọn
lọc hoàn toàn chính xác và việc đệm đàn còn là một vấn đề nhức nhối. Vào nhiều
nhà thờ bây giờ, người ta cảm thấy đau đầu nhức óc vì tiếng đàn và kiểu đệm
đàn, khiến cho rất khó cầu nguyện và dường như không cầu nguyện được, vì sự ồn
ào náo động của tiếng đàn và giọng hát. Vì thế, hiện Ban Thánh nhạc giáo phận
đã mở những khóa dạy đàn dạy nhạc trong Trung Tâm Mục Vụ. Từ mấy năm qua, nhiều
cuộc Đại Hội Thánh Nhạc toàn quốc đã được tổ chức tại Trung Tâm này, dưới sự chủ
tọa của Đức Cha Chủ Tịch Ủy Ban Thánh Nhạc trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt
Nam, và sự điều hành tích cực của Ban Tổng Thư Ký, cùng với sự tham gia của các
linh mục Trưởng Ban Thánh nhạc các giáo phận và đông đảo nhạc sĩ sáng tác, ca
trưởng, ca viên các ca đoàn. Sau mỗi cuộc Đại Hội là một đặc san Hương Trầm đúc
kết các điều bản thảo và đưa ra những hướng dẫn thiết thực cho công việc hát xướng.
Nhờ vậy, tình hình Thánh nhạc đã được cải tiến và đang hướng tới một giai đoạn
tốt đẹp hơn.
Dù thế, công việc hát xướng ở nhà thờ vẫn còn cần được các
cha sở quan tâm và góp phần chấn chỉnh luôn mãi, vì đây là việc thờ phượng có
liên hệ trực tiếp đến đời sống cầu nguyện của các tín hữu. Các ca viên cũng cần
được động viên, hướng dẫn về Phụng vụ và Thánh nhạc như Ban Thánh nhạc Việt Nam
đã khởi xướng và thúc đẩy từ nhiều năm qua và những cố gắng của Ban Thánh nhạc
thành phố qua 97 số báo Hát Lên Mừng Chúa, Tài liệu Thánh nhạc, các lớp dẫn vào
Thánh Nhạc, những băng nhạc Tam Nhật Vượt Qua, Thánh ca Mùa Giáng sinh v.v…
Ca đoàn cũng như một cái cây. Cây không được tưới nước bón
phân thì cây sẽ chết. Nếu được tưới nước bón phân mà không chăm sóc thường
xuyên thì lá không đẹp và trái cũng chẳng ngon. Vì vậy, muốn ca đoàn phục vụ tốt
thì họ đạo, đứng đầu là cha sở, cũng phải phục vụ tốt ca đoàn bằng sự lưu tâm,
săn sóc, giúp đỡ, cổ võ, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho ca đoàn
phát triển về mặt kỹ thuật, hiểu biết chuyên môn cũng như tinh thần phục vụ.
Không thể bỏ mặc ca đoàn mà lại đòi ca đoàn đáp ứng các yêu sách về Phụng vụ và
Thánh nhạc. Phần đông các ca đoàn rất có thiện chí và tinh thần phục vụ. Sở dĩ
còn những hạn chế và thiếu sót là vì ca đoàn chưa được huấn luyện và quan tâm
cho đúng mức; các ca trưởng cũng chưa đóng đúng vai trò của mình và nhiều cha sở
viện cớ không biết hát, biết nhạc nên phó mặc cho ca đoàn xoay xở.
KẾT LUẬN
Nói tóm lại, các ca đoàn là
những bộ phận không thể thiếu để phục vụ công việc thờ phượng. Muốn thế, các vị
hữu trách cần quan tâm cho đúng mức và các ca viên cũng phải ý thức về sự cao
quý của công việc này, vì đó thuộc phạm vi nhân đức thờ phượng, một việc phục vụ
bác ái và một sinh hoạt nghệ thuật. Vậy từ nay, ước mong các vị hữu trách quan
tâm, huấn luyện, dìu dắt về phụng vụ và công việc thiêng liêng đạo đức cho các
ca đoàn. Các ca viên cũng cần phân biệt nhạc đạo với nhạc đời và tuân hành giáo
huấn cũng như kỷ luật của Hội Thánh về Thánh nhạc để việc ca hát vừa làm đẹp
cho buổi lễ, vừa nuôi dưỡng đời sống đức tin của các tín hữu. Làm thế nào để
khi vào nhà thờ nghe hát, người ta không có cảm giác là vào một phòng trà hay một
tụ điểm ca nhạc mà đến một nơi cầu nguyện, để tâm hồn được thanh thoát và tai
được nghe những tiếng hát có sức biến đổi tâm hồn.
Trích: Tập san Hương Trầm của Ủy ban Thánh nhạc / Hội
đồng Giám mục Việt Nam, số 35 (tháng 04 năm 2023)