Sáng thứ Sáu, ngày 23.02.2018, Linh mục Raniero Cantalamessa, O.F.M. Cap., giảng thuyết viên phủ Giáo Hoàng, đã có bài giảng tĩnh tâm Mùa Chay đầu tiên cho Giáo triều Roma năm nay. Bài giảng có chủ đề là “Đừng rập theo đời này” (Rm 12:2). Sau đây là toàn văn Việt ngữ bài giảng của ngài:
Linh mục Raniero Cantalamessa, O.F.M. Cap.
Bài giảng tĩnh tâm Mùa Chay cho Giáo triều Rôma
Năm 2018 - Bài 1: “ĐỪNG RẬP THEO ĐỜI NÀY” (Rm
12:2)
“Anh em đừng có rập
theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu
có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì
hoàn hảo” (Rm 12:2).
Trong một xã hội mà mọi
người cảm thấy được mời gọi hãy làm biến đổi thế giới hay Giáo Hội, thì câu Lời
Chúa này lại phá vỡ khi mời gọi mọi người hãy tự biến đổi chính mình: “Đừng rập
theo đời này”. Sau những lời này có lẽ chúng ta mong đợi nghe, “nhưng hãy biến
đổi thế giới!”. Thay vào đó, lời này nói với chúng ta, “Hãy biến đổi chính bản
thân anh em!” Biến đổi thế giới, đúng, nhưng là biến đổi thế giới ở trong các bạn
trước khi các bạn có thể biến đổi thế giới ở bên ngoài mình.
Câu Lời Chúa này, được
trích từ Thư Gửi Tín Hữu Rôma, giới thiệu cho chúng ta tinh thần của Mùa Chay
năm nay. Theo thông lệ trong vài năm trở lại đây, giờ đây chúng ta sẽ dành bài
suy niệm thứ nhất này cho việc dẫn nhập chung về Mùa Chay mà không đi vào một
chủ đề đặc biệt cho năm nay, vì sự thiếu vắng một phần của sự hiện diện theo
thường lệ là những vị đang dấn thân ở nơi khác cho Kỳ Linh Thao.
1. Người kitô hữu
và thế gian
Trước hết chúng ta hãy
nhìn vào lý tưởng tách ra khỏi đời này được hiểu và sống thế nào từ khởi đầu
cho đến ngày nay. Vẫn luôn thật hữu ích để xét đến những kinh nghiệm trong quá
khứ nếu chúng ta muốn hiểu những đòi hỏi của hiện tại.
Trong Tin Mừng Nhất
Lãm thì từ “thế gian” (Kosmos) thì hầu như luôn được hiểu theo một
nghĩa trung lập về luân lý. Theo nghĩa không gian của từ này,
thì “thế gian” nói đến trái đất và vũ trụ (“Hãy đi khắp thế gian”). Theo
nghĩa thời gian của nó, thì từ này nói về thời gian hiện tại
hay “thời đại” (aion). Đây là từ mà với Phaolô, và thậm chí hơn thế nữa
với Gioan, thì từ “thế gian” mặc lấy một chiều kích luân lý và
quá thường là nói về thế gian như nó trở thành sau khi phạm tội và rơi vào sự
thống trị của Satan, “ác thần của đời này” (2 Cr 4:4). Đây là ý nghĩa của từ “đời
này” trong giáo huấn của Phaolô mà chúng ta bắt đầu suy niệm vá trong một giáo
huấn hầu như mang tính đặc trưng của Gioan trong Thư Thứ Nhất của Ngài:
“Anh em đừng yêu thế
gian và những gì ở trong thế gian. Kẻ nào yêu thế gian thì nơi kẻ ấy không có
lòng mến Chúa Cha, vì mọi sự trong thế gian: như dục vọng của tính xác thịt, dục
vọng của đôi mắt và thói cậy mình có của, tất cả những cái đó không phát xuất từ
Chúa Cha, nhưng phát xuất từ thế gian”. (1 Ga 2:15-16)
Người Kitô Hữu không
bao giờ đánh mất tầm nhìn về sự thật là thế gian trong tự thân nó, bất chấp mọi
sự, thì chỉ là và vẫn là một công trình tạo dựng tốt lành của Thiên Chúa, một
công trình tạo dựng mà Ngài yêu mến và đến để cứu chứ không phải để lên án:
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người
thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16).
Thái độ đối với thế
gian mà Chúa Giêsu đặt ra với các môn đệ của Ngài được chứa đựng trong hai luận
đề: ở trong thế gian nhưng không thuộc về thế
gian. “Con không còn ở trong thế gian nữa”, Ngài nói, khi cầu nguyện cùng Chúa
Cha, “nhưng họ, họ ở trong thế gian... Họ không thuộc về
thế gian cũng như con đây không thuộc về thế gian” (Ga 17:11, 16).
Trong ba thế kỷ đầu
tiên, các môn đệ khá ý thức về vị thế độc nhất của mình. “Thư Gửi Diognetus”, một
lá thư khuyết danh vào cuối thế kỷ thứ 2, mô tả cách nhận thức mà các Kitô Hữu
có về chính mình trong thế gian:
Các Kitô Hữu không thể
phân biệt được so với những người khác về mặt quốc tịch, ngôn ngữ hay các tập tục.
Họ không sống ở các thành phố riêng biệt của riêng mình, hay nói một thứ thổ ngữ
lạ nào, hay đi theo một lối sống kỳ dị nào...Họ tuân thủ các tập tục của bất cứ
thành phố nào mà họ đang sống, bất luận đó là Hy Lạp hay nước ngoài. Nhưng rồi
có một điều gì đó lạ thường về đời sống của họ. Họ sống ở đất nước của họ như
thể các đất nước này đang qua đi. Họ thực thi trọn vẹn vai trò của họ trong tư
cách là công dân, nhưng làm việc dưới tất cả mọi sự bất lợi của những người xa
lạ. Bất cứ một đất nước nào cũng có thể là quê hương của họ, nhưng đói với họ
thì quê hương, bất cứ nơi nào, đều là một đất nước ngoại quốc. Giống như những
người khác, họ cũng kết hôn và sinh con, nhưng họ không thể hiện họ [sẽ chết].
Họ chia sẻ các bữa ăn, nhưng không phải các bà vợ của mình. Họ sống trong thân
xác, nhưng họ không bị chế ngự bởi các ước mong của xác thịt.[1]
Chúng ta hãy tóm lược
lại điều viết sau đó. Khi Kitô Giáo trở thành một tôn giáo vốn bị chịu đựng và
ngay sau đó thậm chí được bảo vệ và ưu ái, thì một cách không thể tránh khỏi sự
căng thẳng giữa Kitô Giáo và thế gian có xu hướng bớt khắng khít kể từ khi thế
gian đã hình thành – hoặc ít nhất được coi là – một “thế giới Kitô Giáo”. Do
đó, chúng ta chứng kiến một hiện tượng chấp đôi. Một mặt, các nhóm người, khi
khao khát muốn duy trì là muối cho đời mà không đánh mất đi hương vị của muối,
đã thoát ly khỏi thế gian, thậm chí cả về mặt thể lý, và rút vào trong sa mạc.
Lối sống tu viện được sinh ra dưới biển hiệu với câu châm ngôn tính từ thời tu
sĩ Arsenius: “Fuge, tace, quiesce,” “Thoát ly, thinh lặng, đứng
yên”.[2]
Đồng thời, các vị mục
tử của Giáo Hội và một số vị được khai sáng hơn đã tìm cách áp dụng lý tưởng
thoát ly khỏi thế gian cho tất cả mọi tín hữu, đề nghị không phải là một cuộc
thoát ly thể lý mà là thiêng liêng khỏi thế gian. Thánh Basil ở Phương Đông và
Thánh Augustine ở Phương Tây có cùng tư tưởng giống như Plato, đặc biệt về hình
thức khổ chế đã được môn đệ của ông là Plotinus thực hiện. Trong bầu khí văn
hóa này, lý tưởng thoát ly khỏi thế gian trở nên sống động. Tuy nhiên, lý tưởng
này có liên hệ đến một cuộc thoát ly về chiều dọc hơn là về chiều ngang, có thể
nói, một sự thoát ly hướng lên chứ không phải hướng về phía sa mạc. Lý tưởng
này hệ tại ở việc nâng bản thân vượt trên nhiều thứ vật chất và đam mê con người
để hiệp nhất bản thân với điều gì là thánh thiêng, không hư hoại, và vĩnh cửu.
Các Giáo Phụ, đứng đầu
là Cappadocians, đã đề xuất một nền khổ chế Kitô Giáo đáp trả lại nhu cầu tôn
giáo này và áp dụng ngôn ngữ của nó mà không hề hy sinh các giá trị của tin mừng.
Để khởi đầu, cuộc thoát ly khỏi thế gian mà họ đề xuất là một công việc của ân
sủng hơn là việc đó là nỗ lực của con người. Bước nền tảng không phải là ở phía
cuối con đường mà là ở ngay khởi đầu của nó, trong phép rửa. Chính vì thế mà sự
thoát ly này không dành cho một vài người có học mà là mở ra cho hết mọi người.
Thánh Ambrose viết một bài giảng dạy ngắn gọi là “Thoát Khỏi Thế Gian”, nói cho
hết mọi người giáo hữu mới.[3] Sự
tách ra khỏi thế gian mà Ngài đề xuất trên hết là hiệu nghiệm: “Thoát
ly”, Ngài nói, “không phải là một sự ra đi khỏi trái đất mà là ở lại trái đất,
giữ vững công lý và điều độ, rũ bỏ những ham muốn về những của cải vật chất,
không sử dụng chúng”.[4]
Lý tưởng thoát ly và
tách ra khỏi thế gian này sẽ khác biệt về hình thức, đồng hành với toàn bộ lịch
sử của nền linh đạo Kitô Giáo. Một lời cầu nguyện trong phụng vụ tóm lược lại
điều này khi nói, “terrena despicere et amare caelestia”: “chán
ghét những sự thuộc về thế gian và yêu thích những sự trên trời”. (Cùng một
kinh nguyện trong nền phụng vụ hiện đại khi nói: “sử dụng sự khôn ngoan những sự
thuộc thế gian, và luôn hướng đến những sự tốt lành trên trời”)
2. Cuộc khủng hoảng
về lý tưởng “Fuga Mundi”
Mọi thứ đã thay đổi
trong một giai đoạn trước thời đại của chúng ta. Liên quan đến ý tưởng tách ra
khỏi thế gian, chúng ta đã trải qua một giai đoạn mà lý tưởng ấy đã bị “chỉ
trích” và bị nhìn bằng đôi mắt hoài nghi. Cuộc khủng hoảng này có những cội rễ
xa. Nó bắt đầu – ít nhất ở cấp độ lý thuyết – với chủ nghĩa nhân đạo Phục Hưng
vốn làm sống lại sự hứng thú và lòng nhiệt thành đối với các giá trị thế gian,
đôi khi với nét đặc thù dân ngoại. Nhưng yếu tố quyết định của cuộc khủng hoảng
này được thấy trong hiện tượng của cái gọi là “sự tục hóa” vốn bắt đầu trong Thời
Kỳ Khai Sáng và đạt tới đỉnh điểm của nó trong thế kỷ 20.
Sự thay đổi rõ nét nhất
có liên quan cách cụ thể đến các khái niệm về “thế gian” và “thời đại”. Trong
toàn bộ lịch sử của nền linh đạo Kitô Hữu, thì từ “saeculum” có
một nét nghĩa vốn có khuynh hướng là tiêu cực, hoặc ít nhất là mập mờ. Nó có
nghĩa là thời đại hiện tại vốn là chủ thể của tội lỗi, như chống lại thời đại
tương lại hay vĩnh cửu. Trong một vài thập kỷ, thì nghĩa của từ này đã trải qua
một sự biến đổi cho đến khi nó mặc lấy một ý nghĩa tích cực mang tính quyết định
vào những năm 1960 và 1970. Một số tựa đề của chính những đầu sách đã xuất hiện
trong những năm này như, Ý Nghĩa Thế Tục của Tin Mừng của Paul
van Buren và Thành Đô Thế Tục của Harvey Cox, nhấn mạnh vào ý
nghĩa lạc quan mới này của từ “saeculum” và từ “thế tục”. Một
“nền thần học của sự tục hóa” được khai sinh.
Tuy nhiên, tất cả những
điều này chỉ góp phần thêm dầu vào một chủ nghĩa lạc quan thái quá về thế giới
đối với một số người đang không suy xét đủ về mặt kia – mặt vốn đang “ở dưới sự
thống trị của ma quỷ” và đang chống lại tinh thần của Đức Kitô (x. Ga 14:17).
Vào một thời điểm nhất định thì ý tưởng truyền thống của việc thoát ly “khỏi”
thế giới được thay thế trong tư tưởng của nhiều người (gồm cả hàng giáo sĩ và
tu sĩ) bằng ý lý tưởng thoát “hướng về” thế giới, nghĩa là, sự thế tục.
Trong bối cảnh này thì
một số trong số những điều ngớ ngẩn và ảo tưởng nhất đã từng xuất hiện với tên
gọi “nền thần học” đã từng được viết ra. Điều đầu tiên là ý tưởng là chính
Thiên Chúa trở nên thế tục và thế gian khi Ngài gạt sang một bên Thần Tính của
Ngài để trở nên con người. Đây là cái được gọi là “Nền Thần Học về Sự Chết của
Thiên Chúa”. Cũng tồn tại một nền thần học quân bình về sự tục hóa mà trong đó
sự tục hóa không được coi là một điều chống lại tin mừng nhưng thay vào đó là sản
phẩm của tin mừng. Tuy nhiên, đó không phải là nền thần học mà chúng ta đang
nói đến.
Một số người nhận định
rằng “những nền thần học về sự tục hóa” được nói đến ở trên chẳng là gì khác
ngoài là những nỗ lực mang tính biện hộ “để mang lại một sự biện minh mang tính
ý thức hệ cho sự thờ ơ tôn giáo nơi con người hiện đại”; chúng cũng phù hợp với
“kiểu ý thức hệ mà các Giáo Hội cần thiết để biện minh cho tình trạng ngoại
biên hóa ngày càng gia tăng của họ”.[5] Điều
đó sớm trở nên rõ ràng là đây chỉ là một con đường cụt. Trong một vài năm hầu
như không một ai nói về nền thần học của sự tục hóa, và một vài người cổ võ nền
thần học này đã tự tách bản thân họ khỏi nó.
Như vẫn thế, việc chạm
tới đáy của một cuộc khủng khoảng trở thành một dịp để trở về với lời “hằng sống
và vĩnh cửu” của Thiên Chúa. Chúng ta hãy lắng nghe lại giáo huấn của Thánh
Phaolô: “Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng
cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt,
cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo.”
Chúng ta đã biết từ
Tân Ước điều mà thế giới này không tuân theo: đó không phải là một thế gian mà
Thiên Chúa tạo dựng và yêu thương và không phải là con người trong thế giới mà
chúng ta phải luôn đi ra để gặp gỡ, đặc biệt là người nghèo, người bị áp bức,
và người đau khổ. “Việc hòa quyện vào” với nỗi thống khổ này và thế giới bị gạt
ra bên lề này, một cách trái nghịch, là cách tốt nhất của “việc tách” bản thân
chúng ta ra khỏi thế gian vì điều đó có nghĩa là đi vào theo hướng mà từ đó thế
gian này trốn thoát càng nhiều càng có thể. Điều đó có nghĩa là tách bản thân
chúng ta ra khỏi nguyên lý rất mạnh đang điều khiển thế giới này, sự qui ngã.
Chúng ta hãy tập trung
một chút vào ý nghĩa của điều diễn ra sau đó: được biến đổi trong nếp nghĩ sâu
thẳm nhất của tư tưởng. Mọi sự ở nơi chúng ta bắt đầu trong tư tưởng, bằng những
suy nghĩ. Có một câu châm ngôn khôn ngoan đã nói,
Hãy coi chừng những
suy nghĩ của bạn vì chúng sẽ thành lời nói.
Hãy coi chừng những lời
nói của bạn vì chúng sẽ thành hành động.
Hãy coi chừng hành động
của bạn vì chúng sẽ thành thói quen.
Hãy coi chừng thói
quen của bạn vì chúng sễ thành tính cách.
Hãy coi chừng tính
cách của bạn vì nó sẽ thành số phận của bạn.
Do đó, trước những
công việc của chúng ta thì sự thay đổi phải xuất hiện, về cách nghĩ của chúng
ta, nghĩa là, về niềm tin của chúng ta. Có nhiều căn nguyên ở tại nguồn gốc của
tinh thần thế tục, nhưng căn nguyên chính là sự khủng hoảng đức tin. Theo nghĩa
này thì giáo huấn của Thánh Tông Đồ chỉ là lặp lại giáo huấn của Đức Kitô ngay
từ khởi đầu công cuộc rao giảng của Ngài: “Hãy sám hối và tin”; sám hối, nghĩa
là, hãy tin! Thay đổi cách nghĩ của bạn; hãy dừng lại việc nghĩ theo “cách nghĩ
của con người”, và bắt đầu nghĩ theo “cách nghĩ của Tin Mừng” (x. Mt 16:23).
Thánh Thomas Aquinas thật đúng khi nói, “Sự hoán cải đầu tiên hệ tại ở việc
tin” (prima conversio fit per fidem)”.[6]
Đức tin là một mặt trận
chính yếu giữa người Kitô Hữu và thế gian. Chính qua đức tin mà người Kitô Hữu
không còn “thuộc về” thế gian nữa. Khi tôi đọc những kết luận mà những nhà khoa
học không có niềm tin rút ra từ những quan sát của họ về vũ trụ và tôi thấy tầm
nhìn về thế giới mà các nhà văn và các nhà làm phim đang lại cho chúng ta – mà
trong đó Thiên Chúa bị giảm thiểu tối đa thành một cảm thức mang tính mập mờ và
chủ quan về mầu nhiệm và Chúa Giêsu Kitô thì thậm chí còn không được xét đến –
tôi cảm thấy, nhờ đức tin, rằng tôi thuộc về một thế giới khác. Tôi kinh nghiệm
được sự thật của những lời này của Chúa Giêsu: "Phúc thay mắt nào được thấy
điều anh em thấy! Và tôi vẫn kinh ngạc khi nhận thấy Chúa Giêsu đã tiên báo trước
về tình trạng này và mang lại cho chúng ta sự giải thích trước thời gian thế
nào: “Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này,
nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn” (Lc 10:23, 21).
“Thế gian”, được hiểu
theo nghĩa luân lý, thì theo định nghĩa là những người từ chối tin. Tội mà Chúa
Giêsu nói là Đấng Bảo Trợ sẽ “bắt lỗi thế gian” là tội không tin vào Ngài (x.
Ga 16:8-9). Thánh Gioan viết, “Và chiến thắng của chúng ta đối với thế gian, đó
là lòng tin của chúng ta” (1 Ga 5:4). Trong Thư Gửi Tín Hữu Ê-phê-xô chúng ta đọc,
“Anh em đã chết vì những
sa ngã và tội lỗi của anh em. Xưa kia anh em đã sống trong đó, theo trào lưu của
thế gian này, theo tên thủ lãnh nắm giữ quyền lực trên không trung, tên ác thần
hiện đang hoạt động trên những kẻ không vâng phục” (Ep 2:1-2).
Nhà chú giải Heinrich
Shlier đã thực hiện một sự phân tích thật sáng suốt về “tên ác thần của thế
gian” này mà Thánh Phaolô coi là kẻ phản nghịch trực tiếp của “Thần Khí của
Thiên Chúa” (1 Cr 2:12). Nó đóng một vai trò mang tính quyết định trong quan điểm
chung..., và ngày nay theo nghĩa đen nó đang là tinh thần “trên không trung” vì
nó tự lan tỏa chính nó một cách điện tử qua không trung. Schlier xác định “tinh
thần phổ quát của thế gian” là
Tinh thần của một giai
đoạn, thái độ, quốc gia hay địa phương cụ thể...Thực vậy, nó quá mạnh mẽ và quyền
lực đến mức không một cá nhân nào có thể thoát khỏi nó. Nó đóng vai trò như một
qui định và bị coi thường. Hành động, nghĩ hay lên tiếng chống lại tinh thần
này thì bị coi là vớ vẩn hay thậm chí là sai trái hay tội phạm. Chính “ở trong”
tinh thần này mà con người gặp gỡ thế giới và các sự vụ, một tinh thần có nghĩa
là họ chấp nhận thế giới như là tinh thần này đại diện cho họ...Chính bản chất
tinh thần này của họ giải thích vũ trụ và sự sống con người theo cách riêng của
nó.[7]
Điều này mô tả điều mà
chúng ta gọi là “một sự thỏa hiệp theo tinh thần của thời đại”. Tinh thần ấy hoạt
động giống như một con ma cà rồng huyền thoại vậy. Con ma cà rồng sẽ tấn công
những người đang ngủ, và trong khi nó hút máu họ thì đồng thời nó tiêm một loại
chất gây ngủ vào họ làm cho họ ngủ ngon hơn, để họ luôn chìm vào trong giấc ngủ
sâu hơn và nó có thể hút hết máu mà nó muốn. Tuy nhiên, thế gian thì còn tồi tệ
hơn cả con ma cà rồng vì con ma cà rồng không thể làm cho con mồi của nó buồn
ngủ mà chỉ có thể tiếp cận những ai đã ngủ. Trái lại, thế gian trước hết có thể
làm cho người ta buồn ngủ và rồi hút hết sức sống thiêng liêng của họ, bơm vào
họ bằng một thứ chất lỏng gây ngủ vốn làm cho họ ngủ thậm chí còn ngon hơn.
Phương dược cho tình
trạng này là có ai đó hô lớn lên vào tai người ngủ, “Thức dậy!” Đó là điều mà lời
của Thiên Chúa thực hiện trong quá nhiều dịp và điều mà phụng vụ của Giáo Hội
giúp chúng ta nghe lại cách cụ thể vào đầu Mùa Chay: “Tỉnh giấc đi hỡi người
con đang ngủ!” (Ep 5:14); “Ðã đến lúc anh em phải thức dậy” (Rm 13:11).
3. Hình thức của thế
gian này sẽ qua đi
Nhưng chúng ta hãy tự
hỏi bản thân mình lý do mà một người Kitô Hữu cần phải đối diện với thế gian
này. Lý do không mang tính bản thể mà là mang tính cánh chung. Chúng ta không cần
phải tách lìa bản thân chúng ta ra khỏi thế gian vì vấn đề là sự dữ về bản chất
và là một kẻ thù của tinh thần, như những người theo trường phái Plato và một
vài cây viết Kitô Giáo đã tự ảnh hưởng lên họ tư tưởng này. Lý do là, như Kinh
Thánh nói, “bộ mặt thế gian này đang biến đi” (1 Cr 7:31); “mà thế gian đang
qua đi cùng với dục vọng của nó. Còn ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa thì tồn
tại mãi mãi” (1 Ga 2:17).
Tất cả mọi điều chúng
ta cần là dừng lại một phút và nhìn xung quanh và ý thức về sự thật của những lời
này.
Đời sống tương tự như
điều đang xảy ra trên màn hình TV: những chương trình, cái được gọi là một loạt
các điều đang xem, theo sau nhau một cách nhanh chóng, và mỗi điều sẽ xóa bỏ điều
trước đó. Màn hình vẫn thế, nhưng những chương trình và hình ảnh sẽ thay đổi.
Điều đó tương tự với chúng ta: thế gian vẫn còn đó, nhưng chúng ta sẽ rời bỏ
nhau người này sau người kia. Tất cả những hình ảnh, những diện mạo, và tin tức
lấp đầy những trang báo và chương trình tin tức ngày nay, trong số đó điều nào
sẽ còn mãi – về tất cả chúng ta – trong một vài năm hay vài thập kỷ nữa? Chẳng
có gì cả.
Chúng ta hãy suy nghĩ
về điều được để lại của những huyền thoại từ 40 năm trước và điều gì vẫn còn
trong 40 năm tới tính từ bây giờ của các huyền thoại và những người nổi tiếng của
ngày nay. Chúng ta đọc thấy trong Sách Tiên Tri Isaia rằng đó sẽ là “Như người
đói mơ thấy mình đang ăn, khi tỉnh dậy thấy dạ dày trống rỗng; hoặc như một người
khát nằm mơ thấy mình đang uống, khi tỉnh dậy thấy mình mệt lử, họng khát khô;
đoàn lũ các dân tộc đang tiến đánh núi Xi-on cũng sẽ y như vậy” (Is 29:8). Đâu
là những sự giàu có, những tưởng nhớ, và vinh quang nếu không phải là một giấc
mơ sẽ tan biến khi ngày mới ló rạng? Thánh Augustine mô tả một người hành khất
là người đã có một giấc mơ rất dễ thương vào một đêm nọ. Ông ta mơ thấy một tài
sản lớn đổ xuống lòng ông. Trong giấc mơ ông được mặc những chiếc áo đẹp; ông
được bao phủ bởi vàng và bạc và là chủ nhân của những cánh đồng và những vườn
nho. Trong niềm kiêu hãnh của mình ông đã nguyền rủa cha mình và giả vờ không
biết cha mình...Nhưng ông thức dậy vào buổi sáng và thấy rằng ông đang ngủ.[8]
Ông Gióp nói,
"Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng”
(Gióp 1:21). Điều tương tự sẽ xảy ra nơi nhiều triệu phú ngày nay với số tiền của
họ và với giới quyền lực là những người đang làm cho thế giới này run sợ trước
quyền lực của họ. Một con người nhân loại, bên ngoài hoàn cảnh của đức tin, thì
chẳng là gì ngoài là một hình hài được tạo nên bởi một con sóng trên bờ biển mà
con sóng sau sẽ xóa sạch.
Ngày nay có một cảnh
tượng khác mà trong đó thật đặc biệt cần thiết để không rập khuôn bản thân
chúng ta theo đời này: những hình ảnh. Những người xưa đã nằm lòng câu khẩu hiệu
này: “Kiêng chay khỏi thế gian” (nesteuein toukosmou) [9].
Ngày nay chúng ta có thể áp dụng như là việc kiêng chay khỏi những hình ảnh của
thế gian. Vào một thời điểm việc chay tịnh khỏi thực phẩm và đồ uống được coi
là việc ăn chay hiệu nghiệm và được đòi buộc nhất. Đó không còn là vấn đề nữa.
Ngày nay người ta thực hiện những việc chay tịnh như thế vì những động cơ khác,
đặc biệt là để giữ vóc dáng. Kinh Thánh nói là không thực phẩm nào là không sạch
cả (x. Mc 7:19), nhưng nhiều hình ảnh thì không sạch. Chúng đã trở thành một
trong những phương thế được yêu thích mà qua đó thế gian này lan tỏa việc phản
tin mừng của nó. Một bài ca dành cho Mùa Chay dạy chúng ta,
Utamur ergo parcius
Verbis, cibis et potibus
Somno, iocis et
arctius
Perstemus in custodia.
Chúng ta hãy sử dụng
cách kiêng khem
lời nói, thực phẩm, và
đồ uống
giấc ngủ và những giải
trí
Chớ gì chúng ta tỉnh
thức hơn trong việc quản trị những giác quan của mình.[10]
Liệt kê ra danh mục những
thứ mà chúng ta phải sử dụng cách kiêng khem – lời nói, thực phẩm, đồ uống, và
giấc ngủ – chúng ta cần phải thêm hình ảnh. Trong số những điều xuất phát từ thế
gian chứ không từ Chúa Cha, Thánh Gioan đã thêm một cách đầy ý nghĩa, cùng với
dục vọng của xác thịt và sự kiêu ngạo của đời sống, còn có “dục vọng của đôi mắt”
(1 Ga 2:16). Chúng ta hãy nhắc lại cách mà Vua Đa-vít đã sa ngã... Điều gì đã xảy
ra cho ông khi ông nhìn xuống khu đất của ngôi nhà bên cạnh mà vẫn thường xảy
ra ngày nay trong khi mở ra những trang nhất định trên mạng Internet.
Nếu có đôi khi chúng
ta cảm thấy bối rối bởi những hình ảnh không trong sạch, hoặc là vì sự bất cẩn
của riêng chúng ta hoặc vì sự xâm nhập của một thế giới đang đẩy vào cách mạnh
mẽ những hình ảnh của nó trước mắt chúng ta, thì chúng ta hãy noi theo điều mà
người dân Israel đã làm khi họ bị rắn cắn. Thay vì lãng phí thời gian vào những
hối tiếc vô ích hay nỗ lực để tìm kiếm những lời biện minh trong sự cô đơn của
chúng ta và sự hiểu biết của người khác, chúng ta hãy nhìn lên thánh giá và đứng
trước Đấng Thánh. “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người
cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người, thì được sống muôn đời”
(Ga 3:14-15). Chớ gì phương dược đi vào nơi mà chất độc đi vào, đó là, đôi mắt
chúng ta.
Vơi những đề xuất này
mà Thánh Phaolô đưa ra trong những lời của Ngài gửi Tín Hữu Rôma, và trên hết với
ân sủng của Thiên Chúa, chúng ta hãy bắt đầu, thưa Quý Cha, anh chị em thân mến,
sự chuẩn bị của chúng ta dành cho Mùa Phục Sinh. Để vui mừng Mùa Phục Sinh,
Thánh Augustine nói, có nghĩa là “đi qua khỏi thế gian này mà về với Chúa Cha”
(Ga 13:1), nghĩa là, đi qua đến với điều sẽ không qua đi! Thật cần thiết để đi
ra khỏi thế gian để không qua đi cùng với thế gian.
Xin chúc Một Mùa Chay Thánh!
Joseph C. Pham
Chuyển ngữ từ: cantalamessa.org
Nguồn: simonhoadalat.com
[2] See Selections from The Sayings of the Desert
Fathers, trans. Benedicta Ward (Kalamazoo, MI: Cistercian Publications, 1975),
p. 14.
[3] See St. Ambrose, “Flight from the World” [“De
fuga saeculi”], 1, in Seven Exegetical Works, trans. Michael P. McHugh, vol.
65, The Fathers of the Church (Washington, DC: Catholic University of America
Press, 1972), 279-288; see also CSEL, 32, 2, p. 251.
[4] St. Ambrose, “Isaac, or the Soul,” 3, 6,
Seven Exegetical Works, p. 14. See also Exposition on the Gospel of Luke, 9,
36.
[7] Heinrich Schlier, Principalities and Powers
in the New Testament (New York: Herder and Herder, 1961), pp. 31-32.
[8] See St. Augustine, “Sermon 39,” 5, Sermons on
the Old Testament 20-50, vol. 2 (Hyde Park, NY: New City Press, 1990); PL 38,
242.
[9] The saying goes back to a non-canonical
saying attributed to Jesus himself: “If you do not fast from the world, you
will never discover the kingdom of God,” Gospel of Thomas, saying #27. See
Clement of Alexandria, Stromati 111, 15 (GCS, 52, p. 242, 2); Alfred Resch,
Agrapha, 48, TU, 30 (1906), p. 68.
[10] Translation from the Vatican website,
“Message of His Holiness Benedict XVI for Lent 2009”.