NĂM 1997: “LÀ CÁC NGƯƠI ĐÃ LÀM CHO TA”
Đây là bài giảng của Đức Hồng y Raniero Cantalamessa OFM Cap, giảng thuyết Phủ Giáo Hoàng, vào Thứ Sáu Tuần Thánh năm 1997 với sự hiện diện của Đức Giáo Hoàng và Giáo triều Roma. Mở đầu bài giảng, ngài nói:
Thánh Lêô Cả viết: “Cuộc Khổ Nạn của Chúa còn kéo dài cho tới tận thế[1].” Theo ngài, cuộc Khổ Nạn ấy kéo dài trong Nhiệm Thể của Chúa là Giáo Hội, nhất là nơi người nghèo, người bệnh và người bị bách hại. Blaise Pascal làm cho tư tưởng này nổi tiếng khi biến tư tưởng đó làm của mình: “Đức Giêsu hấp hối cho tới tận thế. Không được ngủ trong suốt thời gian này[2].”
Năm nay, chúng ta suy niệm đôi điều về những gì Đức Giêsu đang chịu khổ và hấp hối ngày hôm nay. Phụng vụ là tưởng niệm, hiện diện và chờ đợi. Có ba chuyển động lý tưởng luôn khởi đi từ phụng vụ: chuyển động thứ nhất, ngược về những biến cố lịch sử được tưởng niệm; chuyển động thứ hai, đi về phía dưới, nghĩa là với việc trở lại vinh quang của Chúa; chuyển động sau cùng, ở bên trong, nghĩa là lúc hiện tại của cuộc sống chúng ta. Chúng ta hãy đi theo chuyển động thứ ba này và khởi từ cử hành phụng vụ hôm nay, chúng ta hãy nhìn về thực tại chung quanh chúng ta.
Ngày hôm nay, Đức Giêsu ở đâu, chịu khổ nơi nào, hấp hối nơi nào? Ờ nhiều nơi và trong nhiều tình huống. Nhưng chúng ta chú ý tới một điều thôi, là sự nghèo khó, để không bị mất hút trong mơ hồ và trong vô số chuyện. Những người nghèo là hình ảnh của Đức Kitô bị đóng đinh. Những chiếc đinh là những bất công, những đau khổ và hạ nhục mà người ta bắt họ phải chịu. Đức Kitô không thể xuống khỏi thập giá nếu chúng ta không tháo đinh cho Ngài…Nếu chúng ta không có khả năng thao ngay lập tức và ở mọi nơi trong thực tế, chúng ta hãy bắt đầu ít nhất tháo đinh cho Ngài trong tâm hồn chúng ta, tháo đinh cho Ngài bên trong chính chúng ta.
***
Tội lớn nhất chúng ta có thể phạm tới người nghèo có lẽ là tội thờ ơ, giả vờ như không thấy, “tránh qua bên kia” (Lc 10,31). Không biết có vô số người đói khát, ăn xin, không nơi trú ẩn, không được giúp đỡ thuốc men và nhất là không có hy vọng một tương lai sáng sủa hơn – Đức Giáo Hoàng đã viết như thế trong thông điệp Sollicitudo rei socialis – , “điều đó có nghĩa là chúng ta giống như nhà phú hộ kia giả vờ không nhận ra Ladarô người ăn xin đang ngồi trước cửa[3].”
Chúng ta có khuynh hướng lắp hai cửa kính ngăn chúng ta với người nghèo. Hiệu quả của hai cửa kính, được làm nhiều ngày hôm nay, ngăn cản gió lạnh và tiếng động từ bên ngoài vào; tất cả đều được giảm thiểu, thay đổi, nhét bông. Và chúng ta thấy những người nghèo di chuyển, hối hả, hét to trên màn ảnh nhỏ, chúng ta thấy họ trên những trang báo, trong các tập san truyền giáo, nhưng tiếng kêu cứu của họ chỉ vang đến chúng ta từ rất xa. Nó không đi sâu vào trong tâm hồn chúng ta.
Thế nên công việc đầu tiên phải làm là phá vỡ cửa kính đôi, lướt thắng thờ ơ và vô cảm. Chúng ta phải dẹp bỏ bản năng của mình là tự vệ và để bản thân tràn ngập nỗi lo lắng đúng dắn, do sự lầm than khủng khiếp đang hoành hành trên thế giới gây ra. Phải để cho người nghèo đi vào trong da thịt của chúng ta. Phải “ý thức tới” người nghèo. Sự ý thức này là dấu chỉ cho thấy cuối cùng chúng ta mở mắt, lương tâm thức tỉnh và bắt đầu thấy điều đã có trước đây nhưng chúng ta đã không thấy. Đức Phaolô VI viết: “Tiếng kêu cứu của người nghèo buộc chúng ta phải “thức tỉnh các lương tâm trước thảm kịch của lầm than và trước những đòi hỏi thuộc công bình xã hội của Phúc Âm và Giáo Hội[4].”
Hãy tưởng tượng một ngày kia chúng ta nhìn lên màn hình thấy những hình ảnh về một tai họa – một cảnh xe lửa trật đường rầy, một tai nạn xe hơi trên đường cái, một tòa nhà sụp đổ hay bốc cháy – chúng ta bỗng nhận ra một người thân của chúng ta trong số nạn nhân: mẹ chúng ta, anh em chúng ta, chồng của chúng ta. Một tiếng kêu thất thanh từ lòng chúng ta phát ra. Và lòng chúng ta đảo lộn so với một lúc trước đây. Biến cố có một chiều kích hoàn toàn khác. Điều gì đã xẩy ra? Một điều rất đơn giản: những gì chúng ta thấy trước đây chỉ bằng đôi mắt và cái đầu, giờ đây chúng ta thấy bằng con tim. Thì chính là điều sẽ xẩy ra, ít nhất ở một mức độ nào đó, khi chúng ta thấy trước mắt một số cảnh tượng lầm than gây ảo giác. Họ có phải là anh em của chúng ta không. Tất cả chúng ta có thuộc về cùng một gia đình nhân loại không? Phải chăng không có lời chép rằng “chúng ta là chi thể của nhau” (Rm 12,5) sao?
Than ôi, với thời gian, chúng ta quen với mọi sự, chúng ta đã quen với sự khốn cùng của người khác, với những hình ảnh cho thấy những thân thể chỉ còn là những bộ xương do nạn đói gây ra. Sự khốn khổ không đánh động chúng ta nữa, chúng ta coi chuyện đó hầu như không tránh được. Nhưng chúng ta hãy đứng một lát bên cạnh Chúa, hãy cố gắng nhìn sự việc như Chúa nhìn. Có người đã so sánh trái đất với một phi thuyền bay trong vũ trụ, trong đó một trong ba phi hành gia tiêu thụ 85% tài nguyên để mình dùng và âm mưu chiếm đoạt 15% tài nguyên còn lại.
***
Với việc Đức Giêsu Kitô đến, vấn đề người nghèo đã mang một chiều kích mới trong lịch sử. Thậm chí nó còn trở thành một vấn đề Kitô học. Đức Giêsu Nadaret đã đồng hóa mình với người nghèo. Đấng đã tuyên bố những lời sau đây khi chia sẻ bánh: “Này là Mình Thầy”, cũng đã nói những lời như vậy khi nói về người nghèo. Ngài đã nói những lời ấy khi mà, khi nói về những gì được làm hay không được làm cho kẻ đói khát, khách lạ, trần truồng, tù nhân, Ngài đã long trọng tuyên bố: “là các ngươi đã làm cho chính ta” và “là các ngươi đã không làm cho chính ta” (Mt 25, 31 tt). Trên thực tế, điều đó muốn nói lên rằng “người rách rưới, người xin chút bánh, người ngửa tay xin, chính là Ta.”
Tôi nhớ tới lần đầu tiên khi sự thật này “nổ tung” trong tôi với tất cả sự nguyên vẹn của nó. Tôi đang thi hành sứ vụ trong một nước thuộc thế giới đệ tam, và mỗi cảnh tượng lầm than mới mà tôi chứng kiến – một đứa trẻ ăn mặc rách rưới, bụng thõng, mặt mũi đầy ruồi nhặng, hoặc một nhóm nhỏ chạy theo chiếc xe chở rác, hy vọng kiếm được thứ gì đó từ bãi rác, hoặc một thân thể đầy thương tích – tôi nghe thấy vang lên trong tôi một giọng nói: “Này là Mình Thầy.” Đã có một cái gì đó khiến tôi khó thở.
Người nghèo cũng là một “đại diện Đức Kitô”, biểu thị Đức Kitô. Không phải theo nghĩa những gì họ làm như thể chính Đức Kitô đã làm, nhưng theo nghĩa những gì người ta làm cho người nghèo là như làm cho Đức Kitô. “là các ngươi đã làm cho chính Ta.”
Có một mối dây liên hệ rất chặt chẽ giữa Thánh Thể và người nghèo. Cả hai đều là Thân Thể Đức Kitô, theo cách khác nhau. Đức Kitô hiện diện trong Thánh Thể và nơi người nghèo. Thánh Gioan Kim Khẩu viết:
“Bạn muốn kính trọng thân thể Đức Kitô chăng? Đừng để Ngài bị khinh rẻ trong các chi thể Ngài, nghĩa là nơi các người nghèo, không có quần áo che thân. Đừng kính trọng Ngài trong nhà thờ với những vải vóc lụa là trong khi bạn để Ngài bên ngoài trời, chịu cảnh lạnh lẽo vì thiếu áo quần. Có lợi gì khi bàn của Đức Kitô đầy những bình bằng vàng trong khi chính Ngài chết đói nơi người nghèo? Tiên vàn, hãy cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, và sau đó mới trang hoàng bàn thờ bằng những gì còn lại[5].”
Vả lại, chính Đức Kitô qua các thế kỷ đã mau mắn xác nhận cách giải thích hẹp và thực tiễn về lời của Ngài: “là các ngươi đã làm cho chính ta.” Một ngày nọ, lúc Martinô còn là một binh sĩ đang là dự tòng, ở miền bắc Âu châu, nơi ông thực hiện nghĩa vụ quân sự, ông đã gặp một người nghèo không đủ áo quần đang run rẩy vì lạnh. Không có gì khác ngoài tấm áo choàng đang khoác trên vai, ông lấy gươm cắt nó ra làm đôi, đưa cho người ngheo một nửa. Đến đêm, Đức Kitô hiện ra, mặc đúng nửa tấm vải choàng mà ông đã chia cho, và tự hào nói với các thiên thần vây quanh như sau: “Martinô còn là dự tòng mà đã biết phủ Ta bằng mảnh áo choàng này[6].”
Thật sự người nghèo là chính Đức Giêsu sống trong người đó. Hơi giống với khi Ngài hiện ra sau khi sống lại dưới nhiều hình thức khác nhau – với Maria như một người giữ vườn, với các môn đệ Emmau như người khách bộ hành, với các tông đồ trên bờ hồ như một người qua đường – trong khi chờ đợi mắt họ mở ra. Người đầu tiên nhận ra khi ấy đã kêu lên: “Chúa đó!” (Ga 21,7) Ôi, chớ gì khi trông thấy một người nghèo, miệng chúng ta cũng có thể kêu lên mà nhận ra rằng: “Chúa đó”, Đức Giêsu đó!
***
Phải làm gì để thể hiện mối quan tâm của chúng ta đối với người nghèo, ít ra ở một mức độ nào đó? Người nghèo không cần những tình cảm tốt đẹp của ta, nhưng cần thấy việc làm. Thế nhưng chỉ những cử chỉ này thôi cũng sẽ chỉ làm cho lương tâm xấu của chúng ta được yên ổn. “Nếu ai có của cải thế gian và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu, mà chẳng động lòng thương, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa ở lại trong người ấy được? Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm.” (1Ga 3,17-18)
Những gì chúng ta phải làm cụ thể cho người nghèo có thể tóm gọn vào trong ba từ: loan báo Phúc Âm cho họ, yêu thương họ và giúp đỡ họ.
Loan báo Phúc Âm cho người nghèo: đó là sứ mệnh Đức Giêsu thừa nhận như là công việc tuyệt vời của mình (x. Lc 4,18) và Ngài giao phó việc ấy cho Giáo Hội. Chúng ta không được để cho lương tâm xấu của mình thúc đẩy chúng ta làm điều bất công lớn này là tước đi quyền được nghe tin mừng của những người lẽ ra là những người đầu tiên và tự nhiên nhất phải được nghe. Có lẽ chúng ta viện lý do như câu châm ngôn nói: “Bụng đói thì không có tai”.
Đức Giêsu đã làm cho bánh hóa ra nhiều thì cũng làm như vậy đối với lời. Thậm chí Ngài còn ban lời trước (có khi trong ba ngày liền), chỉ sau đó mới quan tâm tới bánh. Người nghèo không chỉ sống vì bánh, nhưng còn sống bằng hy vọng và bằng mỗi lời do miệng Thiên Chúa phán ra. Người nghèo có quyền thiêng thánh được nghe toàn bộ Phúc Âm, chứ không phải trong bản cô đọng, thích nghi và đôi khi bị chính trị hóa.
Ngày hôm nay họ cũng có quyền nghe tin mừng: “Phúc cho những ai nghèo khó”. Phải, dầu sao họ cũng được chúc phúc. Là vì, một “khả thể” vô hạn, bị cấm cản hoặc rất khó đạt tới đối với người giầu, lại được cống hiến cho họ: Nước Trời.
Yêu thương người nghèo: Yêu mến Đức Kitô và yêu thương người nghèo đáp ứng lẫn nhau. Một số người, như Charles de Foucault, khởi sự từ yêu mến Đức Kitô để đi đến chỗ yêu thương người nghèo. Có những người khác, như Simone Weil, khởi đi từ yêu thương người nghèo, ngươi vô sản để từ đó được dẫn tới chỗ yêu mến Đức Kitô.
Yêu thương người nghèo trên hết có nghĩa là kính trọng họ, thừa nhận phẩm giá của họ. Nơi họ phẩm giá căn bản nhất của con người chiếu tỏa ánh sáng rực rỡ nhất, chính vì họ không có bất cứ một tước hiệu danh giá nào, và những phân biệt thứ yếu nào.
Yêu thương người nghèo còn có nghĩa là xin họ tha thứ. Tha thứ vì đã không thật sự vui mừng đến gặp gỡ họ; vì những khoảng cách, dầu sao chúng ta cũng đã tạo ra giữa ta với họ; vì những nhục nhã họ liên tục phải chịu; tha thứ vì chúng ta chỉ tức giận cách thụ động trước bất công; vì sự mị dân mà chúng ta có đối với họ; vì mỗi người cho ý kiến của mình và như vậy cố gắng hợp pháp hóa sự thinh lặng của chúng ta. Tha thứ vì luôn dám chắc với sự chính xác toán học là không bi lừa gạt trước khi làm một cử chỉ nhỏ bé nhất cho họ. Tha thứ vì không thừa nhận nơi họ một nhà tạm sống động của Đức Kitô nghèo khó và bị khinh rẻ; vì không ở trong số họ.
Hơn nữa, người nghèo không chỉ đáng cho ta thương cảm, thương xót, họ còn đáng cho ta thán phục. Họ là những nhà vô địch về nhân bản. Mỗi năm người ta trao giải Nobel, những huy chương vàng, bạc, đồng cho người xứng đáng hoặc chiến thắng trong cuộc tranh tài chỉ vì một số người có khả năng chạy nhanh hơn trong cuộc đua một trăm mét, hai trăm mét hay bốn trăm mét vượt rào, hoặc nhảy cao hơn người khác một phần trăm mét, hoặc chiến thắng trong cuộc đua maratông hoặc cuộc lượn xuôi trên tuyết. Nhưng nếu chú ý đến những cú nhảy chết người, tới sức chịu đựng, tới những cuộc lượn xuôi mà người nghèo có khả năng làm, không chỉ một lần, nhưng kéo dài cả cuộc đời, thì những màn trình diễn của các lực sĩ giỏi nhất dường như chỉ là những trò không đáng kể.
Cuối cùng là cứu giúp người nghèo. Thánh Giacôbê viết: “Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: ‘Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no’, nhưng lại không cho họ những thứ thânxác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì? Cũng vậy, đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2,15-17). Trong ngày phán xét, Đức Giêsu sẽ không nói: “Ta mình trần, các ngươi đã thương xót số phận của ta” nhưng “Ta mình trần, các người đã cho mặc.”
Ngày nay, thuần túy bố thí không còn đủ nữa, ngay cả khi không có gì miễn cho chúng ta làm tất cả những gì có thể, thậm chí bằng cách cho ít tiền. Điều phải làm ngày nay, chính là một chiến dịch mới, một sự huy động tất cả Kitô giới và thế giới dân sự trong mọi mặt để giải phóng những ngôi mộ sống của Đức Kitô là hàng triệu người chết vì đói khát, bệnh tật, kiệt sức. Đó sẽ là một cuộc thập tự chinh đúng nghĩa, cuộc thập tự chinh của Đức Kitô. Hủy bỏ hay giảm thiểu hố sâu bất công và gây gương mù giữa người giầu và người nghèo trên thế giới là nhiệm vụ cấp bách nhất (và quan trọng nhất) mà thiên niên kỷ đang qua đi để lại cho thiên niên kỷ sắp bắt đầu.
Không phải Thiên Chúa mà chúng ta trách giận khi thấy thế giới lầm than, nhưng là trách giận chính chúng ta. Có một hôm tôi đọc thấy chuyện một người có hành vi tức tối và nổi loạn khi thấy một đứa bé gái đang rét cóng và khóc vì đói. Người này kêu trách: “Hỡi Thiên Chúa, Ngài ở đâu vậy? Sao Ngài không làm gì cho đứa bé vô tội này?” Nhưng một tiếng nói bên trong trả lời ông: “Chắc chắn Ta đã làm điều gì đó cho con bé. Ta đã tạo dựng nên ngươi.”
***
Một Thánh vịnh tuyên bố là có phúc những ai quan tâm đến số phận của người nghèo: “Beatus vir qui intelligit super egenem et pauperem – Phúc thay kẻ lưu tâm đến người nghèo khổ” (Tv 41,1). Và một phúc lành rút ra từ bản Phổ Thông được kêu cầu cho người đó: “Dominus conservet eum, et vivificet eum, et beatum faciat eum in terra – Chúa bảo vệ và giữ gìn mạng sống họ, và ban cho họ hạnh phúc trên đời.”
Trong Giáo Hội công giáo, lời kêu cầu này trở thánh một kinh nguyện phụng vụ chính thức cầu cho Đức Giáo Hoàng, pro Summo Pontifice. Các cha và anh em kính mến, cho phép tôi đọc lại lời kinh này để kết thúc bài suy niệm về những người nghèo.
Chính những người nghèo, thông qua tôi, cảm ơn và chúc tụng trong ngày hôm nay, khi chúng ta tưởng niệm cuộc Khổ Nạn của Đức Kitô đang diễn ra nơi họ. Không ai trên thế giới xứng đáng hơn Đức Giáo Hoàng lời chúc tụng này, vọt lên từ tâm hồn những nghười nghèo. Gương của ngài không cho phép một ai, ở trong hay ở ngoài Giáo Hội, được yên hàn trong sự ích kỷ và thờ ơ của mình, trước vô số những người thua thiệt trên trái đất, “Dominus conservet eum, et vivificet eum, et beatum faciat eum in terra - Chúa bảo vệ và giữ gìn mạng sống ngài, và ban cho ngài hạnh phúc trên đời.”
[1] “Passio Domini usque in finem producitur mundi”, Lêô Cả, Sermon 70, 5 (PL 54, 383).
[2] B. Pascal, Pensées, 553, Br.
[3] ĐGH Gioan Phaolô II, thông điệp Sollicitudo rei socialis, số 42.
[4] Phaolô VI, tông huấn Evangelica testificatio, 17 tt ; trong EV 4, tr. 649 tt.
[5] Gioan Kim Khẩu, Homélies sur Matthieu 50, 3-4 (PG 58, 508 tt).
[6] S. Severo, Vita Martini, 3. Mandadori, Milano 1975, tr. 13 tt.